Khai thác di sản văn hóa phi vật thể tại địa phương trong phát triển du lịch đồng bằng sông Cửu Long
Bạn đang xem tài liệu "Khai thác di sản văn hóa phi vật thể tại địa phương trong phát triển du lịch đồng bằng sông Cửu Long", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- khai_thac_di_san_van_hoa_phi_vat_the_tai_dia_phuong_trong_ph.pdf
Nội dung text: Khai thác di sản văn hóa phi vật thể tại địa phương trong phát triển du lịch đồng bằng sông Cửu Long
- Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trườ ng Đaị hoc̣ Cần Thơ Phần C: Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục: 43 (2016): 10-18 KHAI THÁC DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ TẠI ĐỊA PHƯƠNG TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG Cao Mỹ Khanh1 và Nguyễn Đức Toàn2 1Khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn, Trường Đại học Cần Thơ 2Khoa Sư phạm, Trường Đại học Cần Thơ ABSTRACT Thông tin chung: Ngày nhận: 22/10/2015 Over more than 300 years of development, the Mekong Delta maintains a Ngày chấp nhận: 23/05/2016 thickness of traditional cultural values of ethnic groups such as Kinh, Cham, Chinese, Khmer with nuances, characteristics delta's unique. The Title: cultural heritage in the MeKong Delta has not only educated human Exploiting intangible cultural personality but also promoted the roles, potentials and strengths in heritage to develop tourism tourism activities. The tangible cultural heritage and especially intangible in the Mekong Delta cultural heritage such as type of performing arts, customs, traditions, religious beliefs, cuisine, festivals, craft villages and so on are the core Từ khóa: elements making up the appeal and uniqueness to attract domestic and Di sản văn hóa, Di sản văn foreign tourists to the Mekong Delta. In this article, we will focus on hóa phi vật thể, tài nguyên du analyzing a number of intangible cultural heritages in the MeKong Delta lịch, Đồng bằng sông Cửu and propose some approaches to exploit more effectively in tourism Long activities, contribute to preservating and promoting intangible cultural values of the region. Keywords: TÓM TẮT Cultural heritage, Intangible cultural heritage, Tourism Trải qua hơn 300 năm hình thành và phát triển, Đồng bằng sông Cửu resources, MeKong Delta Long (ĐBSCL) hiện đang lưu giữ một bề dày giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc Kinh, Chăm, Hoa, Khmer với những sắc thái riêng, đặc trưng của vùng đồng bằng sông nước. Các di sản văn hóa (DSVH) ở ĐBSCL không chỉ có giá trị trong việc giáo dục tri thức, hình thành nhân cách con người mà còn đã và đang phát huy vai trò, tiềm năng, thế mạnh của mình trong hoạt động du lịch. Những DSVH, đặc biệt là DSVH phi vật thể như các loại hình trình diễn nghệ thuật, phong tục, tập quán, tôn giáo tín ngưỡng, ẩm thực, lễ hội, làng nghề đều là những yếu tố cốt lõi tạo nên sự hấp dẫn và độc đáo để thu hút du khách trong và ngoài nước đến với ĐBSCL. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi tập trung phân tích một số DSVH phi vật thể nổi bật ở ĐBSCL và đề xuất những phương hướng nhằm khai thác có hiệu quả trong hoạt động du lịch, góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể truyền thống của địa phương. Trích dẫn: Cao Mỹ Khanh và Nguyễn Đức Toàn, 2016. Khai thác di sản văn hóa phi vật thể tại địa phương trong phát triển du lịch ở Đồng bằng sông Cửu Long. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 43c: 10-18. 10
- Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trườ ng Đaị hoc̣ Cần Thơ Phần C: Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục: 43 (2016): 10-18 1 GIỚI THIỆU Tổng cục Thống kê Việt Nam năm 2011, tổng diện tích các tỉnh thuộc ĐBSCL là 40.548,2 km² và tổng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là một bộ dân số của các tỉnh trong vùng là 17.330.900 phận của châu thổ sông Mê Kông, có vị trí nằm người). Đây là vùng châu thổ phì nhiêu được bồi liền kề vùng Đông Nam Bộ, phía Bắc giáp đắp phù sa của dòng sông Tiền và sông Hậu, đất Campuchia, Tây Nam giáp Vịnh Thái Lan, phía đai màu mỡ, đồng lúa bạt ngàn, trái cây bốn mùa Đông giáp biển Đông. Hiện nay, ĐBSCL bao gồm trĩu quả, hệ thống sông rạch chằng chịt, đa dạng 13 tỉnh, thành phố: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, sinh học cao với các khu rừng nguyên sinh, đất Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Sóc Trăng, ngập nước đặc biệt khí hậu nắng ấm quanh năm, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà không bão tố nên rất thuận lợi để phát triển du lịch, Mau và Thành phố Cần Thơ. Diện tích tự nhiên bởi du khách có thể đến tham quan thời gian nào của vùng gần 40.000 km2 với hơn 17 triệu dân, cũng được. chiếm 1/5 