Hôn nhân của người Thái: Từ nhận thức đến hành vi ứng xử
Bạn đang xem tài liệu "Hôn nhân của người Thái: Từ nhận thức đến hành vi ứng xử", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
hon_nhan_cua_nguoi_thai_tu_nhan_thuc_den_hanh_vi_ung_xu.pdf
Nội dung text: Hôn nhân của người Thái: Từ nhận thức đến hành vi ứng xử
- Hôn nhân của người Thái: từ nhận thức đến hành vi ứng xử Lê Hải Đăng* Tóm tắt: Ở Việt Nam, tộc người Thái có phong tục, tập quán phong phú và đa dạng. Hôn nhân của người Thái trong xã hội truyền thống chứa đựng nhiều giá trị văn hóa; gồm nhiều nguyên tắc, nghi thức và nghi lễ độc đáo đánh dấu mốc lớn trong chu kỳ đời người. Các nghi lễ cưới xin hàm chứa nhiều giá trị về đạo đức, tâm lý, tình cảm, hành vi ứng xử xã hội; là dịp để các thành viên trong cộng đồng thắt chặt mối quan hệ họ hàng, láng giềng. Điều đó được minh chứng qua những tục lệ tốt đẹp, mang tính nhân bản. Từ khóa: Người Thái; hôn nhân; nhận thức; ứng xử. 1. Mở đầu nhiều con. Hôn nhân ở người Thái dựa trên Người Thái ở Việt Nam là một trong tình yêu của đôi trai gái, đặc biệt dựa trên những tộc người thiểu số có truyền thống sự đồng thuận giữa hai gia đình. Điều này văn hóa độc đáo, cư trú chủ yếu ở các tỉnh còn vượt lên trên cả sự đồng thuận của đôi Tây Bắc và miền tây tỉnh Thanh Hóa, Nghệ nam nữ, bởi đó không chỉ là việc riêng của An. Người Thái tập trung đông nhất ở ba đôi trẻ mà còn liên quan mật thiết đến cả tỉnh Sơn La, Thanh Hóa và Nghệ An gia đình, dòng họ, đặc biệt đến chuyện (70,5%) [4]. Trong quá trình phát triển lịch “nối dõi tông đường”, thờ cúng tổ tiên. sử, người Thái ở nhiều nơi trên đất nước ta Như vậy, hôn nhân của người Thái dựa đã hình thành đời sống văn hóa phong phú, trên tình yêu của đôi lứa, nhưng có sự tạo ra những sự khác biệt ở các nhóm địa đồng ý của bố mẹ hai bên gia đình và được * phương. Bài viết này làm rõ một số quan đôi trẻ đề cao. niệm, nhận thức và hành vi ứng xử của Chế độ hôn nhân của người Thái là một người Thái về các vấn đề liên quan đến đời vợ một chồng, tuân thủ quy định của luật sống hôn nhân. tục. Người dân cho biết nếu ai vi phạm sẽ bị 2. Nhận thức của người Thái về hôn nhân phạt vạ, không có trường hợp ngoại lệ, bất kể đó là con cái hay người thân của chủ Cũng như các tộc người khác, người Thái quan niệm hôn nhân là quy luật của mường (Chẩu mường), chủ đất (Chẩu đin). đời sống xã hội để tái sản xuất sức lao động và nối dõi dòng giống. Ngoài ra, kết (*) Tiến sĩ, Viện Thông tin Khoa học xã hội. Viện hôn còn để sinh con - điểm tựa cho bố mẹ Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. ĐT: khi về già, và đặc biệt để tăng thêm thế lực 0912151915. Email: lehaidang74@gmail.com. Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ Phát triển cho dòng họ. Bởi quan niệm truyền thống Khoa học và Công nghệ Quốc gia (Nafosted) trong như vậy nên gia đình của họ thường có đề tài mã số: IV2.2-2013.14 83
