Khóa luận Điều chỉnh chính sách thương mại của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

pdf 111 trang hapham 430
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Điều chỉnh chính sách thương mại của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_dieu_chinh_chinh_sach_thuong_mai_cua_viet_nam_tron.pdf

Nội dung text: Khóa luận Điều chỉnh chính sách thương mại của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Minh Nguyệt Lớp : A1 K37A Khoá 37 Hà Nội Giáo viên hướng dẫn: Th.S Bùi Thị Lý, Khoa KTNT Hà Nội – 2002
  2. LỜI NÓI ĐẦU Hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, cùng với sự tham gia ngày càng sâu rộng và toàn diện của các quốc gia. Thực hiện đường lối đổi mới, chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế, trong vòng hơn 10 năm qua, Việt Nam đã tích cực và chủ động thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Không chỉ đơn thuần thực hiện mở cửa thị trường, Việt Nam đã tiến hành cải cách cơ cấu kinh tế, điều chỉnh chính sách kinh tế mà nổi bật nhất là bổ sung, hoàn thiện hơn nữa chính sách thương mại nhằm phù hợp với các quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế, tham gia và thực hiện một cách đầy đủ các cam kết hội nhập. Đặc biệt trong chính sách thương mại của Việt Nam thì lĩnh vực thương mại hàng hoá được đề cập nhiều nhất, chiếm vị trí quan trọng và luôn được xem xét, cân nhắc kỹ lưỡng trước khi bổ sung, điều chỉnh. Nhận thức rõ được vấn đề trên, người viết chọn đề tài khoá luận tốt nghiệp : "Điều chỉnh chính sách thương mại của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế". Đề tài nghiên cứu này được xây dựng nhằm mang bổ sung một cái nhìn chi tiết về quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, những sự điều chỉnh trong chính sách thương mại trong hội nhập, làm cơ sở cho việc tiếp tục hoàn thiện chính sách hơn nữa, góp phần đưa Việt Nam hội nhập một cách có hiệu quả vào kinh tế khu vực và thế giới. Để thực hiện đề tài nghiên cứu, người viết chủ yếu dựa vào phương pháp phân tích tổng hợp kết hợp với các phương pháp bổ trợ như phân tích, thống kê kết hợp các công cụ hỗ trợ như hệ thống bảng biểu nhằm minh hoạ rõ nét các vấn đề nghiên cứu.
  3. Ngoài phần Lời mở đầu, Kết luận và Tài liệu Tham khảo, khoá luận có kết cấu gồm 3 chương: Chương I: Thực trạng những cải cách trong chính sách thương mại Việt Nam kể từ khi thực hiện đổi mới kinh tế. Trong chương này người viết đề cập đến những cải cách trong các chính sách thuế, phi thuế và một số lĩnh vực khác đồng thời điểm lại tiến trình hội nhập vào các tổ chức kinh tế quốc tế của Việt Nam. Chương II: Những điều chưa phù hợp trong chính sách thương mại hàng hoá của Việt Nam so với các quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế. Trong chương này người viết lần lượt trình bày các quy định về thương mại của các tổ chức kinh tế quốc tế, lộ trình hội nhập của Việt Nam cũng như những tồn tại trong chính sách thương mại của Việt Nam Chương III: Phương hướng điều chỉnh chính sách thương mại của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Trong chương này người viết nêu lên những thuận lợi và khó khăn của Việt Nam khi phải điều chỉnh chính sách thương mại trong điều kiện hội nhập, trình bày những thành tựu của Việt Nam sau 15 năm mở cửa và hội nhập đồng thời cũng điểm lại kinh nghiệm trong chính sách thương mại của một số nước; cuối cùng là một số đề xuất chủ quan về những vấn đề cần xử lý trong chính sách để hội nhập kinh tế quốc tế đạt được như mục tiêu đề ra. Với kiến thức hiểu biết còn hạn hẹp, khoá luận tốt nghiệp này không thể không tránh khỏi những sơ sót nhất định. Vì vậy, em rất mong nhận được sự góp ý quý báu của các thầy cô giáo và bạn bè cùng trường. Cuối cùng, em xin được bày tỏ sự biết ơn chân thành tới các thầy giáo, cô giáo khoa Kinh tế Ngoại thương đã nhiệt tình dạy dỗ và cung cấp cho em những kiến thức cần thiết và bổ ích trong quá trình em học tập tại trường. Đặc biệt em xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc tới cô giáo, Th.S Bùi Thị Lý - người đã
  4. tận tình trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành Khoá luận tốt nghiệp của mình. CHƯƠNG I: THỰC TRẠNG NHỮNG CẢI CÁCH TRONG CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI VIỆT NAM KỂ TỪ KHI THỰC HIỆN ĐỔI MỚI KINH TẾ Chính sách thương mại là một hệ thống các quan điểm, giải pháp liên quan đến thuế quan, bảo hộ, các quy chế thương mại, thông qua đó Chính phủ có thể thực hiện sự phân bổ nguồn lực theo những định hướng nhất định. Chính sách thương mại liên quan chặt chẽ đến chính sách công nghiệp, chính sách đầu tư, chính sách tài chính tiền tệ, và nói chung được quy định bởi đường lối phát triển mỗi quốc gia. Kinh nghiệm của các nền kinh tế năng động đã chỉ ra rằng, ở mỗi giai đoạn phát triển kinh tế, chính sách thương mại đã được sử dụng như một công cụ nhằm phân bổ tối ưu các nguồn lực giữa các quốc gia cũng như trong mỗi quốc gia. Đối với Việt Nam, sự tiến triển của chính sách ngoại thương gắn liền với quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường và tìm kiếm con đường công nghiệp hóa đất nước. Do vậy tính chất không nhất quán và đôi khi mâu thuẫn trong chính sách và giữa chính sách với sự áp dụng nó trong thực tế là điều dễ hiểu. Tuy nhiên những tiến triển trong chính sách cũng cho thấy một xu hướng cơ bản là Việt Nam đang vững bước trên con đường chuyển sang nền kinh tế thị trường và hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Trên cơ sở nắm bắt được xu thế vận động của thế giới, nắm vững quy luật kinh tế và vận dụng có sáng tạo vào điều kiện hoàn cảnh của đất nước ta,
  5. Nhà nước đã tiến hành đổi mới toàn diện nền kinh tế, trong đó những đổi mới, điều chỉnh và cải cách trong chính sách thương mại là bộ phận quan trọng
  6. I/ Những cải cách trong chính sách thuế 1. Thuế xuất khẩu, nhập khẩu Thuế xuất khẩu, nhập khẩu là một trong những công cụ quan trọng trong chính sách thương mại của nhà nước nhằm điều tiết lượng hàng hoá được xuất khẩu, nhập khẩu, nó có tác động làm tăng giá đối với hàng hoá được phép xuất khẩu, nhập khẩu. Nó còn tác động lên tổng cung, tổng cầu của nhiều hàng hoá khác. Vì vậy, chúng ta có thể nói chính sách thuế xuất khẩu, nhập khẩu là một bộ phận quan trọng nhất trong toàn bộ chính sách ngoại thương của nhà nước ta trong thời kỳ hiện nay. Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu được ban hành vào tháng 12 năm 1991, có bổ sung sửa đổi vào năm 1993 và năm 1999. Luật thuế xuất nhập khẩu ra đời giúp các doanh nghiệp chủ động trong khâu tính toán, lựa chọn mặt hàng, bạn hàng phù hợp sao cho đạt được hiệu quả kinh doanh cao nhất. Đối với nhà nước, thuế xuất nhập khẩu là công cụ quản lý hữu hiệu, hơn thế nữa, đây là nguồn thu lớn của ngân sách nhà nước, qua bảng số liệu dưới đây cho thấy, mức động viên bình quân của thuế nhập khẩu vào ngân sách nhà nước khoảng 18%.