dân số của cả nước (Theo số liệu của Hình 1: Bản đồ hành chính ĐBSCL Nguồn: Tác giả, 2015 ĐBSCL được hình thành và phát triển trong của nhiều cộng đồng dân tộc anh em Việt, Hoa, hơn 300 năm, là nơi hội tụ những đặc trưng chung Khmer, Chăm Nhiều di sản của vùng không chỉ của văn hóa dân tộc, đồng thời cũng là nơi dung nổi tiếng trong nước mà còn được du khách quốc tế hợp và hình thành những đặc điểm rất riêng của biết đến như: Đờn ca tài tử; Lễ hội vía Bà Chúa Xứ vùng đất mới. Những giá trị văn hóa vừa phản ánh (An Giang); Lễ hội truyền thống Anh hùng dân tộc cái chung, vừa khẳng định tính riêng của vùng Nguyễn Trung Trực (Kiên Giang); Chợ nổi ở Cái được tích hợp qua thời gian đã trở thành di sản văn Răng (Cần Thơ); Nghề làm bánh xèo ở Bình Thủy hóa (DSVH), rồi tiếp tục được kế thừa, phát huy và (Cần Thơ) Nhiều di sản gắn liền với các huyền phát triển để trở thành bản sắc văn hóa vùng châu thoại, các sự kiện lịch sử như di tích miếu Bà Chúa thổ sông Cửu Long. Xứ, lễ hội Nghinh Ông, lễ hội Gò Tháp, lễ giỗ Bùi Hữu Nghĩa, Bên cạnh đó còn có một số di sản Trong quá trình khai phá và định cư ở ĐBSCL, nằm ở những vị trí có cảnh quan thiên nhiên đẹp các bậc tiền nhân đã để lại kho tàng DSVH bao như vịnh Hà Tiên (Kiên Giang), núi Sam (An gồm cả DSVH vật thể và DSVH phi vật thể phong Giang) Điều đó càng làm tăng thêm giá trị của di phú và đa dạng, in đậm dấu ấn tự nhiên và lịch sử sản. Sự đa dạng, phong phú của các DSVH chính của vùng đất này. Đây là nơi chung sống thuận hòa là cơ sở, là tiền đề tạo nên sự phong phú của các 11
- Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trườ ng Đaị hoc̣ Cần Thơ Phần C: Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục: 43 (2016): 10-18 sản phẩm du lịch. Trong đó, các DSVH phi vật thể 3.2 Tiềm năng khai thác DSVH phi vật thể của vùng được đánh giá là có nhiều lợi thế để đẩy ở ĐBSCL trong phát triển du lịch mạnh phát triển du lịch, đáp ứng nhu cầu đa dạng DSVH phi vật thể ở ĐBSCL là toàn bộ những của du khách. giá trị văn hóa tinh thần do con người tại địa 2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU phương đó sáng tạo, nó được lưu truyền và biến 2.1 Phương pháp thu thập và xử lý thông tin đổi qua thời gian, với một số quá trình tái tạo của đông đảo cộng đồng. Trong quá trı̀nh hınh̀ thành và Các tư liệu về DSVH phi vật thể ở ĐBSCL phát triển, cư dân ĐBSCL không chı̉ bảo tồn, lưu được thu thập từ các nguồn: sách, báo, các báo cáo giữ các giá tri ̣văn hóa của cha ông trên vùng đất khoa học, internet Các phương pháp so sánh, mớ i mà còn phát huy, sáng taọ nên các giá tri ̣văn đánh giá, tổng hợp được thực hiện để xử lý các hóa vô giá làm hành trang cho các thế hê ̣hôm nay, nguồn dữ liệu này nhằm tiếp nhận những thông tin, nhất là các giá tri ̣ DSVH phi vâṭ thể. Bên cạnh nhận định có giá trị và phù hợp với vấn đề nghiên DSVH vật thể, DSVH phi vâṭ thể ở ĐBSCL vô cứu. cùng phong phú và đa dạng thuộc các lĩnh vực. Cụ 2.2 Phương phá p khảo sá t thưc̣ tế thể: Việc khảo sát thực tế một số di sản phi vật thể 3.2.1. Văn hóa sông nước và chợ nổi nổi bật của ĐBSCL như lễ hội, làng nghề, chợ ĐBSCL là vùng đồng bằng châu thổ với hệ nổi giúp có những đánh giá xác thực về tiềm sống sông ngòi chằng chịt. Đặc điểm tự nhiên cũng năng cũng như thực trạng khai thác. Qua đó góp đã làm ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình hình thành phần làm những kiến nghị, đề xuất được hợp lý và nền văn hóa sông nước nơi đây. Phương thức diễn thiết thực. đạt của người dân chủ yếu là dùng những hình ảnh, 2.3 Phương pháp phỏng vấn hoạt động, tính chất có liên quan đến vùng sông Thực hiện phỏng vấn một số đối tượng: khách rạch để so sánh hoặc tạo ra lối nói ẩn dụ hoặc hoán du lịch, cán bộ, chuyên viên thuộc các sở, ngành và dụ. Chẳng hạn thay vì gọi là anh em rể thì người các công ty du lịch ở ĐBSCL. Từ đó có những dân gọi là anh em cột chèo; lớn và ròng dùng để phân tích, đánh giá nhằm đưa ra bức tranh chung chỉ chu kỳ của con nước cũng được dùng để hình về hiện trạng, cũng như có cơ sở xây dựng giải dung những giai đoạn thăng trầm của con người pháp cho việc khai thác DSVH phi vật thể trong Văn hóa sông nước còn thể hiện ở nét văn hóa hoạt động du lịch của vùng được hiệu quả hơn. miệt vườn. Vườn tược nơi đây được tập trung lại 3 NỘI DUNG NGHIÊN CỨU với nhau thành không gian rộng lớn thành những vườn cây trái xanh mướt với những loại trái đặc 3.1 Khái niệm DSVH phi vật thể trưng như: sầu riêng, nhãn, vú sữa, chôm chôm Theo Điều 4, Chương 1 Luật Di sản văn hóa Du lịch miệt vườn không phải là điều mới lạ đối (2013) “Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh với du khách người Việt nhưng lại rất hấp dẫn với thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và