- Lê Hải Đăng Hôn nhân không chỉ là “chất xúc tác”, gắn sản xuất ra của cải vật chất, đáp ứng nhu kết hai con người, hai gia đình mà còn có cầu ăn, mặc trong gia đình. vai trò liên kết các dòng họ, tạo nên một Hình thức của phụ nữ, tuy không phải liên minh, thế lực trong cộng đồng bản là tiêu chí hàng đầu, song lại là yếu tố mà mường. Rất hiếm thấy trường hợp một các chàng trai luôn để ý. Họ cho rằng sức người đàn ông mà có nhiều vợ. Tuy nhiên, khỏe và sắc đẹp là do thiên phú, nhưng đôi khi cũng có người lấy vợ lẽ; đó là phẩm chất cần cù, siêng năng, tháo vát trường hợp hi hữu, khi mà người vợ cả cũng như sự ứng xử khéo léo là do truyền không thể sinh con. thống và giáo dục gia đình. Hơn nữa, Hôn nhân cần phải thể hiện sự trọng thị những phẩm chất đó còn được rèn luyện, giữa nhà trai và nhà gái; vì thế mới xuất thử thách trong cuộc sống hằng ngày. Đôi hiện vai trò của vợ chồng ông bà mối (xoọc khi các bậc cha mẹ có thể châm chước, bỏ lạm) - người am hiểu phong tục tập quán, qua những điểm chưa được để quyết định biết làm mát lòng, mát mặt cả hai họ bằng việc hôn nhân cho con cái. Những tiêu chí tài ăn nói và cũng là người điều hành các trên thể hiện quan niệm của người Thái về nghi lễ. Cùng với xoọc lạm, người Thái còn những phẩm chất lý tưởng của người làm đặc biệt đề cao quyền của ông cậu vợ, làm chồng và làm con trong gia đình. (avunculat) trong các quyết định dẫn tới Có lẽ, đó cũng là ước mơ của hầu hết các hôn nhân và chỉ đạo, điều hành hôn lễ. tộc người, bởi nó hội tụ đủ các yếu tố sức Khi chọn vợ, chọn chồng, người Thái khỏe, đạo đức và công việc. không chỉ xem xét điều kiện kinh tế của gia Trong xã hội truyền thống, người Thái đình sẽ kết thông gia mà còn quan tâm đến đã hình thành bộ luật tục gồm nhiều điều phong cách sống và đạo đức của họ. Thông quy định rất cụ thể và chặt chẽ liên quan thường, khi chọn vợ, người đàn ông để ý đến mọi mặt đời sống, trong đó có những xem hoàn cảnh kinh tế của gia đình nhà vợ điều xử phạt nặng đối với các trường hợp thế nào, anh em họ hàng ra sao. Hơn tất cả, chửa hoang, ngoại tình, ly dị, loạn luân họ đặc biệt lưu tâm đến sức khỏe, tính siêng Ví dụ, bị bắt quả tang ngoại tình, phạt cả năng, cần cù, khéo léo, hiền hậu và sự nam lẫn nữ hai nén bạc trắng cùng với một chung thủy của người mà mình sẽ lấy làm con lợn để tẩy uế cho bản. Gái chửa hoang, vợ. Khi gả con gái, gia đình bên vợ cũng phạt 15 lạng bạc; đàn bà góa có chửa với muốn kén những chàng rể khỏe mạnh, tháo trai tân hay gái tân có chửa với đàn ông vát trong việc ruộng nương. Sức khỏe là góa, phạt hai nén bạc [1, tr.28]. yếu tố hàng đầu trong những tiêu chí chọn Trong hôn nhân của người Thái, những vợ, chọn chồng của đồng bào nơi đây. Hơn tàn dư mẫu hệ còn sót lại được biểu hiện ở nữa, ở người Thái, hoạt động kinh tế chủ vai trò của ông cậu, hay còn gọi là quyền yếu mang tính tự cấp tự túc, kinh tế thị ông cậu. Ở các lễ dạm hỏi, nhất thiết phải trường tuy cũng tác động ít nhiều nhưng có người này và ngày cưới phải có mâm không đáng kể, bởi vậy người vợ có vai trò cơm biếu riêng. Trong hôn nhân truyền rất quan trọng trong việc nội trợ cũng như thống, bố mẹ đẻ của cô dâu chỉ được xem là 84