  7. Bảng tóm tắt tình hình thu thuế nhập khẩu từ năm 1996 đến năm 2000 Đơn vị tính: Tỷ VND Tổng thu ngân Tổng thu thuế Tỷ lệ % tổng thu thuế nhập Năm sách nhà nước nhập khẩu khẩu so với tổng thu ngân sách từ thuế nhà nước 1996 60925 11991 19,68 1997 63303 10980 17,34 1998 68250 11191 16,39 1999 77741 12584 16,19 2000 90540 10580 11,69 Nguồn : - Tổng cục Hải quan - Bộ Tài chính Ngoài ra thuế nhập khẩu còn có tác dụng bảo hộ sản xuất trong nước thông qua việc đánh thuế nhập khẩu cao vào hàng ngoại nhằm làm giảm sự cạnh tranh của hàng ngoại nhập. Thông qua thuế, nhà nước tiến hành hướng dẫn tiêu dùng, mở rộng kinh tế đối ngoại, thực hiện chính sách thị trường và bạn hàng, thực hiện những cam kết của chính phủ ta với chính phủ nước ngoài. Trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế, chính sách thuế quan của chúng ta đã có nhiều thay đổi, đã đáp ứng phần nào yêu cầu mở rộng quan hệ hợp tác của Đảng và Nhà nước. Không chỉ có vậy, thuế xuất khẩu nhập khẩu đã đáp ứng được yêu cầu tăng cường kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của nền kinh tế. Bên cạnh đó, chính sách thuế xuất khẩu, nhập khẩu được điều chỉnh thể hiện sự quan tâm và chú ý của Đảng và nhà nước. Cụ thể như: lập lại danh mục hàng hoá theo cách phân chia của thị trường thế giới
  8. quy định rõ những mặt hàng cấm xuất khẩu, nhập khẩu , những mặt hàng phải quản lý bằng hạn ngạch quy định các biện pháp hành chính khác . Thuế suất được xây dựng tuỳ thuộc vào mức độ khuyến khích hay hạn chế xuất khẩu, nhập khẩu, vào sự chênh lệch giá cả trong nước và quốc tế. Chúng ta đã có những cố gắng trong việc đưa ra chính sách thuế phù hợp để bảo hộ sản xuất trong nước. Ngoài ra quy chế thuế suất được thay đổi để có thể điều chỉnh kịp thời trước những biến đổi của thị trường. Về thuế xuất khẩu, nhà nước ta quy định mức thuế xuất khẩu đối với một số mặt hàng có hiệu suất thu ngoại tệ cao và có chính sách trợ giá với một số mặt hàng khác. Về thuế nhập khẩu, nhà nước ban hành chính sách thuế theo hướng khuyến khích nhập khẩu nguyên liệu, phụ tùng thiết bị, hạn chế việc nhập khẩu hàng tiêu dùng xa xỉ và những mặt hàng trong nước đã sản xuất được. Lĩnh vực hoạt động buôn bán với các nước có chung biên giới cũng được quy định cụ thể. Quyết định số 78/TTg ngày 28-2-1994 của Thủ tướng Chính phủ quy định chấn chỉnh việc quản lý tình hình buôn bán giữa Việt Nam với các nước có chung biên giới thực hiện đúng theo Hiệp định thương mại đã ký với các nước và tập quán thương mại quốc tế. Đặc biệt trong tình hình kinh tế mới, để khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu ngày 8-8- 1998 Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 143/1998/QĐ-TTg sửa đổi chế độ thuế xuất khẩu, nhập khẩu tiểu ngạch. Quyết định naỳ bãi bỏ chế độ thuế xuất khẩu, nhập khẩu, tiểu ngạch quy định tại Quyết định số 115/HĐBT ngày 8-2-1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ), áp dụng chế độ thuế hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu chính ngạch đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu tiểu ngạch để thống nhất chế độ thu thuế xuất khẩu, nhập khẩu, quản lý tốt hơn nữa hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu .
  9. Danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu cũng được lập lại cụ thể hơn, hoàn thiện hơn, phù hợp với tình hình kinh tế mới, đáp ứng tiến trình hội nhập kinh tế. Năm 1992 theo Quyết định số 172/TCTK-QQD ngày 1-11-1992 Tổng cục Thống kê đã ban hành danh mục hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu của Việt Nam trên cơ sở hệ thống điều hoà (HS) của Hội đồng hợp tác hải quan thế giới (Custom Co-operation Council - CCO). Trong bảng danh mục này, hàng hoá được phân theo phần, chương, nhóm, phân nhóm và mặt hàng đến cấp mã 6 chữ số. Kể từ khi ban hành bảng danh mục đã góp phần phục vụ có kết quả cho nhiều mục đích trong đó có công tác xuất khẩu, nhập khẩu. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của hoạt động thương mại quốc tế nước ta trong quá trình đổi mới và việc gia nhập các tổ chức thương mại đa phương, danh mục hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu của nước ta đã được hoàn thiện thêm và phân loại chi tiết hơn. Theo sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ (tại Văn bản số 5469/KHTH ngày 29-9-1995), Tổng cục Thống kê cùng với Tổng cục Hải quan và Tổng cục Thuế đã hoàn thiện bảng danh mục ở cấp mã 8 chữ số. Ngày 26-12-1995, Tổng cục Thống kê đã ban hành “ Danh mục hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu Việt Nam “ phân loại chi tiết đến cấp mã 8 chữ số theo Quyết định 324/TCTK-QĐ và được áp dụng kể từ 1-1-1996. Bảng danh mục này được thay thế cho danh mục ban hành năm 1992 và được áp dụng thống nhất cho tất cả mọi hoạt động trong nền kinh tế quốc dân có liên quan đến việc phân loại hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, quản lý hoạt động ngoại thương, xây dựng biểu thuế xuất khẩu, nhập khẩu. Đây là một bước tiến lớn trong chính sách thuế xuất khẩu, nhập khẩu tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình phát triển thương mại quốc tế và hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Biểu thuế bước đầu đã được điều chỉnh với 97 chương, bao gồm 5938 dòng hàng (thời điểm 1/1/1999). Tuy nhiên biểu thuế của chúng ta được đánh giá là phức tạp và thường xuyên thay đổi. Số mức thuế suất giảm từ 36 ở thời điểm 1995, xuống còn 31 vào năm 1996, sau đó lại tăng lên 35 vào 1997, rơi xuống còn 26 mức thuế suất vào thời điểm 1998 (từ 0% đến 60%), và cuối
  10. cùng chỉ còn 18 mức thuế tính cho đến 1999. Số dòng hàng cho đến nay đã được bổ sung lên đến khoảng 6400 dòng hàng. (Dự án UNDP VIE 95/015 “Xúc tiến hội nhập của Việt Nam với ASEAN: Hội nhập của Việt Nam với ASEAN: khảo sát các biện pháp tác động tới thương mại”) Đặc biệt từ cuối năm 1997 đến nay để hạn chế và quản lý tốt hơn tình hình nhập khẩu một số mặt hàng tiêu dùng, Nhà nước đã chủ trương dán tem một số mặt hàng. Chủ trương dán tem hàng nhập khẩu cho phép quản lý tốt hơn hoạt độnh nhập khẩu, hạn chế trốn lậu thuế, góp phần phát huy tác dụng điều hành xuất khẩu, nhập khẩu của chính sách thuế của Nhà nước, đồng thời tạo điều kiện phát triển sản xuất trong nước, đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế. 2. Thuế tiêu thụ đặc biệt Luật thuế tiêu thụ đặc biệt có hiệu lực vào 1/1/1999. Luật thuế này ra đời thay thế thuế thương mại đặc biệt năm 1990. Luật thuế mới ra đời phân biệt một cách rõ ràng : ”thuốc lá điếu xì gà được sản xuất chủ yếu từ nguyên liệu thô nhập ngoại”. Những loại thuốc lá này phải chịu mức thuế tiêu thụ đặc biệt là 65% trong đó thuốc lá điếu xì gà được sản xuất chủ yếu từ nguyên liệu thô trong nước phải chịu mức thuế tiêu thụ đặc biệt là 45%. Thuế tiêu thụ đặc biệt mới ra đời xoá bỏ những quy định của thuế cũ đánh vào ô tô nhập khẩu. Những quy định đó tồn tại từ tháng 10/1995, trong đó mức thuế bảo hộ áp dụng là 200% nếu tiến hành lắp ráp nội địa (CIE 1998a, trang 40). Tuy nhiên phạm vi miễn thuế trong luật mới hầu như không thay đổi. Theo luật, việc miễn thuế sẽ được quy định ở các cấp độ khác nhau phụ thuộc vào tình trạng của doanh nghiệp: doanh nghiệp gặp khó khăn do : “thảm họa, thiên tai” ; doanh nghiệp sản xuất bia quy mô nhỏ chịu thua lỗ, thiệt hại; doanh nghiệp lắp ráp ô tô nội địa (từ 60-100% cho đến 10 năm); hoạt động kinh doanh sân golf (30% trong 5 năm ).