du khách nước ngoài bởi du lịch ở đây tập trung đi không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, vào khai thác thiên nhiên sông nước và đời sống văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, dân dã. Mùa nào thức ấy cùng với sự màu mỡ của không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế phù sa hai bờ sông Tiền, sông Hậu đã góp phần tạo hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nên sự nổi tiếng của cây trái nơi đây: Vĩnh Long nghề, trình diễn và các hình thức khác” (Luật Di với đặc sản bưởi Năm Roi, chôm chôm, long nhãn; sản văn hóa, 2013). Tiền Giang nổi tiếng với vú sữa Lò Rèn, sầu riêng Cái Mơn; hay thành phố Cần Thơ đậm đà với DSVH phi vật thể là một bộ phận của di sản những vườn dâu Hạ Châu Phong Điền Tận mắt văn hóa, là những sản phẩm tinh thần quý giá của ngắm nhìn những vườn cây trĩu quả, thưởng thức cộng đồng, dân tộc được gìn giữ và bảo tồn qua hương vị ngọt ngào thơm ngon của cây trái miền từng thời kỳ lịch sử. DSVH phi vật thể bao gồm sông nước, lắng nghe vọng cổ, cải lương đó tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật, chính là những sản phẩm du lịch đặc trưng và hấp khoa học, ngữ văn truyền miệng, diễn xướng dân dẫn trong các chương trình du lịch miền Tây. gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết và nghề thủ công truyền thống, tri thức về y, dược học cổ Văn hóa sông nước còn hình thành nên nét sinh truyền, về văn hóa ẩm thực, về trang phục truyền hoạt đặc trưng mà không nơi nào ở Việt Nam có thống dân tộc và những tri thức dân gian khác. được, đó là chợ nổi. Thăm chợ nổi, du khách mới 12
- Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trườ ng Đaị hoc̣ Cần Thơ Phần C: Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục: 43 (2016): 10-18 thấy được sự sung túc của đời sống nơi miền sông chúng thành những sản phẩm du lịch hấp dẫn, độc nước. Chợ là nơi mua bán thật sự của người dân đáo phục vụ cho du khách trong và ngoài nước. địa phương, họ đến để trao đổi sản vật Ghe 3.2.2 Nghề và làng nghề truyền thống xuồng được trang trí khác nhau theo từng địa phương và những người thương hồ treo sản vật ĐBSCL vốn có tiềm năng du lịch làng nghề. muốn bán tượng trưng trên các cây bẹo. Có nhiều ĐBSCL hiện có hàng trăm làng nghề truyền thống chợ nổi ở ĐBSCL được hình thành từ lâu đời và hay mới hình thành. Các làng nghề là nguồn tạo hiện nay đã được khai thác vào trong hoạt động du công ăn việc làm cho lao động tại chỗ đồng thời lịch như chợ nổi Cái Răng (Cần Thơ), chợ nổi Cái cũng là tài nguyên để hình thành nên sản phẩm du Bè (Tiền Giang), chợ nổi Phụng Hiệp (Hậu lịch. Các làng nghề truyền thống như làng kiểng Giang) Tạp chí du lịch Rough Guide (Anh) đã Mai vàng Phước Định (Long Hồ, Vĩnh Long), làng bình chọn chợ nổi Cái Răng là một trong 10 khu Hoa kiểng Vĩnh Thành (Chợ Lách, Bến Tre), làng chợ ấn tượng nhất thế giới, và được mô tả là điểm nghề tủ thờ Gò Công (Tiền Giang), làng dệt chiếu đặc biệt lạ mắt với các thuyền bán hàng “rực rỡ sắc Long Định, làng bàng buông Thân Cửu Nghĩa màu nhiệt đới”. Trang web youramazingplaces (Châu Thành, Tiền Giang) Một số làng nghề trở cũng đưa ra danh sách 6 chợ nổi đẹp nhất châu Á, thành điểm tham quan chính trong các chương trong đó có đề cập đến chợ nổi của khu vực trình du lịch tại địa phương, có thể kể đến làng ĐBSCL, mà chợ nổi Cái Răng là một điển hình nghề sản xuất nước mắm truyền thống Phú Quốc, ( làng hoa Sa Đéc (Đồng Tháp), làng nghề bánh tid=2041&id=155802). tráng Mỹ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc (Bến Tre), Các làng nghề này, ngoài uy tín thương hiệu truyền 3.2.1 Các lễ hội truyền thống thống, còn có một lực lượng lao động đông đảo có Lễ hội là một nét văn hóa đặc sắc, phản ánh đời tay nghề cao nên việc duy trì và phát triển làng sống tâm linh của mỗi dân tộc. Lễ hội là hình thức nghề có được sự phát triển ổn định. Bên cạnh đó, sinh hoạt văn hóa tập thể của nhân dân sau thời làng nghề bánh tráng, hay các cơ sở sản xuất kẹo gian lao động vất vả, hoặc là dịp để mọi người dừa, bánh, cốm ở Bến Tre, Tiền Giang cũng là hướng về một sự kiện lịch sử của đất nước, hoặc những điểm đến của khách du lịch. Họ không chỉ liên quan đến những sinh hoạt tín ngưỡng của nhân tham quan quy trình sản xuất, thẩm nhận các giá trị dân, hoặc chỉ đơn thuần là những hoạt động có tính văn hóa, mua sắm các sản phẩm đặc trưng nơi chất vui chơi, giải trí. Do vậy, lễ hội có tính hấp mình đến mà còn có cơ hội trải nghiệm để tạo ra dẫn cao đối với du khách. những sản phẩm này. Hiện nay, ĐBSCL có 1.234 lễ hội, trong đó lễ Mỗi làng nghề có một loại sản phẩm riêng biệt hội dân gian chiếm số lượng cao nhất 856 đặc trưng cho mỗi tỉnh trong vùng. Một số tỉnh ở (69,36%), 262 lễ hội tôn giáo (21,23%), 107 lễ hội vùng ĐBSCL có thể nắm bắt các cơ hội từ phát lịch sử cách mạng (8,67%) và 9 lễ hội khác triển du lịch địa phương, thu hút khách du lịch (0,72%) (Nguyễn Xuân Hồng, 2009). Một số lễ hội bằng các mặt hàng thủ công mỹ nghệ đặc biệt của cấp quốc gia tiêu biểu của vùng có thể kể đến như mình. Ngược lại khách du lịch cũng có thể giúp Lễ hội vía Bà chúa xứ Núi Sam (Châu Đốc, An quảng bá cho làng nghề thủ công truyền thống một Giang), lễ hội kỷ niệm anh hùng dân tộc Nguyễn cách rất hiệu quả. Trung Trực (Rạch Giá, Kiên Giang), Lễ hội Ngoài sự đóng góp về kinh tế, giải quyết việc Nghinh Ông (Cà Mau) Ngoài ra, với nét đặc sắc làm cho lao động nông thôn, là điểm đến trong các về văn hóa của mình, các dân tộc Hoa, Khmer, chương trình du lịch, làng nghề truyền thống Chăm cũng đa dạng về hệ thống lễ hội, tiêu biểu ĐBSCL hiện đang gìn giữ và phát huy những giá như Lễ hội Oc Om Bok, Lễ Sen Dolta và hội đua trị văn hóa - lịch sử về đất nước và con người vùng bò Bảy Núi của người Khmer, lễ Ramadan, Roya miệt vườn sông nước. của người Chăm, lễ cúng Bà Thiên Hậu của người Hoa 3.2.3 Các loại hình nghệ thuật trình diễn Kho tàng lễ hội phong phú và độc đáo của các Các loại hình nghệ thuật trình diễn không chỉ dân tộc ở ĐBSCL không chỉ có giá trị như những đơn thuần là những sản phẩm mang tính giải trí DSVH phi vật thể cần được bảo tồn và phát huy để thuần túy mà nó chứa đựng nhiều giá trị văn hóa phục vụ đời sống tinh thần, tín ngưỡng tâm linh sâu sắc. Vì vậy, từ lâu nhiều nước trên thế giới đã của cộng đồng cư dân mà nó còn là nguồn tài xem đây là những sản phẩm du lịch có sức hút nguyên du lịch nhân văn hoàn toàn có thể khai thác mạnh mẽ đối với du khách. Thông qua chương 13
- Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trườ ng Đaị hoc̣ Cần Thơ Phần C: Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục: 43 (2016): 10-18 trình nghệ thuật, du khách có thể hiểu phần nào đời Những yếu tố về lịch sử liên quan đến quá trình sống văn hóa tinh thần của một dân tộc, đồng thời khai khẩn miền đồng bằng sông nước này với các dần đưa nghệ thuật trình diễn thành những sản lớp cư dân đầu tiên đến từ Bắc Bộ và Trung Bộ phẩm du lịch đủ sức thu hút du khách. góp phần giúp cho ẩm thực của nơi đây vẫn lưu giữ tập tục ăn uống cổ truyền thông qua hình thức cúng ĐBSCL là nơi hội tụ tinh hoa văn hóa độc đáo việc lề với món cá nấu ám, đồng thời cũng có sự của bốn dân tộc anh em Kinh, Hoa, Khmer, Chăm. cải tiến món ăn cho phù hợp với điều kiện môi Với những nét đặc trưng trong văn hóa truyền trường mới như món bánh xèo là dị bản của món thống của mỗi dân tộc đã góp phần tạo nên bức bánh khoái (bánh khói) miền Trung (Ngô Đức tranh văn hóa nghệ thuật sinh động đầy màu sắc Thịnh, 2010). trên mảnh đất này. Với người Khmer, âm nhạc, múa, sân khấu không chỉ tồn tại trong lễ hội dân Với điều kiện địa lý - tự nhiên, địa hình đa dạng tộc mà còn có mặt trong những sinh hoạt đa dạng khiến nền ẩm thực ĐBSCL có nhiều món ăn có khác của cuộc sống, có thể kể đến là hát Dù Kê, nguồn gốc từ núi, biển, đồng bằng và sông rạch. sân khấu cổ Rô băm, múa Lâm Thol, múa trống Với nguồn lợi thủy sản dồi dào hình thành cho Người Chăm An Giang nổi tiếng với dân ca Chăm người dân kỹ thuật chế biến rất phong phú như làm và biểu diễn kèn Saranai, trống Pà nà, trống các món mắm (mắm thái Châu Đốc, mắm ruột cá Paranưng theo phong cách Hồi giáo. Người Hoa Đồng Tháp, mắm ruốc Kiên Giang ), làm khô các độc đáo với nghệ thuật múa Dù, múa Quạt, múa loại cá đồng, các biển (khô các lóc, cá tra, cá khoai, Lân Sư Rồng, hát Hồ Quảng. Người Kinh nổi tiếng khô mực ), đặc biệt hơn, họ còn sử dụng phương với cải lương, các điệu hò và đặc biệt là Đờn ca tài pháp ủ cá để tạo nên nước mắm - một gia vị không tử. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, phong trào thể thiếu trong bữa cơm người Kinh ở ĐBSCL, nổi đờn ca tài tử vẫn được duy trì và phát triển rộng tiếng có nước mắm Phú Quốc, nước mắm Hòn khắp; nó trở thành món ăn tinh thần không thể Sơn. thiếu của mỗi cư dân miền sông nước. Ngày Đặc biệt, cứ mỗi dịp mùa nước nổi tràn về, du 05/12/2013 đánh dấu bước phát triển vượt bậc của khách lại có dịp thưởng thức những món ăn đặc đờn ca tài tử khi được UNESCO công nhận là trưng cho mùa nước nổi nơi đây, đó là các món DSVH phi vật thể đại diện của nhân loại và là một được chế biến từ cá linh như cá linh kho mía, canh sản phẩm du lịch không thể thiếu trong các chương chua cá linh bông điên điển, bông súng trắng và trình du lịch, giúp du khách khám phá những điều nhiều món ăn hấp dẫn khác Đơn giản nhưng thú vị trong hành trình tham quan của họ, song mang lại những nét chấm phá thú vị cho ẩm thực song đó góp phần bảo tồn và phát huy những giá trị của vùng. độc