- Tạp chí Khoa học xã hội Viêt Nam, số 7(104) - 2016 chẩu côn - nghĩa là chủ người, còn chẩu côn noóc họ). Đây là nguyên tắc đề cao văn - nghĩa là chủ hồn lại là ông cậu, bởi vì tính huyết thống trong hôn nhân, là khi cô dâu mới lọt lòng mẹ thì chính ông nguyên tắc phổ biến của nhân loại, được hình thành từ lâu đời và ở người Thái, nó cậu là người đặt tên, làm vía cho cháu gái. được quy định trong luật tục; tuân thủ Số tiền cá hua như đã mô tả ở trên cũng do nguyên tắc đó là điều bắt buộc đối với mỗi ông cậu quyết định. Tuy nhiên, do chế độ thành viên của cộng đồng. Ngoại hôn dòng phụ quyền ở người Thái đã được củng cố, họ có mục đích là duy trì sự khỏe mạnh nên ngày nay, vai trò của ông cậu ít nhiều của giống nòi - mấu chốt của sự phát triển mờ nhạt dần trong hôn nhân. và trường tồn về khía cạnh sinh học của một tộc người. Khoa học ngày nay đã 3. Ứng xử của người Thái trong hôn nhân chứng minh rằng, ở những trường hợp Ở cộng đồng người Thái, nhận thức về hôn nhân cận huyết, tỉ lệ trẻ bị dị tật bẩm hôn nhân là một quá trình hình thành, sàng sinh về cơ thể cũng như tinh thần là rất cao. Chính vì thế, cho đến nay, nguyên lọc và đúc kết từ những biểu hiện cụ thể của tắc này vẫn được người Thái coi trọng và đời sống hàng ngày. Gia đình là tế bào của tuân thủ một cách nghiêm ngặt. xã hội, hôn nhân là cơ sở tạo nên một gia đình. Một xã hội tồn tại và phát triển bền 3.2. Hôn nhân thuận chiều vững một phần dựa trên chế độ hôn nhân Đây là nguyên tắc cơ bản thứ hai trong được xây dựng một cách vững chắc. Trải hôn nhân của người Thái. Trường hợp lấy qua quá trình hình thành và phát triển, mỗi ngược lại bị coi là vi phạm luật tục; và sự vi tộc người đều trải nghiệm và đúc kết thành phạm đó được gọi là táo hua mu - quay đầu nguyên tắc hôn nhân phù hợp với văn hóa lợn. Nguyên tắc này được diễn đạt như sau: và đạo đức của tộc người đó. Tuy nhiên, nếu con trai của dòng họ A lấy con gái của cuộc sống thì muôn hình vạn trạng, luôn dòng họ B thì con trai của dòng họ B không biến đổi. Đặc biệt, những vấn đề liên quan được lấy con gái của dòng họ A mà chỉ được đến hôn nhân diễn ra trên thực tiễn thì vô lấy con gái của dòng họ C. Cũng như thế, con cùng sinh động. Điều đó buộc cộng đồng trai của dòng họ C không được phép lấy con người Thái xây dựng nên quy ước ứng xử gái của dòng họ B nữa mà chỉ được lấy vợ là vừa nghiêm khắc, chặt chẽ để duy trì sự ổn người ở dòng họ A. Đây chính là cơ sở để định và tính bền vững văn hóa cộng đồng hình thành ba mối quan hệ họ hàng cơ bản: ải nhưng cũng phải có sự mềm dẻo, nhân văn noọng - lúng ta - nhính xao. Mối quan hệ này đối với những trường hợp khác biệt để gia được diễn đạt như sau: tăng tính liên kết gia đình, dòng họ, cố kết Nếu con trai