  11. Bộ Thương Mại sau đó đã mở rộng phạm vi miễn thuế (31/7/1998, theo TT 109/1998/TT-BTC). Theo sửa đổi này thì “Nhà sản xuất quy mô nhỏ, nếu đã nộp thuế tiêu thụ đặc biệt, trong trường hợp gặp phải thua lỗ, thiệt hại, mất mát thì sẽ được cân nhắc để giảm thuế (giảm khoảng 50%)”. Với thực tế như trên, mặc dù Nhà nước có nhiều biện pháp, sửa đổi nhằm tạo điều kiện kinh doanh cho doanh nghiệp cũng như điều chỉnh chính sách để tạo thuận lợi khi tham gia vào hội nhập kinh tế quốc tế thì hệ thống kế toán và kiểm toán của Việt Nam vẫn còn nhiều điểm chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Một trong những điểm cần được cân nhắc, xem xét nhất là việc loại bỏ dần dần phạm vi áp dụng thuế thông qua các trường hợp miễn thuế. 3. Thuế giá trị gia tăng Thuế giá trị gia tăng có hiệu lực 1/1/1999. Theo biểu thuế thì có mức thuế hiện hành: 0% : hàng hóa xuất khẩu 5% : sản phẩm và dịch vụ nông nghiệp, giáo dục và y tế 20% : một số dịch vụ 10% : các hàng hoá và dịch vụ còn lại Thuế giá trị gia tăng được đánh trên nguyên tắc cơ bản : hàng nhập khẩu sẽ bị đánh thuế giá trị gia tăng hàng xuất khẩu sẽ bị đánh thuế giá trị gia tăng bằng %. Một khía cạnh khác của thuế giá trị gia tăng là thuế này được thu ngay tại cảng sau khi hàng hóa đã được thông quan. Quy định này không giống như quy định trước đây là cho phép nộp thuế nhập khẩu chậm từ 30 đến 270 ngày. Trong biểu thuế giá trị gia tăng, có 26 mức miễn thuế quy định, một vài trong số đó có ảnh hưởng trực tiếp đến thương mại (TT 89/1998/TT-BTC)
  12. hàng hoá và dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt thì không chịu thuế giá trị gia tăng trong quá trình sản xuất hoặc nhập khẩu. tài sản cố định nhập khẩu (ví dụ như máy móc và thiết bị vận tải ) trong nước không sản xuất được. hàng viện trợ quốc tế nhập khẩu. chuyển giao công nghệ. chất khoáng chưa qua chế biến xuất khẩu. Tuy nhiên, việc thiếu các định nghĩa chính xác, (ví dụ như tài sản cố định trong nước không sản xuất được) sẽ dẫn đến tình trạng là có rất nhiều sự nhận định, đánh giá khác nhau từ các cấp có thẩm quyền. Hơn thế nữa xảy ra nhiều trường hợp trốn tránh nộp thuế cho nhà nước, đưa ra số thu thuế thấp hơn so với số lượng thực tế nhập khẩu. Giải pháp thích đáng cho vấn đề này là cần phải tăng cường hệ thống kế toán và kiểm toán, hệ thống thu thuế hiện hành. Những nỗi lo ngại về việc ngày càng mở rộng phạm vi xét miễn xoá nợ thuế giá trị gia tăng đã được trấn an. Tuy nhiên đã có trường hợp xoá nợ thuế cho “các doanh nghiệp đang gặp rắc rối” và trong đó có áp dụng với cả thuế giá trị gia tăng. II/ Những cải cách trong lĩnh vực phi thuế quan Để điều tiết hoạt động thương mại, ngoài chính sách thuế quan như trình bày ở trên, Nhà nước còn áp dụng một số biện pháp phi thuế quan khác. Những biện pháp này bao gồm hạn ngạch, giấy phép, quản lý tỷ giá hối đoái. 1. Hạn ngạch Hạn ngạch xuất khẩu, nhập khẩu là quy định của nhà nước về số lượng hoặc giá trị một mặt hàng nào đó được phép xuất khẩu, nhập khẩu trong một
  13. thời gian nhất định (thường là một năm). Cũng có khi hạn ngạch quy định cả thị trường thì có nghĩa là doanh nghiệp được cấp hạn ngạch chỉ được phép xuât khẩu, nhập khẩu mặt hàng đó từ thị trường quy định với một số lượng nhất định. Hạn ngạch là một trong những công cụ phi thuế được sử dụng nhằm mục đích ngăn chặn hàng nhập khẩu vào, bảo vệ thị trường trong nước, cải thiện cán cân buôn bán hoặc cán cân thanh toán, làm công cụ mặc cả trong các cuộc thương lượng buôn bán. Việc quy định hạn ngạch xuất khẩu nhằm mục đích: - Bảo vệ quyền lợi quốc gia - Bảo vệ nguồn lợi tài nguyên, động vật, cây trồng - Bảo vệ di sản văn hoá, đồ cổ - Thực hiện sự cam kết của chính phủ ta và chính phủ nước ngoài. Việc quy định hạn ngạch nhập khẩu nhằm mục đích: - Bảo vệ nền sản xuất trong nước - Tiết kiệm ngoại tệ, cải thiện cán cân thanh toán - Hướng dẫn tiêu dùng trong nhân dân Việc sử dụng hạn ngạch trong công tác quản lý, điều hành hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu giúp cho nhà nước nắm được số lượng hàng hoá được phép xuất khẩu, nhập khẩu nhưng gây ra sự bất bình đẳng trong kinh doanh. Doanh nghiệp nào được cấp hạn ngạch thì được phép xuất khẩu, nhập khẩu và thu được lợi nhuận lớn, còn doanh nghiệp nào không được cấp thì không được phép xuất khẩu, nhập khẩu mặt hàng đó, từ đó dễ gây tình trạng độc quyền kinh doanh, độc quyền về giá cả, đồng thời nhà nước thất thu một khoản thuế do hạn chế nhập khẩu.
  14. Ở Việt nam, từ những năm trước đây, để bảo vệ nền kinh tế còn lạc hậu, kém phát triển, hàng năm nhà nước đưa ra danh mục hàng hoá cấm xuất khẩu, nhập khẩu, hàng hoá quản lý bằng hạn ngạch, nhưng danh mục hàng hoá quản lý ngày càng giảm dần. Tinh thần chung của các thông tư là giảm tối thiểu các mặt hàng xuất khẩu, nhập khẩu phải quản lý bằng hạn ngạch. Trong quá trình đổi mới chính sách thương mại, đặc biệt là quá trình giám sát việc thực hiện xuất khẩu, nhập khẩu của các doanh nghiệp, Bộ Thương Mại đã tiến hành điều chỉnh số lượng hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu từ doanh nghiệp không có khả năng thực hiện sang/cho doanh nghiệp có nhu cầu và có điều kiện. Việc đổi mới trên đã góp phần xoá bỏ đáng kể sự cứng nhắc trước đây trong công tác điều hành, quản lý, hoạt động thương mại. Các sản phẩm xuất khẩu và nhập khẩu hiện nay được điều chỉnh bằng hạn ngạch bao gồm: Sản phẩm mà hạn ngạch được cấp bởi các tổ chức kinh tế quốc tế và các quốc gia khác (hạn ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào EU, Canada và Nauy) Hàng hoá “dùng cho việc làm cân bằng nền kinh tế” sẽ được quy định cụ thể trong Quyết định hàng năm của Thủ tướng chính phủ. Hạn ngạch xuất khẩu gạo được điều chỉnh linh hoạt hàng năm dựa trên sản lượng thu hoạch từng vụ mùa. Theo Quyết định số 141/TTg của Thủ tướng chính phủ về vấn đề quản lý xuất khẩu gạo và nhập khẩu phân bón ngày 8 tháng 3 năm 1997, hạn ngạch xuất khẩu gạo được phân bổ cho từng hội đồng nhân dân các tỉnh, thành phố, dựa trên sản lượng thương mại đầu ra ở mỗi tỉnh, thành phố. Các tỉnh này lại lần lượt phân bổ hạn ngạch cho các doanh nghiệp dựa trên năng lực sản xuất thực tế. Hạn ngạch chủ yếu phân bố về các tổng công ty lương thực miền trung. Hơn thế nữa, để có được hạn ngạch, các doanh nghiệp phải là thành viên của Hiệp hội lương thực Việt Nam.