đáo của Đờn ca tài tử trong thời điểm hiện nay. Không chỉ có ẩm thực của người Kinh, những Những loại hình nghệ thuật kể trên, nó không món đặc sản của các dân tộc Hoa, Khmer, Chăm đã chỉ đáp ứng nhu cầu thưởng thức của người dân địa và đang làm giàu thêm cho ẩm thực của vùng đất phương mà còn vươn mình ở một vai trò góp phần này. Các món tung lò mò, cà ri, cà púa, cơm nị của quảng bá giá trị nghệ thuật truyền thống của mỗi người Chăm; bún nước lèo, lẩu mắm, canh xiêm lo dân tộc tới du khách trong nước và quốc tế. của người Khmer hay các món bánh của người Hoa 3.2.4 Các giá trị văn hóa ẩm thực đã tạo nên những nét riêng, sắc thái riêng cho miền Hoàn cảnh lịch sử - xã hội, điều kiện địa lý - tự đồng bằng sông nước. nhiên là những yếu tố tác động sâu sắc đến ẩm thực 3.3 Thực trạng khai thác DSVH phi vật thể của vùng ĐBSCL. Ẩm thực nơi đây vừa là truyền trong phát triển du lịch ở ĐBSCL thống vừa có sự tiếp biến với các yếu tố văn hóa Những năm gần đây các địa phương ĐBSCL đã ẩm thực riêng biệt của tộc người Kinh, Chăm, quan tâm đầu tư về cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật Khmer, Hoa tạo nên những nét đa dạng, đặc sắc và cho du lịch khá tốt. Đầu tư nâng cấp hệ thống 4 sân không bị nhầm lẫn với ẩm thực của các vùng miền bay, trong đó có 2 cảng hàng không quốc tế là Cần khác. Chẳng hạn món canh chua, bún nước lèo hay Thơ và Phú Quốc, tạo điều kiện thu hút du khách lẩu mắm đặc trưng của Nam Bộ vốn có nguồn gốc đến tìm hiểu các sản phẩm du lịch văn hóa cũng từ người Khmer nhưng đã được tiếp thu và cải biến như các sản phẩm du lịch đặc trưng khác của vùng. cho hợp với khẩu vị của người Việt, hiện nay đã Các khách sạn cao cấp từ 3 đến 5 sao đã được xây trở thành thương hiệu đặc sản của vùng. dựng đưa vào khai thác ở một số địa phương và các điểm du lịch lớn trong vùng, đáp ứng đầy đủ nhu 14
- Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trườ ng Đaị hoc̣ Cần Thơ Phần C: Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục: 43 (2016): 10-18 cầu lưu trú cho du khách. Theo số liệu từ Tổng cục nổi đón khoảng 500 - 700 lượt khách tham quan; Du lịch, năm 2014 toàn vùng đã đón được hơn 22,4 trong đó phần lớn là khách nước ngoài. Những triệu lượt khách, trong đó có 1,83 triệu lượt khách ngày lễ, tết, cao điểm lượng khách có thể lên đến quốc tế, với thu nhập từ du lịch đạt 6.360 tỉ đồng. trên 1.000 người. Trong thời gian qua, vấn đề khai thác DSVH Nghề, làng nghề truyền thống của địa phương phi vật thể tại ĐBSCL đã đạt được một số thành được duy trì và phát triển như nghề trồng hoa, nghề tựu và còn tồn tại hạn chế, yếu kém: làm bánh mứt Một số làng nghề, cơ sở sản xuất 3.3.1 Thành tựu được khai thác trở thành địa điểm tham quan chính trong các chương trình du lịch ở ĐBSCL như: ĐBSCL ngoài với các sản phẩm du lịch đặc Làng chài Hàm Ninh (Phú Quốc), làng nghề sản trưng như du lịch sinh thái miệt vườn, biển đảo thì xuất nước mắm (Phú Quốc), làng hoa Sa Đéc các sản phẩm du lịch văn hóa như lễ hội, làng (Đồng Tháp), các cơ sở sản xuất bánh tráng, kẹo nghề, cũng là những sản phẩm thu hút khách du dừa ở Tiền Giang, Bến Tre, lịch. Theo số liệu từ Tổng cục Du lịch, chỉ trong quý I năm 2015, ĐBSCL đã đón 7.357.177 lượt Văn hóa ẩm thực ĐBSCL ngày càng được khách đến tham quan du lịch, tăng 20,9% so với quảng bá rộng rãi trong nước và thế giới. Năm cùng kỳ. Trong đó, có 540.175 lượt khách quốc tế, 2007, món ăn truyền thống bánh xèo, món ăn chân tăng 14,4% so với cùng kỳ. Đạt doanh thu 2.012 tỷ chất hồn quê Nam Bộ đã từng được bà Nguyễn Thị đồng, tăng 31,9% so với cùng kỳ năm 2014. Trong Xiềm biểu diễn tại lễ hội đời sống dân gian số các địa phương trong vùng, các tỉnh Đồng Tháp, Smithsonian (Mỹ), nay đã trở thành thương hiệu. Bạc Liêu, Sóc Trăng và Hậu Giang là các địa Không chỉ thế, Lễ hội bánh dân gian Nam Bộ - phương có tỷ lệ tăng trưởng về lượt khách rất ấn thương hiệu du lịch của Tp. Cần Thơ được tổ chức tượng. Địa phương thu hút khách đến tham quan thường niên ngày càng thu hút đông đảo dân địa du lịch nhiều nhất là An Giang với hơn 2,6 triệu phương và khách du lịch. lượt khách chủ yếu là khách tham quan lễ hội Các loại hình nghệ thuật cũng không ngừng ( được quảng bá, bảo tồn và phát triển. Các câu lạc tems/14324). Đặc biệt, năm du lịch quốc gia 2016 bộ Đờn ca tài tử được hình thành phục vụ cho việc sẽ được tổ chức tại tỉnh Kiên Giang và vùng duy trì gìn giữ di sản nghệ thuật nhân loại, đồng ĐBSCL, đây được xem là cơ hội để các DSVH phi thời phục vụ cho nhu cầu thưởng thức của du vật thể tại địa phương được quảng bá rộng rãi đến khách. Các đoàn nghệ thuật ca múa hát nghệ thuật du khách trong và ngoài nước. Khmer được quan tâm, đầu tư và trình diễn ở nhiều ĐBSCL với nguồn DSVH phi vật thể