của nhóm ải noọng A lấy cộng đồng. Những ứng xử đó được người con gái của nhóm ải noọng B; con trai của Thái gọi là luật tục, gồm các nguyên tắc mà nhóm ải noọng B lấy con gái của nhóm ải mỗi thành viên cộng đồng đều có ý thức gìn noọng C; con trai của nhóm ải noọng C giữ và tuân theo. lấy con gái của nhóm ải noọng A, thì các 3.1. Ngoại hôn dòng họ mối quan hệ trên sẽ được biểu thị: A là Đối với người Thái, nguyên tắc cơ bản nhính xao của B, còn B là lúng ta của A trong hôn nhân là ngoại hôn dòng họ (au (quan hệ A - B); B là nhính xao của C, 85
- Lê Hải Đăng còn C là lúng ta của B (quan hệ B - C); C giữa các dòng họ quý tộc và chức dịch của là nhính xao của A, còn A là lúng ta của người Thái khác nhau, nên vấn đề môn C (quan hệ C - A), (Hình 1). đăng hộ đối luôn được đặt ra khi tính chuyện hôn nhân, nếu có hôn nhân giữa dòng họ quý tộc và dân thường thì cũng chỉ B là sự ban ơn vì lý do nào đó. Trong trường hợp này, các gia đình quý tộc Thái ứng xử mềm dẻo để bảo toàn thanh danh cho mình bằng cách phong cho bố cô gái một chức A dịch nho nhỏ nào đó. C Căn cứ vào các quy ước hôn nhân truyền Hình 1: Quan hệ hôn nhân thống, có thể thấy, hành vi ứng xử trong hôn nhân của người Thái biểu hiện tính chất Quan hệ lúng ta - nhính xao là quan hệ mua bán. Điều này được chứng minh qua dựa trên tuyến hôn nhân, do hôn nhân mang các nghi lễ, nghi thức. Ví dụ như trong các lại. Thông thường, con gái bên lúng ta là nghi lễ đi thăm tháng, vấn đề được đưa ra đối tượng hôn nhân của con trai bên nhính trao đổi, bàn bạc nhiều nhất chính là việc xao. Một mặt, ta thấy A, B, C là những định giá người con gái (cá hua), nghĩa là nhóm ải noọng sống trong một bản hoặc giá đầu người. Tuy nhiên, có phân biệt giữa các bản khác nhau; mặt khác, không phải con gái quý tộc và dân thường: Nang hà, xà bao giờ các nhóm ải noọng A, B, C này xam (con gái quý tộc thì tối thiểu phải năm cũng trao đổi hôn nhân với nhau trong nén bạc trắng, còn con gái dân thường, phạm vi cùng bản mà thường có xu thế mở người nghèo tối đa là ba nén bạc trắng). rộng phạm vi sang các bản lân cận với Đây là mức quy định chung, nhưng trong những nhóm ải noọng khác nữa. Do vậy, A, thực tế, sự xê dịch lên xuống nhiều hay ít B, C vừa là ải noọng, lúng ta vừa là nhính lại tùy thuộc vào thỏa thuận của hai gia xao của nhau trong cùng một bản và cũng đình. Một nén bạc trắng thường có trọng có mối quan hệ như thế đối với các bản lượng từ 270g đến 310g. Ngoài việc căn cứ khác. Chính quan hệ đó đã hình thành nên vào địa vị xã hội, thế lực kinh tế của nhà mối quan hệ thân tộc và thích tộc chồng trai để định đoạt, đôi khi tiền cá hua nhiều chéo nhau trong các dòng họ ở cùng một hay ít còn dựa theo của hồi môn mà cô gái bản và các bản lân cận. Minh chứng cho mang về nhà chồng (của hồi môn mà bố mẹ điều đó, người Thái có câu: Bỏ ải mi noọng, và họ hàng chuẩn bị cho cô gái khi về nhà bỏ lúng ta, mi nhính xao (Không phải anh chồng gồm: chăn, đệm, gối, màn, vải vóc, cũng là em, không phải anh em bên rể cũng áo váy, đồ trang sức ). Giá trị của những là anh em bên vợ, bên bà). của hồi môn này thường được tính bằng tầng (hạn), hai tầng (xoong hạn), ba tầng 3.3. Thách cưới (xam hạn), bốn tầng (xí hạn). Trong xã hội Thái cổ truyền, con trai của Như vậy, trong xã hội truyền thống của những dòng họ quý tộc ít khi kết hôn với người Thái, đôi khi nhận thức và hành vi các cô gái dân thường. Do vai trò và địa vị trong hôn nhân có sự mâu thuẫn giữa tình 86
- Tạp chí Khoa học xã hội Viêt Nam, số 7(104) - 2016 yêu tự do nam nữ và tính phụ quyền gia miếng trầu lên miệng chõ đồ xôi, ngụ ý báo trưởng, thể hiện qua việc mua bán cũng như cho cha mẹ biết mình đã trốn theo người những định chế ngặt nghèo của tập quán yêu. Về đến nơi, đôi trẻ quỳ lạy cha mẹ của pháp. Lúc này, hôn nhân không phản ánh chàng trai và chàng trai xin phép cha mẹ kết quả của tình yêu đôi lứa, bởi ngoài tình yêu, việc nên vợ thành chồng của đôi trẻ làm lễ cúng tổ tiên. Mâm cúng tổ tiên được còn phải tùy thuộc vào các yếu tố khác, đặc nhanh chóng chuẩn bị, rồi được bày biện biệt phụ thuộc vào quyền quyết định của trước bàn thờ cùng với áo của người con cha mẹ. Trên thực tế đã có không ít cô gái gái. Gia chủ cúng báo tổ tiên rằng hôm nay tự tử do sự phản đối của cha mẹ. Tuy nhiên, gia đình làm lễ nhập ma nhà cho con dâu, để tìm cho mình một lối thoát, người Thái từ nay cô gái này là con cháu trong nhà, có cách ứng xử vượt ra ngoài quy định; đó mong tổ tiên chấp nhận và phù hộ cho đôi là “tục trộm vợ” (lặc mia) như ở một số tộc người khác. trẻ hạnh phúc, sinh nhiều con và gặp nhiều may mắn. 3.4. Hôn nhân đặc biệt Cũng trong đêm hôm đó, chàng trai phải 3.4.1. Hôn nhân từ tục trộm vợ (lặc mia) mang một gói trầu cau sang nhà cô gái, tìm Thứ nhất, trộm vợ có sự thỏa thuận cách đặt lên cầu thang hoặc treo gần đó để sáng hôm sau, cha mẹ cô gái tỏ tường. Hai người yêu nhau và muốn nhanh Ngay hôm sau, nhà trai nhờ ông mối đại chóng thành vợ thành chồng, nhưng theo diện mang ít lễ vật sang nhà gái thưa tập quán của người Thái, để tiến đến hôn chuyện, xin nhà gái cho chàng trai đến ở rể nhân cần trải qua một thời gian khá dài với hoặc chọn ngày tốt tổ chức lễ cưới. Khi sự nhiều nghi lễ như đã trình bày ở trên. Bởi đã rồi, thường thì nhà gái buộc phải đồng ý vậy, muốn “đốt cháy giai đoạn”, sớm được cho nhà trai chịu phạt vạ một khoản tiền. về ở với nhau, đôi trai gái bàn bạc tổ chức Sau đó, nhà trai mang một con lợn (mu), trộm vợ. Đôi khi, đôi lứa muốn tiến đến hôn đôi gà (xoong cáy), rượu (lảu) đến làm vía nhân nhưng do nhà trai quá nghèo không cho bố mẹ cô gái. Trường hợp này, đám cưới thể theo tập quán; trong trường hợp này, cô tổ chức đơn giản bên nhà gái. Sau khi đón gái sẽ mở cho người mình yêu “lối thoát”, dâu về thì làm lễ cúng tổ tiên bên nhà trai một đó là trộm vợ để hai người có thể sớm lần nữa với sự chứng kiến của anh em họ thành vợ chồng. hàng