  15. Số lượng các kênh xuất khẩu gạo được hạn chế đến mức độ cần thiết để ngăn chặn tình trạng độc quyền, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, bảo vệ quyền lợi của người sản xuất và uy tín của đất nước trên thị trường quốc tế. Cũng theo như Quyết định này, bất cứ doanh nghiệp nào không thể hoàn thành hạn ngạch thì phải báo cáo ngay lên Bộ Thương Mại và Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn. Hai bộ này sẽ trình lên Thủ tướng chính phủ người sẽ ra quyết định điều chỉnh hạn ngạch và chuyển giao hạn ngạch đó cho các doanh nghiệp khác có khả năng hoàn thành. Việc buôn bán hoặc tự ý chuyển giao hạn ngạch bị nghiêm cấm. Trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được những tiến bộ lớn trong nông nghiệp. Sản lượng và năng suất đều tăng. Lượng gạo xuất khẩu tăng lên nhanh chóng. Hạn ngạch xuất khẩu gạo cũng được mở rộng qua từng năm phù hợp với an ninh lương thực đất nước. Hạn ngạch xuất khẩu gạo đã tăng từ 2 triệu tấn năm 1996 lên 4 triệu tấn năm 1998 (Theo “Chính sách thương mại của Việt Nam và các quy định của Tổ chức Thương mại thế giới” - Báo cáo nghiên cứu số 12, Vụ chính sách thương mại đa biên, Bộ Thương Mại). Do đó, có thể chính sách hạn chế xuất khẩu gạo của Việt Nam sẽ không gây ra bàn cãi nhiều trong các cuộc đàm phán. Tuy nhiên việc xuất khẩu gạo của Việt Nam sẽ phụ thuộc rất nhiều vào sản xuất trong năm nên hạn ngạch đặt ra đầu năm hoàn toàn mang tính định hướng. Tuỳ theo diễn biến của sản xuất lúa theo các vụ mà Chính phủ có các quy định cụ thể về lượng gạo xuất khẩu. Trong một số trường hợp, doanh nghiệp đã ký hợp đồng xuất khẩu gạo vẫn không được phép thực hiện hợp đồng nhằm ổn định dự trữ lương thực giá gạo trong nước. Tuy nhiên, theo như Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg ban hành ngày 04/04/2001 về quản lý xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá thời kỳ 2001-2005, Điều 6 Chương II thì Chính phủ bãi bỏ cơ chế giao hạn ngạch xuất khẩu gạo, nhập khẩu phân bón và việc quy định doanh nghiệp đầu mối kinh doanh xuât, nhập khẩu hai mặt hàng này. Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được
  16. xuất khẩu gạo nếu có đăng ký kinh doanh ngành hàng lương thực hoặc nông sản. Ngoài ra để đảm bảo lợi ích nông dân, ổn định sản xuất nông nghiệp và thị trường trong nước, giảm bớt khó khăn đối với hoạt động sản xuất, lưu thông lúa gạo khi thị trường trong, ngoài nước có biến động, Thủ tướng Chính phủ sẽ xem xét, quyết định các biện pháp cần thiết can thiệp có hiệu quả vào thị trường lúa gạo. Đối với xuất khẩu hàng dệt may vào những thị trường theo hạn ngạch phải thoả thuận với nước ngoài thì căn cứ yêu cầu sản xuất trong nước, căn cứ các thoả thuận đa phương và song phương của Chính phủ về hàng dệt may hàng năm, Bộ Thương mại chủ trì cùng các Bộ, ngành hữu quan và các nhà sản xuất lớn của Việt Nam tiến hành đàm phán với các Tổ chức kinh tế quốc tế và các nước, nhằm đẩy nhanh tiến trình bỏ hạn ngạch đối với loại hàng hoá này. Sau đó thì Bộ Thương mại cùng các ngành hữu quan sẽ xây dựng và ban hành các quy định chung thực hiện hạn ngạch hàng dệt may; công bố tỷ lệ hạn ngạch dệt may Đối với danh mục do Thủ tướng quy định (Quyết định số 11/1998/QD- Ttg ngày 23/1/1998) với những mặt hàng góp phần làm cân bằng nền kinh tế, hiện nay gồm 10 mặt hàng là: sản phẩm dầu, phân bón, xe máy và các thiết bị lắp ráp toàn bộ, xe ô tô từ 12 chỗ ngồi trở xuống, thép và sắt, xi-măng, đường thô và tinh luyện, giấy in và giấy viết, nước có cồn, kính xây dựng. 2. Giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu Giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu là một công cụ phi quan thuế và hiện nay vẫn còn được nhiều nước đang phát triển áp dụng. Tuy nhiên thực tiễn cho thấy tác dụng của công cụ bảo hộ này rất thấp và đồng thời lại tạo sự khó khăn đáng kể cho các đơn vị thực sự cần nhập nhập khẩu nhanh và đúng giá để phục vụ sản xuất hàng hoá ở trong nước. Một tác động tiêu cực nữa là nó kích
  17. thích buôn lậu qua biên giới. Bởi vậy, xu hướng chung trên thế giới là tiến tới xoá bỏ hoặc giảm tối thiểu việc cấp giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu. Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể trong việc cấp giấy phép xuất nhập khẩu. Để tiến tới chương trình “Thuận lợi hoá thương mại” thúc đẩy hoạt động thương mại, từ 1/7/1994, chính phủ đã cho phép xoá bỏ thủ tục cấp giấy phép xuất khẩu chuyến đối với một số mặt hàng và đến ngày 1/2/1996 thì xoá bỏ thủ tục cấp giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu cho từng chuyến hàng. Như vậy, việc xoá bỏ chế độ cấp giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu theo từng chuyến hàng và đặc biệt là đơn giản hoá thủ tục hải quan cho các đơn vị, tổ chức xuất khẩu, nhập khẩu Việt nam đã góp phần không nhỏ trong việc nâng đỡ sản xuất trong nước, thúc đẩy xuất khẩu. Đôi nét về Nghị định 57 Vào 31/7/1998, chính phủ nước Việt Nam ban hành Nghị định số 57/1998/ND-CP quy định chi tiết về việc thực hiện Luật thương mại có hiệulực từ 1/9/1998. Trước khi Nghị định 57 ra đời, chỉ có những doanh nghiệp có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu do Bộ Thương Mại cấp mới có quyền xuất nhập khẩu. Đó có được giấy phép này, các doanh nghiệp phải đáp ứng các tiêu chuẩn về năng lực hoạt động và khả năng tài chính. Hơn nữa doanh nghiệp phải đăng ký ngành hàng xuất nhập khẩu trong giấy đăng ký kinh doanh. Nghị định 57 quy định rằng “thương nhân thuộc mọi thành phần kinh tế được thành lập theo luật này có thể xuất khẩu và nhập khẩu các sản phẩm được quy định trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.(Thông tư 18/1998/TT-BTM ngày 28 tháng 8 năm 1998. Tuy nhiên việc giới hạn thương nhân ở đây là các doanh nghiệp được thành lập theo luật, do đó sẽ không bao gồm các tổ chức hợp tác và các cá nhân trong hoạt động thương mại trực tiếp nước ngoài.
  18. Việc duy nhất các doanh nghiệp phải làm trước khi tiến hành hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu là đăng ký tại cơ quan hải quan. Việc đăng ký chỉ bao gồm việc doanh nghiệp đăng ký mã số và sản phẩm quy định trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Và sau đó doanh nghiệp sẽ được nhận giấy chứng nhận đăng ký mã số. Nghị định 57 ra đời đồng nghĩa với việc mọi doanh nghiệp đều có thể tiến hành hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu. Vào thời điểm 30/11/1997, chỉ có 1630 doanh nghiệp trong số 32000 doanh nghiệp nội địa có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu do Bộ Thương Mại cấp, và phần lớn đều là các doanh nghiệp nhà nước. Nghị định 57 vì vậy đã thúc đẩy sự cạnh tranh không ngừng trong hoạt động thương mại. Tuy nhiên hiện nay hoạt động uỷ thác đã giảm đi nhiều còn khoảng 1% hoặc ít hơn, so với 5% đến 7% vào đầu những năm 1990. Ảnh hưởng của Nghị định 57 lên hoạt động này dù không nhiều như dự đoán nhưng cũng phần nào xoá bỏ bớt một rào cản quan liêu không cần thiết đối với các doanh nghiệp có tham gia vào hoạt động thương mại. Đến ngày 04/04/2001 một văn bản pháp luật mới được ban hành quy định một cách chi tiết và cụ thể về quản lý hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu thời kỳ 2001-2005, đó là Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 46/QĐ-TTg, kèm theo Danh mục hàng hoá cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu thời kỳ 2001- 2005, Danh mục hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép của Bộ Thương mại thời kỳ 2001-2005, Danh mục hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu thuộc diện quản lý chuyên ngành. Danh mục hàng hoá xuất khẩu theo giấy phép của Bộ Thương mại thời kỳ 2001-2005: Hàng dệt may theo hạn ngạch mà Việt Nam thoả thuận với nước ngoài, do Bộ Thương mại công bố cho từng thời kỳ.