đầy giá địa điểm phục vụ cho du khách. Ngày hội văn hóa, trị và có sức hấp dẫn, thời gian qua, nguồn tài thể thao và du lịch đồng bào Khmer Nam Bộ cứ 3 nguyên này đã được các ngành các cấp quan tâm năm tổ chức một lần, luân phiên trên địa bàn các khai thác vào phục vụ du lịch. Hiện tại, một số lễ tỉnh, thành ĐBSCL là dịp quảng bá các giá trị hội như Lễ hội vía Bà Chúa Xứ (An Giang), lễ hội nghệ thuật truyền thống tới du khách trong nước và truyền thống Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung quốc tế. Trực (Kiên Giang), lễ hội Oc Om Bok - Đua ghe 3.3.2 Hạn chế ngo (Sóc Trăng), hội Đua bò Bảy núi (An Giang) Sư phát triển hoạt động du lịch ở các chợ nổi luôn có sự tham gia đông đảo khách du lịch hàng trong những năm gần đây mang lại nhiều lợi ích năm. Ước tính hàng năm các lễ hội này có khoảng cho cộng đồng địa phương, tạo ra thu nhập, phát 2,5 triệu người tham dự. Theo sự đánh giá của triển sản phẩm vùng. Tuy nhiên, trong quá trình Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch (2010), trong khai thác các chợ nổi trong hoạt động du lịch hiện thời gian gần đây khách du lịch lễ hội dân gian nay phải đối mặt nhiều vấn đề khác nhau như chưa vùng ĐBSCL phát triển nhanh, chiếm một tỷ trọng xây dựng được sản phẩm du lịch đặc trưng gắn với đáng kể trong tổng cơ cấu khách du lịch, đã thu hút chợ nổi. Nhìn chung các hoạt động du lịch chợ nổi lượng lớn du khách tham dự. trong thời gian qua là đưa du khách tham quan hoạt Du lịch chợ nổi từ lâu đã trở thành sản phẩm động mua bán, sinh hoạt của cư dân thương hồ, đặc trưng của vùng đồng bằng sông nước, tiêu biểu mua và thưởng thức các sản vật địa phương kết là chợ nổi Cái Răng (Cần Thơ) và chợ nổi Cái Bè hợp tham quan làng nghề, vườn cây ăn trái, nghe (Tiền Giang). Thống kê của Trung tâm du lịch Đờn ca tài tử. Điều này dẫn đến trùng lắp sản phẩm Quận Cái Răng cho thấy, mỗi ngày bình quân chợ ở các địa phương có chợ nổi, chính vì vậy chưa thu 15
- Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trườ ng Đaị hoc̣ Cần Thơ Phần C: Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục: 43 (2016): 10-18 hút và gây nhàm chán cho du khách. Ngoài ra, thu hút du khách. Hoạt động khai thác văn hóa ẩm công tác quy hoạch, quản lý và gìn giữ môi trường thực chưa được tiến hành một cách có hệ thống, chợ nổi chưa chặt chẽ. Ô nhiễm môi trường tại chợ chưa mang tính đặc thù riêng mà chỉ thường được nổi không chỉ là hậu quả từ công việc buôn bán mà lồng ghép trong các hoạt động xúc tiến du lịch nói còn từ sinh hoạt của những gia đình trên ghe. chung. Hiện nay, ngoài lễ hội bánh dân gian Nam Những người tham gia mua bán chưa có ý thức giữ Bộ được tổ chức hàng năm ở thành phố Cần Thơ, gìn môi trường sống, điều này làm ảnh hưởng đến thì văn hóa ẩm thực của từng địa phương chưa hình ảnh của chợ nổi trong mắt của khách du lịch. được quảng bá sâu rộng mà chỉ được giới thiệu, xuất hiện một cách mờ nhạt ở một số khu, điểm du Các lễ hội được đưa vào khai thác du lịch ở lịch hay các khu chợ đêm. Vì vậy, tính đồng bộ, ĐBSCL vẫn chưa nhiều, chưa thu được kết quả tính bền vững và mỹ thuật không cao, diễn biến mong đợi. Đa phần các lễ hội được tổ chức ở các phức tạp dẫn đến gây nhiều khó khăn trong việc nơi xa xôi, trong phạm vi làng xã, giao thông quản lý, nhất là vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm. không thuận lợi dẫn đến du khách khó tiếp cận. Vai trò của văn hóa ẩm thực từ đó bị xem nhẹ, Thời điểm tổ chức lễ hội không phải vào mùa du chưa có chủ trương, kế hoạch chiến lược cụ thể lịch nên lượng khách đến tham quan chiêm bái trong triển khai thực hiện. không nhiều, nội dung lễ hội kém đặc sắc, không thu hút được du khách, công tác quảng bá về lễ hội Những hạn chế nêu trên trong thời gian qua, đã chưa được chú trọng đầu tư. Một số lễ hội mang làm cho việc phát huy giá trị DSVH phi vật thể tầm quốc gia như Lễ hội vía Bà chúa xứ Núi Sam, trong hoạt động du lịch ở vùng ĐBSCL chưa tương Lễ hội truyền thống Anh hùng dân tộc Nguyễn xứng với tiềm năng. Trung Trực, thì công tác quản lý an ninh, trật tự 3.4 Một số giải pháp nhằm khai thác có còn nhiều yếu kém. Tình trạng đeo bám khách bán hiệu quả DSVH phi vật thể tại địa phương trong nhang đèn, vé số, xin tiền, nói thách còn khá phổ phát triển du lịch ở ĐBSCL biến. Điều này làm cho du khách, nhất là khách quốc tế không thoải mái, thậm chí khó chịu. Những quan điểm, tầm nhìn và giải pháp khai thác các DSVH phi vật thể trong phát triển du lịch Mặc dù có rất nhiều làng nghề truyền thống ở đã được đề cập đến trong Quy hoạch tổng thể phát ĐBSCL, nhưng chỉ một số ít làng nghề được đưa triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn vào hệ thống chương trình của các công ty du lịch 2030; Đề án phát triển