là xong. Tục trộm vợ thường diễn ra vào lúc xẩm Thứ hai, trộm vợ không có sự thỏa thuận tối. Buổi tối sau khi ăn cơm xong, cô gái xin phép cha mẹ đến nhà bạn chơi (để được Người con trai đem lòng yêu quý cô gái ra ngoài). Trong khi đó, chàng trai rủ thêm nào đó mà không được đáp lại tình cảm, vài người bạn thân đến chỗ đã hẹn với cô bèn tìm cách “trộm vợ” để có được cô gái. gái, khi đi ngang qua đó, cô gái “bị” những Có người rủ vài người bạn đón lõng cô gái người này bắt, đưa về nhà chàng trai. Trước đi làm nương hay đi lấy củi trên rừng về khi ra khỏi nhà, cô gái kín đáo mang vài bộ muộn rồi cưỡng chế cô về nhà mình. Có váy, áo (đã lặng lẽ chuẩn bị từ trước) và đặt người thì nhờ bạn gái của cô ấy rủ đi chơi, 87
- Lê Hải Đăng khi ngang qua nhà người con trai đó, cô Sau khi ly dị, họ khó có cơ hội đi bước nữa, bạn kiếm cớ để cô gái ấy cùng vào nhà. mà đa phần là ở vậy nuôi con. Người đàn Khi cô gái đã ở trong nhà, người nhà ông bỏ vợ cũng bị người dân coi thường, dù nhanh chóng chuẩn bị rượu, trầu cau và gà có dễ dàng hơn trong việc đi bước nữa luộc (nếu kịp), sau đó, họ lấy chiếc khăn nhưng cũng khó lấy được một người thật sự của cô gái đặt vào mâm lễ để cúng tổ tiên hoàn hảo trong cộng đồng mình. nhà chàng trai. Gia chủ khấn báo tổ tiên Hôn nhân giữa những người đã ly hôn có rằng cô gái này sẽ là con dâu của gia đình, nhiều điểm khác biệt về cách ứng xử với mong tổ tiên chấp nhận. Khấn xong, người một đám cưới thông thường. Những ứng xử ta yêu cầu cô quỳ lạy tổ tiên và bố mẹ đó biểu hiện rõ nét trong nghi lễ, nghi thức. chàng trai. Trường hợp này, hầu hết các cô Mọi thủ tục được giảm thiểu tối đa. Người gái đều cự tuyệt, vì thế một người bên nhà ta chỉ đến thăm gia đình nhà gái một lần để trai lấy tay ấn đầu cô gái xuống. Lễ nhập bàn chuyện cưới. Tuy vẫn nhờ người làm ma nhà xong, nhà trai chuẩn bị đồ lễ để mối nhưng các nghi lễ ăn hỏi hay còn gọi là hôm sau sang nhà gái xin cưới. đi thăm tháng không được thực hiện. Trước đây, những người đàn ông của Thường thì với những đám cưới kiểu này, dòng họ làm tạo thường tự cho mình quyền đôi lứa đã quen biết và tự trao đổi, thống lấy nhiều vợ. Khi tạo đã thích cô gái nào thì nhất mọi việc và tự quyết định là chính, còn tìm mọi cách để đưa cô gái đó về làm vợ. hai bên gia đình gặp nhau cốt để biết mặt Tục trộm vợ cũng là cách để tạo thực hiện hoặc để thống nhất lại. Đám cưới chỉ là một mong muốn của mình. Tạo thường cho nghi lễ nho nhỏ để báo cáo tổ tiên và mời người cướp cô gái về nhà, mổ lợn, gà để một số anh em, họ hàng, bạn bè và người cúng tổ tiên và trong trường hợp này, các cô thân quen trong bản đến uống rượu, chứng gái thường phải cam chịu làm vợ của tạo vì kiến thời khắc họ nên vợ thành chồng. nếu không, gia đình cô sẽ bị tạo gây khó dễ. Trường hợp đàn ông chưa vợ mà lấy phụ Trong cả hai trường hợp, đám cưới chỉ diễn nữ góa thì chỉ cần nhờ người làm mối đến ra bên nhà trai. Trước hôm cưới, nhà trai thưa