  19. Hàng cần kiểm soát xuất khẩu theo quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia, do Bộ Thương mại công bố cho từng thời kỳ. Danh mục hàng hoá nhập khẩu theo giấy phép của Bộ Thương mại thời kỳ 2001-2005: Hàng cần kiểm soát theo quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia, do Bộ Thương mại công bố từng thời kỳ. Xi măng đen trắng. Một số loại kính Một số loại thép Một số loại dầu thực vật Đường tinh chế và đường thô Phương tiện moto 2 hay 3 bánh 100% mới và các linh kiện lắp ráp dưới mọi hình thức SKD hay CKD, động cơ, khung xe 2 hay 3 bánh (trừ đối với xe được đăng ký hàm lượng nội địa) Các phương tiện dưới 9 chỗ, loại mới Ngoài ra, Quyết định này quy định riêng cụ thể đối với một số hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu. Đối với xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ, bãi bỏ việc phê duyệt và phân bổ hạn mức gỗ rừng tự nhiên để sản xuất sản phẩm gỗ xuất khẩu. Mọi dạng sản phẩm gỗ đều được phép xuất khẩu, trừ gỗ tròn, gỗ xẻ khai thác từ rừng tự nhiên trong nước. Gỗ tròn, gỗ xe nhập khẩu và sản phẩm làm từ gỗ nhập khẩu khi xuất khẩu không phải chịu thuế xuất khẩu. Trên cơ sở chỉ tiêu khai thác gỗ rừng tự nhiên từng khu vực đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt hàng năm, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (có chỉ tiêu khai thác) chỉ đạo ngành kiểm lâm kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc khai thác gỗ ngay tại địa phương.
  20. Đối với nhập khẩu xăng dầu, nhiên liệu thì Bộ trưởng Bộ Thương mại sẽ quyết định cụ thể việc phân giao và điều hành hạn mức xăng dầu nhập khẩu. Hạn mức xăng dầu nhập khẩu được giao cho các doanh nghiệp chuyên doanh thực hiện. Bên cạnh đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì cùng các Bộ, ngành liên quan theo dõi sát tình hình cung cầu và giá cả xăng dầu ở thị trường trong, ngoài nước, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét việc điều chỉnh các chính sách liên quan trong trường hợp cần thiết, để ổn định giá cả xăng dầu trong nước, bảo đảm nhu cầu sử dụng xăng dầu của các ngành sản xuất chủ yếu và hoạt động kinh doanh xăng dầu được ổn định. 3. Quản lý tỷ giá hối đoái Tỷ giá hối đoái là một công cụ quản lý có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động thương mại. Việc lên giá hay mất giá đồng tiền trong nước so với ngoại tệ sẽ tác động tức thời đến hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu. Thông thường một tỷ giá khuyến khích xuất khẩu lại gây ra hạn chế nhập khẩu và ngược lại. Tỷ giá hối đoái trước đây trong một thời gian dài được ấn định cố định, chủ yếu là thực hiện trên cơ sở các hiệp định thương mại. Tuy nhiên khi nền kinh tế Việt Nam thực hiện theo cơ chế thị trường thì phải coi tiền tệ là một loại hàng hoá đặc biệt, cho nên giá cả của nó lên, xuống phụ thuộc vào quan hệ cung cầu về ngoại tệ. Không giống như hạn ngạch và thuế quan là công cụ chính phủ có thể điều hành trực tiếp và tương đối dễ dàng, tỷ giá hối đoái lại chủ yếu hình thành từ thị trường, nên nhà nước chỉ có thể tác động có tính chất điều chỉnh. Những cải cách trong chính sách thương mại của Việt nam trong những năm qua vẫn có thể được nhìn nhận là theo khuynh hướng bảo hộ, cho dù ở một vài khía cạnh, một số chính sách đang tồn tại đã được hệ thống hoá. Đặc điểm nổi bật này lại trái ngược với khuynh hướng tự do hoá thương mại. Hàng năm vẫn song song đưa ra các biện pháp tự do hoá và các biện pháp bảo hộ, ví
  21. dụ như đưa ra lịch trình giảm thuế CEPT, xoá bỏ giấy phép nhập khẩu nhưng vẫn tiến hành quản lý tỷ giá hối đoái, vẫn tăng việc sử dụng hạn ngạch, phụ phí và đưa ra danh mục cấm xuất khẩu, nhập khẩu. Hầu hết các hàng rào phi thuế trở nên mạnh hơn, việc cấp giấy phép và hạn ngạch xuất khẩu gạo là giảm bớt đi. Trong phạm vi về biểu giá tối thiểu thì mức độ giảm hầu như không đáng kể. 4. Những cải cách trong các lĩnh vực phi thuế quan khác 4.1. Các biện pháp quản lý giá 4.1.1. Pháp lệnh giá Giá cả là tổng hoà của nhiều mối quan hệ chính trị, kinh tế, xã hội, giữa trong nước, ngoài nước, giữa lương thực-thực phẩm và hàng phi lương thực- thực phẩm, giữa hàng hoá thông thường và những hàng hoá đặc biệt (đất, vàng, đô la) Diễn biến giá cả luôn được quan tâm, theo dõi bởi nó có ảnh hưởng không nhỏ đến việc điều hành vĩ mô nền kinh tế. Ngoài nghiên cứu giá tiêu dùng, giá của các mặt hàng đặc biệt, một yếu tố quan trọng cần được đề cập đó là giá của các mặt hàng xuất khẩu và nhập khẩu chủ yếu như dầu thô, cà phê, hạt điều, cao su, hạt tiêu, lạc, xăng dầu, phân bón. Tính trong sáu tháng đầu năm 2002, giá tiêu dùng tăng 2,9%, tuy nhiên hầu hết giá của các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu trên đều giảm: dầu thô giảm 15%, thiệt hại 263 triệu USD; cà phê giảm 17,8%, thiệt hại 30 triệu USD; hạt điều giảm 13,5%, thiệt hại 13 triệu USD; cao su giảm 10,8%, thiệt hại 11 triệu USD. Giá nhập khẩu của một số mặt hàng cũng giảm đáng kể trong đó giá xăng dầu giảm 11,5%, giá sắt thép giảm 10%, giá phân bón giảm 6,8% (Theo Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 2/2002). Đó chính là nguyên nhân quan trọng làm cho xuất khẩu giảm, nhập khẩu và nhập siêu tăng, ảnh hưởng đến cán cân thương mại, cán cân thanh toán, cung cầu ngoại tệ, tỷ giá Giá
  22. trong nước tăng, giá xuất khẩu giảm sẽ làm cho việc thực hiện các mục tiêu xuất khẩu gặp khó khăn. Quản lý giá cũng là một trong những công cụ của chính sách thương mại. Để đưa ra một chính sách thương mại đúng đắn, mang lại hiệu quả cho nền kinh tế, nhà nước phải rất quan tâm, chú ý đến quản lý giá, nhằm tránh tình trạng thả nổi giá, để cho giá diễn biến phức tạp, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế. Ngày 26 tháng 4 năm 2002, Uỷ ban thường vụ Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X đã thông qua Pháp lệnh giá. Pháp lệnh này có hiệu lực từ ngày 01/07/2002. Pháp lệnh giá ra đời nhằm góp phần phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình ổn giá, bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh, của người tiêu dùng và lợi ích của Nhà nước. Pháp lệnh gồm 5 chương, với 40 điều, nêu rõ Nhà nước định giá đối với đất đai, tài nguyên quan trọng, mặt nước, tài sản của Nhà nước được bán, cho thuê, hàng hoá dịch vụ độc quyền, dịch vụ quan trọng đối với quốc kế dân sinh. Nhà nước thực hiện các chính sách biện pháp cần thiết để tác động vào quan hệ cung cầu, bình ổn thị trường giá đối với những hàng hoá dịch vụ quan trọng và áp dụng các biện pháp kiểm soát giá độc quyền và chống bán phá giá Nghiêm cấm việc tổ chức các tổ chức liên kết độc quyền về giá, bán phá giá hàng hoá, dịch vụ; bịa đặt loan tin không có căn cứ về việc tăng giá hoặc hạ giá gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân nhà sản xuất, kinh doanh, của người tiêu dùng; định giá sai để lừa dối người tiêu dùng Các tổ chức cá nhân sản xuất kinh doanh có quyền tự quyết định giá mua, giá bán hàng hoá, dịch vụ không thuộc danh mục Nhà nước định giá và có trách nhiệm phải niêm yết hàng hoá, cung ứng dịch vụ đúng giá niêm yết. Theo Pháp lệnh này thì căn cứ định giá là chi phí sản xuất, lưu thông; quan hệ cung cầu; sức mua của đồng tiền Việt Nam; giá thị trường trong nước và thế giới và chính sách phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ.