du lịch ĐBSCL đến năm bởi chất lượng làng nghề kém, đơn điệu không thu 2020 và Đề án phát triển sản phẩm du lịch đặc thù hút được sự quan tâm của du khách. Bên cạnh đó, ĐBSCL. Theo đó, các sản phẩm du lịch văn hóa một số mặt hàng mỹ nghệ bị hạn chế bởi tính hữu bao gồm văn hóa phi vật thể là một trong những dụng, sản phẩm quá cồng kềnh không thuận tiện, sản phẩm du lịch chủ yếu của vùng, góp phần vào một số sản phẩm kém chất lượng gây mất lòng tin sự phát triển du lịch của ĐBSCL nói riêng và cả cho du khách. nước nói chung. Việc trình diễn và chất lượng chuyên môn của Để phát huy có hiệu quả nguồn tài nguyên du các ban nhạc Đờn ca tài tử ở một số điểm du lịch lịch là các DSVH phi vật thể vùng ĐBSCL cần có miền Tây ngày càng mờ nhạt và nhàm chán. Một các giải pháp mang tính đồng bộ. Các giải pháp số cơ sở kinh doanh du lịch do chạy đua theo yêu này bao gồm: cầu dịch vụ đã khiến cho các nghệ nhân, tài tử không còn thời gian để có thể giao lưu, luyện ngón Thứ nhất, môi trường sông nước đặc trưng của đờn, giọng ca, tạo cảm xúc khi ứng tấu và sáng tạo. ĐBSCL đã góp phần hình thành nên hệ thống chợ Bên cạnh đó, một số loại hình nghệ thuật dân tộc nổi phong phú. Để tạo nên tính cạnh tranh giữa các Khmer, Chăm, Hoa, trên thực tế vẫn chưa được chợ nổi thì mỗi nơi phải xây dựng cho mình các khai thác đúng mức trong hoạt động du lịch. Việc sản phẩm du lịch đặc trưng gắn với chợ nổi của địa khai thác và sử dụng không đúng, sử dụng thiếu phương và làm đa dạng hoạt động của du khách trân trọng và giữ gìn các di sản này đang là vấn nạn trong hành trình tham quan chợ nổi. Xây dựng nhà trong tổ chức trình diễn nghệ thuật dân tộc và hoạt hàng nổi phục vụ nhu cầu ăn uống cho du khách động du lịch ở ĐBSCL hiện nay. nhưng cần phải sạch sẽ, thoáng mát và đảm bảo vệ sinh; đầu tư xây dựng khu bán hàng lưu niệm với Văn hóa ẩm thực, mặc dù văn hóa ẩm thực các sản phẩm thủ công đặc trưng của địa phương. được đánh giá là yếu tố quan trọng song ngành Du Chẳng hạn ở chợ nổi Cái Răng có thể bày bán một lịch ở các địa phương ĐBSCL chưa khai thác hết số mặt hàng thủ công như: mô hình chợ nổi, nhà những nét đặc sắc của văn hóa ẩm thực dân tộc để 16
- Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trườ ng Đaị hoc̣ Cần Thơ Phần C: Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục: 43 (2016): 10-18 cổ, bến Ninh Kiều, cầu Cần Thơ thu nhỏ, Thêm vào các tour du lịch để du khách thưởng thức và vào đó, mỗi chợ nổi chỉ gắn với một chương trình cảm nhận các giá trị văn hóa từ các loại hình nghệ du lịch để làm thành tour trọn gói nhằm kéo dài thuật của địa phương. Đồng thời kết hợp với hoạt thời gian tham quan, tránh sự nhàm chán cho du động tham quan, tìm hiểu các di tích liên quan đến khách và mang lại hiệu quả trong khai thác du lịch lịch sử hình thành và phát triển của các loại hình của vùng. Song song là vấn đề quy hoạch, quản lý, nghệ thuật dân gian truyền thống. Kết hợp giao gìn giữ môi trường chợ nổi, đặc biệt là cần đầu tư thoa giữa tính truyền thống và hiện đại để làm mới xây dựng hệ thống nhà vệ sinh phục vụ cho dân địa cho các loại hình nghệ thuật, tạo sự hấp dẫn và dễ phương cũng như khách du lịch để giữ gìn vẻ mỹ gần với du khách. quan cũng như giá trị văn hóa vốn có của chợ nổi Thứ năm, với ẩm thực, ngoài việc đáp ứng nhu ĐBSCL. cầu ăn uống cho du khách mà thông qua ẩm thực Thứ hai, lựa chọn các lễ hội thích hợp về nội họ còn có thể tìm hiểu thêm về văn hóa địa dung, quy mô và sự thuận tiện cho du khách để xây phương. Ví dụ trong các chương trình tour du lịch dựng thành sản phẩm du lịch phục vụ du khách đến mùa nước nổi ở ĐBSCL nên đưa các món ăn đặc tham quan, chiêm bái, hành lễ nhưng phải chú ý sản như lẩu mắm cá linh, bánh xèo bông điên điển, tránh làm mất đi giá trị nguyên bản của lễ hội. Xây canh chua cá linh, vào thực đơn cho du khách. Vì dựng tour du lịch tâm linh với sản phẩm là lễ hội, vậy, biến ẩm thực thành các sản phẩm độc đáo đồng thời có sự kết hợp với các loại hình du lịch trong các tour du lịch là cần thiết nhằm gia tăng khác dựa trên nguồn tài nguyên và những lợi thế du tính hấp dẫn cho du lịch địa phương. Để làm được lịch của địa phương nơi diễn ra lễ hội. Có thể xây điều này, cần tổ chức các chương trình ẩm thực dựng chương trình tour vừa đáp ứng vấn đề tín thường xuyên tại các khu, điểm du lịch nổi tiếng ngưỡng (đi lễ) và sinh hoạt văn hoá (đi thăm các hay tại các lễ hội có sức thu hút khách để giới thiệu danh thắng và di tích lịch sử), cùng nhu cầu mua và quảng bá ẩm thực địa phương với du khách. sắm hàng hóa, vừa đi thăm và thưởng thức các sản Song song đó, xây dựng thực đơn theo hướng có phẩm văn hoá ở làng nghề và ẩm thực. Bên cạnh đầy đủ các món đặc sản ở địa phương và gắn với đó, công tác quảng