chuyện, sau đó tổ chức đón dâu đưa về mang đùi lợn và một nén bạc trắng sang bồi nhà trai làm lễ cưới. Trong lễ cưới phải thường cho nhà gái. cúng báo ma nhà và nói rõ với tổ tiên là Hiện nay tục trộm vợ không có sự thỏa người sắp về làm dâu đã từng nhập ma nhà thuận là việc làm phạm pháp tuy không chồng trước. Tục này có từ lâu đời. Theo nhiều nhưng vẫn còn tồn tại. quan niệm của bà con nơi đây, khi chết, người đàn ông này sẽ phải ở một mình 3.4.2. Hôn nhân của những người ly hôn trong thế giới tổ tiên (đẳm), bởi vì người Mặc dù với người Thái, ly hôn là một đàn bà đó đã là ma của nhà chồng trước, kết cục xấu và bị chê cười, nhưng hiện linh hồn bà sau khi chết sẽ tìm về với người tượng đó đôi khi vẫn xảy ra. chồng đầu tiên. Nếu không may gia đình đôi ngả thì thiệt Hay hôn nhân giữa những người góa thòi phần nhiều nghiêng về người phụ nữ. cũng được bà con coi là chuyện bình 88
- Tạp chí Khoa học xã hội Viêt Nam, số 7(104) - 2016 thường. Tuy nhiên, trong trường hợp này, trấn hay một vài bản xung quanh thị trấn, các nghi thức trong hôn nhân không tuân bởi ở những khu vực này rất đông người thủ đầy đủ như đối với trai tân lấy gái tân Kinh sinh sống. Đám cưới thường diễn ra mà đơn giản hơn nhiều. Nếu hai người đã theo tập quán của người Kinh, gồm lễ dạm quyết định tiến tới hôn nhân, nhà trai cũng ngõ, lễ ăn hỏi và lễ cưới, tuyệt nhiên nhờ ông bà mối đến nhà gái thưa chuyện và không còn các lễ đi thăm nhà gái theo đặt vấn đề cưới, chứ không tổ chức ăn hỏi tháng Tuy nhiên, nhà trai vẫn phải tuân nữa. Khi tổ chức đám cưới, phải thực hiện theo một số tập quán của người Thái như nghi thức cúng tổ tiên với bài cúng riêng. phải mời người làm mối đến dạm hỏi, đồ sính lễ khi đi hỏi và xin cưới phải có 3.4.3. Hôn nhân khác tộc người (ngoại những chiếc khăn, áo, váy truyền thống hôn tộc người) của người Tày Mường. Bên cạnh đó, tục Hiện nay, hôn nhân giữa các nhóm Thái đón dâu vào lúc một giờ sáng vẫn được rất phổ biến. Bên cạnh đó, còn có những nhà gái yêu cầu thực hiện. cuộc hôn nhân giữa người Thái với người Ở một số gia đình có thành viên kết hôn Kinh, Đan Lai Nhưng đặc biệt rất hiếm với người khác tộc đã nảy sinh sung đột văn thấy trường hợp hôn nhân giữa người Thái hóa xoay quanh tập quán cưới xin. Chẳng với người Mông. Bà con giải thích, do hạn, gia đình nhà gái người Thái muốn nhà người Mông thường ở những bản trên cao, trai người Kinh phải mang lễ vật sang thăm họ chỉ xuống chợ để trao đổi hàng hóa hay nhà gái hằng tháng để thắt chặt mối quan hệ có việc liên quan đến thủ tục hành chính. giữa hai họ như đã phân tích ở trên; nhưng Họ hay đi theo nhóm, theo từng gia đình nhà trai lại không biết tục lệ đó. Thế nên, hoặc theo cặp đôi chứ ít khi đi riêng lẻ. Họ họ cảm thấy không được tôn trọng. Đó là sống khá khép kín, ít giao du với người cảm giác chung của một số gia đình Thái khác tộc. Chính những điều đó khiến cho làm thông gia với người Kinh. Nguyên việc kết hôn