  23. Đặc biệt trong Pháp lệnh giá có đưa ra những quy định về Chống bán phá giá. Khi Việt Nam đang đứng trước những vụ kiện về chống bán phá giá, điển hình là vụ kiện bán phá giá cá tra, cá ba sa trên đất Mỹ thì những quy định về vấn đề này là vô cùng cần thiết. Tuy nhiên vấn đề chống bán phá giá trong Pháp lệnh giá chỉ giới hạn điều chỉnh các mặt hàng xuất xứ và tiêu thụ tại Việt Nam, không điều chỉnh quan hệ thương mại quốc tế. Phạm vi điều chỉnh chỉ giới hạn trong các hàng hoá sản xuất tại Việt Nam không được quy định trong Pháp lệnh giá mà được quy định trong Nghị định hướng dẫn thị hành Pháp lệnh giá (trích từ bài phỏng vấn với ông Nguyễn Ngọc Tuấn, Trưởng ban Vật giá Chính phủ, Lao động số 214 ngày 15/08/2002). Với hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam, không điều tiết theo Pháp lệnh giá. Hiện tại vẫn chưa có văn bản nào quy định chống bán phá giá hàng nhập khẩu. Tuy nhiên điểm mấu chốt của Pháp lệnh giá này là Nhà nước nghiên cứu, xây dựng tổ chức thực hiện các chính sách, biện pháp về giá phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ. Nhà nước ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về giá, quyết định giá hàng hoá, dịch vụ quan trọng độc quyền, kiểm soát giá độc quyền và chống bán phá giá, thu thập phân tích thông tin, dự báo thị trường trong nước và thế giới, kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về giá. 4.1.2. Trị giá tính thuế đối với hàng hoá nhập khẩu Ngoài biện pháp quản lý giá được quy định như Pháp lệnh giá thì một số văn bản phát hành như Luật Hải quan, Luật Thương mại lại đưa ra cách tính trị giá tính thuế đối với hàng xuất khẩu, nhập khẩu nhằm quản lý chặt chẽ hơn nữa hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu khi làm thủ tục hải quan. a/ Trị giá tính thuế đối với hàng hoá nhập khẩu theo nguyên tắc của Hiệp định thực hiện Điều 7 Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT)
  24. Tại Nghị định 60/2002/NĐ-CP quy định: - Đối tượng áp dụng + Hàng hoá nhập khẩu theo hợp đồng thương mại có xuất xứ từ các nước hoặc tổ chức quốc tế mà Việt Nam cam kết thực hiện trị giá tính thuế theo GATT + Hàng hoá nhập khẩu trong Danh mục hàng hoá của Việt Nam để thực hiện Hiệp định ưu đãi về thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) của các nước ASEAN. - Trị giá tính thuế: Trị giá tính thuế đối với hàng hoá nhập khẩu được xác định bằng cách áp dụng tuần tự một trong các phương pháp dưới đây: + Phương pháp xác định trị giá tính thuế theo trị giá giao dịch đối với hàng nhập khẩu. Trị giá giao dịch là giá thực tế đã thanh toán hoặc sẽ phải thanh toán cho hàng hoá được bán để nhập khẩu vào Việt Nam. + Phương pháp xác định trị giá tính thuế theo trị giá giao dịch của hàng hoá nhập khẩu giống hệt. Hàng hoá nhập khẩu giống hệt là những hàng hoá giống nhau về mọi phương diện, kể cả đặc điểm vật lý, chất lượng và danh tiếng; chúng được sản xuất ở cùng một nước, bởi cùng một nhà sản xuất hoặc nhà sản xuất khác uỷ quyền cho nhà sản xuất đó, được nhập khẩu vào Việt Nam. + Phương pháp xác định trị giá tính thuế theo trị giá giao dịch của hàng hoá nhập khẩu tương tự. Hàng hoá nhập khẩu tương tự là những hàng hoá mặc dù không giống nhau về mọi phương diện nhưng có các đặc trưng cơ bản giống nhau, được làm từ các nguyên, vật liệu tương đương; chúng có cùng chức năng và có thể hoán đổi cho nhau trong giao dịch thương mại; chúng được sản xuất ở cùng một nước, bởi cùng một nhà sản xuất hoặc nhà sản xuất khác uỷ quyền cho nhà sản xuất đó, được nhập khẩu vào Việt Nam.
  25. + Phương pháp xác định trị giá tính thuế theo trị giá khấu trừ Trị giá khấu trừ được xác định căn cứ vào giá bán của hàng hoá nhập khẩu trên thị trường Việt Nam trừ đi các chi phí hợp lý, lợi nhuận bán hàng phát sinh sau khi nhập khẩu. + Phương pháp xác định trị giá tính thuế theo trị giá tính toán Trị giá tính toán được xác định bao gồm các khoản: chi phí, lợi nhuận sản xuất hàng hoá nhập khẩu; các chi phí quy định tại khoản 1 điều 11 Nghị định này. + Phương pháp suy luận Trị giá tính thuế được xác định theo phương pháp thích hợp, dựa vào các tài liệu, số liệu khách quan có sẵn tại thời điểm xác định trị giá tính thuế và phù hợp với quy định của Nghị định này. Trong trường hợp người khai hải quan đề nghị thì trình tự áp dụng các phương pháp xác định trị giá tính thuế theo trị giá tính toán và phương pháp suy luận có thể thay đổi cho nhau. Tuy nhiên Nghị định này cũng quy định Việt Nam vẫn áp dụng giá tính thuế tối thiểu đối với một số mặt hàng nhập khẩu để bảo vệ lợi ích của Nhà nước và bảo hộ sản xuất trong nước. b/ Trị giá tính thuế đối với hàng hoá nhập khẩu khác: Theo Điều 71 Luật Hải quan thì trị giá tính thuế đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu được xác định theo quy định của pháp luật về thuế và các quy định khác của pháp luật. Chính phủ quy định cụ thể việc xác định trị giá tính thuế đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, Giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu hiện hành áp dụng cùng lúc 2 phương pháp: xác định trị giá theo hợp đồng và phương pháp định giá quốc gia. - Phương pháp xác định trị giá theo hợp đồng Theo Điều 7 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu quy định:
  26. + Giá tính thuế đối với hàng hoá nhập khẩu là giá mua của khách hàng tại cửa khẩu nhập bao gồm chi phí vận tải (F) và phí bảo hiểm (I) theo hợp đồng bán hàng phù hợp với các chứng từ khác có liên quan đến việc bán hàng. + Giá tính thuế đối với hàng hoá xuất khẩu là giá bán cho khách hàng tại cửa khẩu xuất không bao gồm chi phí vận tải (F) và phí bảo hiểm (I) theo hợp đồng bán hàng phù hợp với các chứng từ khác có liên quan đến việc bán hàng. Việc xác định điều kiện để áp dụng trị giá tính thuế theo hợp đồng thương mại lại được quy định tại Thông tư số 08/2002/TT-BTC 23/01/2002 hướng dẫn thực hiện áp dụng giá tính thuế nhập khẩu theo hợp đồng mua bán ngoại thương. Theo Thông tư này, điều kiện xem xét một hợp đồng mua bán ngoại thương để làm căn cứ xác định trị giá tính thuế, trước hết phải có đầy đủ nội dung chủ yếu của Điều 50 Luật Thương mại ngày 10/05/1997. Còn đối với mặt hàng thuộc diện Nhà nước quản lý giá, giá tính thuế là giá theo bảng giá của Bộ Tài chính phối hợp Bộ Thương mại và Tổng cục Hải quan ban hành. - Xác định theo phương pháp định giá quốc gia Theo Thông tư 08/2002/TT-BTC quy định: + Đối với hàng hoá nhập khẩu không đủ điều kiện để áp dụng giá tính thuế nhập khẩu theo hợp đồng mua bán ngoại thương; hàng hoá nhập khẩu theo phương thức khác không thông qua hợp đồng (hàng nhập khẩu phi mậu dịch, hàng nhập khẩu của cư dân biên giới, ), không thanh toán qua Ngân hàng (hàng đổi hàng, hàng trả công, ) thì giá tính thuế được thực hiện theo bảng giá tính thuế của Bộ Tài chính quy định (đối với các mặt hàng Nhà nước quản lý giá) hoặc của Tổng cục Hải quan quy định (đối với các mặt hàng Nhà nước không quản lý giá) + Đối với hàng hoá thuộc danh mục các mặt hàng Nhà nước quản lý giá tính thuế (trừ một số trường hợp ngoại lệ) có giá ghi trên hợp đồng thấp hơn giá ghi tại Bảng giá tối thiểu do Bộ Tài chính ban hành thì giá tính thuế