bá về lễ hội cần được thông tin các dân tộc sinh sống trên địa bàn theo hướng sớm và rộng rãi. chuyên biệt hoặc kết hợp theo nhu cầu của du khách. Thứ ba, xây dựng và đưa các làng nghề truyền thống vào trong các chương trình du lịch. Phục Thứ sáu, trên cơ sở đặc điểm giá trị của các dựng và tái hiện không gian truyền thống của làng DSVH phi vật thể tại địa phương, cần phát triển nghề cùng với các phương thức sản xuất truyền các loại hình du lịch tương ứng, đồng thời tạo sự thống nhằm tạo sự thu hút du khách. Chú trọng kết nối, liên thông giữa các DSVH phi vật thể việc tạo điều kiện cho du khách tham gia vào các thành các điểm trên cùng một tuyến du lịch. Điều công đoạn sản xuất để tăng tính hấp dẫn của làng này vừa phát huy được giá trị của di sản vừa tạo nghề. Đa dạng hóa các sản phẩm của làng nghề, nên sự phong phú về sản phẩm du lịch, tăng sự hấp chú trọng những sản phẩm phục vụ cho mục đích dẫn cho du khách. Bên cạnh đó, cần phát triển, du lịch, sử dụng nguyên liệu địa phương, mang dấu nâng cao chất lượng các dịch vụ nhằm tạo thuận lợi ấn của địa phương. Chẳng hạn như các nghề thủ cho du khách. Các dịch vụ cũng cần thể hiện bản công chế tác từ dừa của Bến Tre hay một số địa sắc của vùng, tạo được ấn tượng với du khách. Tạo phương khác. Những sản phẩm như đồ mĩ nghệ, đồ điều kiện để người dân tham gia các dịch vụ trên, gia dụng: giỏ tích, đũa, thìa, các sản phẩm thủ phát triển loại hình du lịch homestay gắn liền với công từ thân, xơ, lá, sọ của cây dừa là một lợi môi trường cảnh quan sông nước. thế độc đáo. Các quy trình công nghệ làm kẹo, dầu, 4 KẾT LUẬN đường từ cùi và nước dừa là một nhóm sản phẩm thứ hai vừa có thể cho du khách chiêm ngưỡng, Từ điều kiện tự nhiên và lịch sử xã hội đặc thù, tham quan vừa là đặc sản để du khách mua làm quà ĐBSCL có một nguồn DSVH đặc sắc. Bên cạnh lưu niệm. DSVH vật thể, DSVH phi vâṭ thể vô cùng phong phú và đa dạng, đây chính là một bộ phận quý giá Thứ tư, tập trung công tác nghiên cứu phục vụ trong nguồn tài nguyên du lịch của vùng và của các loại hình nghệ thuật, đặc biệt là các loại hình đất nước. nghệ thuật sân khấu dân gian truyền thống như Rô băm, Dù Kê, Cải Lương, Hồ Quảng Kết hợp đưa Để khai thác có hiệu quả DSVH phi vật thể loại hình nghệ thuật điển hình như Đờn ca tài tử trong hoạt động du lịch ở ĐBSCL, cần phải thực 17
- Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trườ ng Đaị hoc̣ Cần Thơ Phần C: Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục: 43 (2016): 10-18 hiện đồng bộ các giải pháp về xây dựng sản phẩm Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Phát triển nguồn cho từng dạng tài nguyên, đồng thời kết hợp các tài lực du lịch tiểu vùng sông Mê Kông”. Nhà nguyên du lịch văn hóa của địa phương để hình xuất bản Thông tin và Truyền thông. Thành thành các chương trình du lịch đặc sắc. Bên cạnh phố Hồ Chí Minh, 347-354. đó, cần có những chính sách quy hoạch, quản lý, Nguyễn Xuân Hồng, 2009. Phác hoạ về lễ hội bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống của địa dân gian/truyền thống của người Việt ở phương. Điều này không chỉ mang lại lợi ích cho Đồng bằng sông Cửu Long. Tạp chí Di sản ngành du lịch mà thông qua đó nguồn tài nguyên Văn hóa số 2 (27), 61-63. này được giới thiệu rộng rãi đến du khách trong và Ngô Đức Thịnh, 2010. Khám phá ẩm thực ngoài nước, được phát huy giá trị vốn có của mình. truyền thống Việt Nam. Nhà xuất bản Trẻ. Hy vọng rằng, trong tương lai, các di sản này sẽ Thành phố Hồ Chí Minh, 435 trang. được khai thác có hiệu quả để thúc đẩy ngành du lịch của từng địa phương nói riêng, ĐBSCL nói Trần Văn Linh. Khách du lịch quốc tế đến chung ngày càng phát triển, qua đó góp phần phát Đồng bằng sông Cửu Long tăng hơn 14%. triển kinh tế - xã hội vùng ĐBSCL một cách bền vững. news/items/14324, truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2015. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tổng cục Du lịch, 2011. Chiến lược phát triển Ái Lam. Chợ nổi Cái Răng phát triển theo định du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn hướng sinh hoạt văn hóa gắn với du lịch. đến năm 2030. Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch. Hà Nội. ws&catid=2041&id=155802, truy cập ngày Tổng cục Du lịch, 2010. Đề án phát triển du 18 tháng 10 năm 2015. lịch Đồng bằng sông Cửu Long đến năm Luật Di sản văn hóa (sửa đổi và bổ sung 2013). 2020. Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch. Nxb Chính trị Quốc gia. Hà Nội. Hà Nội. Nguyễn Thị Kim Liên, 2014. Khai thác giá trị Tổng cục Du lịch, 2015. Đề án phát triển sản văn hóa phi vật thể để phát triển du lịch bền phẩm du lịch đặc thù vùng Đồng bằng sông vững ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Cửu Long. Hà Nội. 18