giữa người Mông và các nhóm nhân có thể do nhà trai khác tộc nên không Thái rất hạn chế. Tuy nhiên, về cơ bản, am hiểu tập quán của người Thái, hoặc do chúng tôi thấy sự giao thoa văn hóa diễn ra sống ở xa (huyện khác), điều kiện đi lại khó rộng khắp không chỉ ở miền xuôi mà còn khăn, không thể qua lại hằng tháng như phổ biến ở miền núi, cả về chiều rộng lẫn vậy. Mặt khác, với người Kinh, hai nhà chỉ chiều sâu. Qua đó có thể thấy nếp nghĩ cũ qua lại khi cần trao đổi về đám hỏi, đám đã thay đổi; quan niệm về tộc người làm cưới hoặc chỉ đến thăm nhau vào dịp lễ tết. chủ hay người đến sau gần như không còn Tục lệ Thái đưa dâu vào lúc nửa đêm, là vấn đề quan trọng. Mà căn bản là các tộc nhưng người Kinh lại chỉ đưa dâu vào ban người cùng chung sống, làm ăn và xây ngày; đó cũng là một trở ngại khó thống dựng vùng đất này ngày càng phát triển, nhất giữa hai họ, đón dâu. Hơn nữa, hình đem lại cuộc sống no đủ hơn. thức ở rể một thời gian không được phía Hôn nhân giữa con trai người Kinh với nhà trai đón nhận. Có thể nói, sự khác biệt con gái Thái chủ yếu diễn ra ở khu vực thị xuất phát từ văn hóa, tâm lý tộc người 89
- Lê Hải Đăng thường dẫn đến không ít khó khăn trong “sự giằng xé” giữa cái cổ truyền và cái việc sắp xếp, tổ chức các nghi lễ. Đôi khi, mới. Ấn tượng đầu tiên là cảm giác đầm đem lại cảm giác thiếu thoải mái, khó xử, ấm, đậm tình người, gắn bó cộng đồng thậm chí sứt mẻ tình cảm giữa hai gia đình. toát lên từ cảnh bà con trong bản vận trang phục truyền thống ngồi kín trên nhà 4. Kết luận sàn uống rượu chúc mừng gia chủ có dâu Hôn nhân của người Thái trong xã hội hiền rể thảo. truyền thống chứa đựng nhiều giá trị văn hóa. Hôn nhân gồm nhận thức và hành vi Tài liệu tham khảo ứng xử được xây dựng trên các nguyên tắc [1] Vi Văn An (1996), “Hôn nhân và tục lệ cưới và tâm lý tộc người. Các nghi thức, nghi lễ xin của người Thái ở miền núi Nghệ An”, Tạp trong hôn nhân độc đáo, đánh dấu mốc lớn chí Văn hóa dân gian, số 2. trong chu kỳ đời người. Các nghi lễ cưới [2] Artha Nantachuca (1998), Các giá trị văn hóa xin hàm chứa nhiều giá trị về đạo đức, tâm của người Thái ở miền núi Nghệ An, Luận án lý, tình cảm, ứng xử xã hội; là dịp để các Tiến sĩ, Trường Đại học Khoa học xã hội và thành viên trong cộng đồng thắt chặt mối Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. quan hệ họ hàng, láng giềng. Điều đó được [3] Lê Hải Đăng (2009), “Góp phần tìm hiểu văn minh chứng qua những tục lệ tốt đẹp, mang hóa của người Tày Mường ở Con Cuông, Nghệ tính nhân bản cao, như tập quán tương trợ, An qua một số nghi thức trong đám cưới”, Tạp giúp đỡ lẫn nhau trong mọi mặt đời sống. chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 1. Hiện nay, hôn nhân của người Thái là [4] Tổng cục Thống kê (2010), Tổng điều tra dân bức tranh đan xen giữa truyền thống và số và nhà ở Việt Nam năm 2009: Kết quả biến đổi; qua đó có thể dễ dàng nhận thấy toàn bộ, Nxb Thống kê, Hà Nội. 90