  27. nhập khẩu là giá ghi tại Bảng giá tối thiểu. Đối với các hàng hoá khác (trừ một số trường hợp ngoại lệ), nếu giá ghi trên hợp đồng mua bán thấp hơn 80% mức giá kiểm tra của cơ quan hải quan thì thực hiện tính thuế nhập khẩu theo mức giá kiểm tra (giá kiểm tra là mức giá được xác định trên cơ sở giá nhập khẩu thực tế của hàng hoá do Tổng cục Hải quan quy định để làm căn cứ kiểm tra giá nhập khẩu, được sử dụng thống nhất tại các cửa khẩu). 4.2 Quyền kinh doanh xuất nhập khẩu Theo quy định của WTO, các nước thành viên phải công khai tất cả các chính sách, chế độ kinh tế thương mại của mình, phải đảm bảo cho các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ nước mình được đối xử như các doanh nghiệp trong nước, được tự do kinh doanh trong khuân khổ luật pháp và quy chế hiện hành của mỗi nước. Điều này tạo ra môi trường kinh doanh rõ ràng, tạo điều kiện cho thương mại phát triển. Quyền kinh doanh xuất nhập khẩu còn phải đảm bảo giữa các doanh nghiệp trong nước. Việt Nam cũng đã có nhiều cố gắng trong điều chỉnh chính sách và các quy định về việc thành lập và hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu nhưng vẫn còn rất nhiều tồn tại trong lĩnh vực này đặc biệt là giữa doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà nước. 4.3 Ban hành Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá vào Việt Nam Ngày 24 tháng 5 năm 2002, Uỷ ban Thường Vụ Quốc hội đã thông qua 02 pháp lệnh: “Pháp lệnh về Tự Vệ trong nhập khẩu hàng hoá vào Việt Nam” và “Pháp lệnh về Đối xử tối huệ quốc và Đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế”. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh chúng ta đang hoàn thiện chính sách thương mại phù hợp với các quy định của các tổ chức quốc tế, nhằm thể hiện sự tích cực chủ động tham gia vào nền kinh tế khu vực cũng
  28. như trên thế giới của Việt Nam. Những quy phạm pháp luật được đề cập trong 2 pháp lệnh nói trên là những chế định phổ biến trong thương mại quốc tế nói riêng và Tổ chức Thương Mại Thế Giới (WTO) nhưng chúng còn khá mới mẻ trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Có thể nói qua xem xét thực tiễn thương mại trên thế giới thì các biện pháp tự vệ là một trong những công cụ hiệu quả nhất để bảo hộ sản xuất trong nước. Các biện pháp tự vệ theo quy định của WTO được coi là một công cụ hỗ trợ các nhà sản xuất trong nước khi có hiện tượng gia tăng nhập khẩu hàng hoá một cách bất thường hoặc đe dọa gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước. Tuy nhiên các nước không được phép áp dụng biện pháp này một cách tuỳ tiện mà phải theo đúng nguyên tắc trình tự và thủ tục mà quốc tế thừa nhận, đặc biệt phù hợp với các quy định của WTO. Việt Nam chúng ta đang trong bối cảnh phải thực hiện các cam kết hội nhập quốc tế trong đó có việc giảm thiểu việc quản lý nhập khẩu bằng các biện pháp hành chính. Việc ban hành các văn bản pháp luật điều chỉnh việc áp dụng các biện pháp tự vệ là rất cần thiết để tránh tình trạng ỷ lại của một số doanh nghiệp đồng thời vấn đề này cũng khá mới mẻ khi tiếp cận các doanh nghiệp. III/ Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, sự tham gia vào các thể chế thương mại song phương và đa phương Trong những năm đầu của thập kỷ 1980, nền kinh tế nước ta bị lâm vào khủng hoảng kéo dài với tốc độ tăng trưởng thấp và không ổn định, đi đôi với lạm phát cao, do ta duy trì quá lâu cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung bao cấp. Trước tình hình đó, tháng 12-1986, Đại hội VI của Đảng đã quyết định đường lối Đổi mới toàn diện mang tính chiến lược, mở ra thời kỳ mới cho sự phát triển kinh tế nói chung và hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng. Đại hội VI
  29. đã quyết định xây dựng một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới Đảng ta đã triển khai nhiều cải cách quan trọng như: Từng bước xoá bỏ bao cấp về giá; Khuyến khích các thành phần kinh tế khác nhau phát triển để giải phóng sức sản xuất; Đôỉ mới hoạt động tài chính, tiền tệ và loại bỏ chế độ hai giá Trong công nghiệp, trao quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp Nhà nước, thực hiện hạch toán kinh tế, lấy thu bù chi, xoá dần bao cấp, gảim bớt các chỉ tiêu pháp lệnh, khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh mở rộng sản xuất để thu hút vốn đầu tư phát triển công nghiệp Ban hành Luật đầu tư nước ngoài với nhiều điều khoản ưu đãi Với những cải cách bước đầu trên, nền kinh tế nước ta đã vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội của những năm đầu thập kỷ 1980 và bắt đầu phục hồi sau khi Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo, dầu thồ và kiềm chế được lạm phát. Tuy nhiên cuộc khủng hoảng lần thứ nhất những năm 1980 còn chưa được khắc phục một cách cơ bản khủng hoảng thứ hai xuất phát từ bên ngoài lại ảnh hưởng trực tiếp đến nước ta. Đó là sự sụp đổ của Liên Xô cũ và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu. Nền kinh tế nước ta phải đương đầu với những khó khăn lớn tưởng chừng như không thể vượt qua được khi nguồn vốn đầu tư bị cắt giảm đột ngột, nguồn viện trợ không còn và thị trường xuất khẩu truyền thống bị đảo lộn và thu hẹp đột ngột trong khi Mỹ vẫn tiếp tục cấm vận kinh tế đối với nước ta. Lạm phát tăng trở lại lên tới 67,1% năm 1990 và 67,5% năm 1991. Kim ngạch xuất khẩu giảm và nhập khẩu cũng giảm.
  30. Để đối phó với tình hình mới, Đảng ta đã đề ra Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2000. Đại hội VII (6-1991) đã khẳng định việc tiếp tục đường lối đổi mới của Đại hội VI với mục tiêu trong kế hoạch 5 năm 1991-1995 là vượt qua khó khăn thử thách, ổn định và phát triển kinh tế xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đưa nước ta cơ bản ra khỏi khủng hoảng. Đồng thời Đảng cũng đề ra đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá theo tinh thần: “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình độc lập và phát triển” nhằm phát triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại, phá thế bị bao vây, cấm vận, tham gia tích cực vào đời sống cộng đồng quốc tế. Quyết định đánh dấu một bước phát triển mới trong tiến trình hội nhập quốc tế của nước ta xuất phát từ yêu cầu nội tại của sự phát triển của tình hình đối nội cũng như đối ngoại của ta lúc đó, trên cơ sở những thành tựu ban đầu của công cuộc đổi mới và phù hợp chung với những xu thế chung của thời đại là toàn cầu hoá, hội nhập, hoà bình, ổn định và hợp tác vì phát triển. Về lĩnh vực kinh tế đối ngoại, Đại hội VII chủ trương “Gắn thị trường trong nước với thị trường thế giới, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, có chính sách bảo vệ sản xuất nội địa”. Như vậy ngay từ năm 1991, Đảng đã xác định chủ trương gắn kết thị trường nội địa và thị trường quốc tế. Đây chính là nội dung chủ yếu của hội nhập kinh tế quốc tế và là bước phát triển lô gích tất yếu sau khi chúng ta đã cơ bản thống nhất được thị trường trong nước theo cơ chế một giá được xác định cơ bản trên cơ sở cung - cầu của thị trường. Việc gắn kết thị trường nội địa và thị trường quốc tế là một chủ trương đúng đắn nhằm không ngừng nâng cao sản xuất, chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp và của toàn bộ nền kinh tế thông qua sự mở rộng từng bước phạm vi, mức độ và đối tượng cạnh tranh trên các thị trường nội địa, khu vực và toàn cầu. Văn kiện Đại hội cũng đã xác định là nguyên tắc hội nhập kinh tế quốc tế của ta là “mở rộng đa dạng
  31. hoá, đa phương hoá và đa phương hóa quan hệ kinh tế đối ngoại trên nguyên tắc giữ vững độc lập chủ quyền, bình đẳng cùng có lợi”. Tiếp đó trong Nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ ba (khoá VII), Đảng ta xác định nội dung nhiệm vụ chủ yếu của công tác hội nhập là “cố gắng khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế như Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng thế giới, Ngân hàng phát triển Châu Á, mở rộng quan hệ với các tổ chức hợp tác khu vực ở Châu Á-Thái Bình Dương”. Thực hiện chủ trương đó, chúng ta đã tiến hành đàm phán về trả nợ quá hạn cho IMF, và đã nối lại được quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế như IMF, WB, ADB từ tháng 10- 1993 sau gần 15 năm bị gián đoạn. Nhờ đó IMF đã tuyên bố bình thường hoá quan hệ với Việt Nam và thông qua chương trình cho vay dự phòng và chuyển đổi cơ cấu trị giá khoảng 245 triệu USD. Tháng 10-1993, với sự ủng hộ của IMF và WB, Hội nghị các nhà tài trợ cho Việt Nam đã được tổ chức tại Pari. Các nước tham dự hội nghị đã cho Việt Nam cam kết vay vốn ODA 1,8 tỷ USD trong năm 1994, cam kết giúp Việt Nam giải quyết các khoản nợ chính phủ thông qua Câu lạc bộ Pari và các khoản nợ tư nhân thông qua Câu lạc bộ Luânđôn. Ngày 10-11-1994, IMF thông qua chương trình cho vay điều chỉnh cơ cấu mở rộng cho Việt Nam trong 3 năm 1994-1997 với số vốn 535 triệu USD chia thành 6 đợt rút vốn. Cùng vói sự phát triển của quá trình hội nhập nền kinh tế Việt Nam với kinh tế khu vực và thế giới, nhằm đẩy mạnh hội nhập hơn nữa, các tư tưởng và nội dung chỉ đạo của Đảng ngày càng rõ hơn, cụ thể hơn. Đại hội VIII của Đảng (1996) đã khẳng định và cụ thể hóa chủ trương xây dựng một nền kinh tế mở, đa phương hóa, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu những mặt hàng trong nước sản xuất có hiệu quả, tranh thủ vốn, công nghệ, thị trường quốc tế, mở rộng hợp tác quốc tế, hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn
  32. vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi. Trong giai đoạn trên, Việt Nam đã thực hiện một số bước hội nhập kinh tế quốc tế đáng chú ý sau: 1.Tham gia các thể chế thương mại song phương a/ Với Mỹ, sau khi bình thường hoá quan hệ ngoại giao, hai bên đã thực hiện nhiều cố gắng để bình thường hoá và thúc đẩy quan hệ kinh tế như giải quyết xong vấn đề nợ cũ của chế độ Sài Gòn; ký Hiệp định bảo hộ bản quyền; từ năm 1998 Mỹ tạm miễn áp dụng tu chính án Jackson-Vanik ; Việt Nam ký Hiệp định khung về bảo lãnh với Ngân hàng xuất nhập khẩu (Eximbank - 1999) - một ngân hàng chuyên hỗ trợ cho việc buôn bán với nước ngoài của Mỹ và Thoả thuận của công ty đầu tư tư nhân ở nước ngoài, một tổ chức của chính quyền Hoa Kỳ hỗ trợ các công ty Mỹ làm ăn ở nước ngoài; đàm phán và ký kết Hiệp định thương mại Việt-Mỹ dựa trên nguyên tắc của WTO (14-07- 2000). Kim ngạch buôn bán hai chiều giữa hai nước tăng khá nhanh: từ 222 triệu USD năm 1994 lên gần 830 triệu năm 2000, riêng 9 tháng đầu 2001đạt 733 triệu USD, tăng 21,1% so với 9 tháng cùng kỳ năm 2000. Về đầu tư phát triển, đến cuối năm 2000 Mỹ đứng hàng thứ 9 trong số các nước đầu tư vào Việt Nam với gần 200 dự án có tổng số vốn đăng ký trên 1,5 tỷ USD (Việt Nam-Hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu hóa, Vấn đề và giải pháp-Bộ Ngoại giao-Vụ Hợp tác kinh tế đa phương-Nhà xuất bản chính trị quốc gia, tr 292). Việc Hiệp định thương mại Việt-Mỹ đã được Quốc hội hai nước phê chuẩn và có hiệu lực từ ngày 11-12-2001 đang tạo ra môi trường mới cho quan hệ kinh tế, đặc biệt là quan hệ thương mại giữa hai nước mở rộng và phát triển.
  33. b/ Với Nhật Bản, quan hệ kinh tế giữa hai nước được khôi phục và phát triển mạnh mẽ kể từ năm 1986. Hai nước đã ký nhiều hiệp định hợp tác song phương về kinh tế, thương mại, đầu tư, văn hoá, khoa học, kỹ thuật Đặc biệt mới đây hai bên đã có quyết định dành cho nhau mức thuế MFN trong buôn bán song phương. Hiện nay Nhật là bạn hàng buôn bán quan trọng hàng đầu của Việt Nam (tổng trị giá buôn bán hai chiều giữa hai nước năm 1999 là 3,7 tỷ USD, năm 2000 đạt 4,8 tỷ USD ) và là nước cung cấp ODA lớn nhất cho Việt Nam. Tổng đầu tư trực tiếp của Nhật tại Việt Nam đến năm 2000 là trên 3,5 tỷ USD với hơn 300 dự án và tính đến năm 2001 đạt xấp xỉ 4 tỷ USD với 352 dự án (Việt Nam-Hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu hóa, Vấn đề và giải pháp-Bộ Ngoại giao-Vụ Hợp tác kinh tế đa phương-Nhà xuất bản chính trị quốc gia, tr 293). c/ Với Trung Quốc, việc bình thường hoá quan hệ ngoại giao năm 1991 đã mở đường cho sự phát triển quan hệ nhiều mặt giữa hai nước, đặc biệt là quan hệ kinh tế. Hai bên đã ký nhiều hiệp định tạo cơ sở pháp lý cho hợp tác giữa hai nước: Hiệp định thương mại (7-11-1991), Hiệp định hợp tác kinh tế (2-1992), các hiệp định về hợp tác khoa học, kỹ thuật, đầu tư, du lịch vận tải, giải quyết vấn đề về biên giới, v.v Nhờ vậy kim ngạch buôn bán giữa hai nước tăng rất nhanh trong những năm qua: năm 1999 đạt 1,4 tỷ USD, năm 2000 đạt gần 2 tỷ USD và năm 2001 đạt gần 3 tỷ USD. Hiện Trung Quốc có trên 100 dự án đầu tư tại Việt nam với tổng số vốn là 214 triệu USD (Việt Nam-Hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu hóa, Vấn đề và giải pháp-Bộ Ngoại giao-Vụ Hợp tác kinh tế đa phương-Nhà xuất bản chính trị quốc gia, tr 292). d/ Quan hệ Việt Nam và EU đã phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ này. Việt Nam chính thức bình thường hoá quan hệ ngoại giao với EU vào tháng 11-1990 và ký Hiệp định hàng dệt song phương vào năm 1992 (hạn ngạch và các điều khoản về thị trường được điều chỉnh năm 1995 và Hiệp định bổ sung
  34. được ký các năm 1996 và 2000). Trong khi đó, cam kết tài chính của EU với Việt Nam tăng lên gần 30 triệu ECU/năm thời kỳ 1995-1996. Ngày 17-7- 1995, Việt Nam và EU đã ký Hiệp định khung về hợp tác kinh tế, khoa học và kỹ thuật. Quan hệ thương mại Việt Nam - EU phát triển khá nhanh trong thời gian 1996 đến nay. Đặc biệt mức tăng xuất khẩu bình quân của Việt Nam sang EU đạt 32%/năm từ 1,292 tỷ euro năm 1996 lên 2,017 tỷ euro năm 1997, 2,589 tỷ euro năm 1998, 3,104 tỷ euro năm 1999, 3,964 tỷ euro năm 2000. Với gía trị xuất khẩu như vậy, hiện nay Việt Nam xuất siêu trong thương mại với EU (1997 là 1,7 tỷ euro). Về FDI, đến hết năm 2000, đã có 11 trên 15 nước thành viên EU đầu tư vào Việt Nam trong 534 dự án với tổng số vốn đăng ký là 6,62 tỷ USD (Việt Nam-Hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu hóa, Vấn đề và giải pháp-Bộ Ngoại giao-Vụ Hợp tác kinh tế đa phương-Nhà xuất bản chính trị quốc gia, tr 294). 2.Tham gia các thể chế thương mại đa phương: ASEAN, ASEM, APEC, WTO Các thể chế trên, ASEAN, ASEM, APEC, WTO có cùng chung mục tiêu và nguyên tắc hoạt động. Đó là cùng chung mục tiêu liên kết các nền kinh tế thông qua tăng cường trao đổi thương mại, đầu tư và hợp tác kinh tế để từng bước có sự phát triển thống nhất của nền kinh tế và thị trường thế giới, qua đó thúc đẩy phát triển kinh tế toàn cầu, khu vực và các thành viên. Đáng lưu ý, các thể chế đều đặt mục tiêu giảm bớt sự cách biệt về trình độ phát triển giữa các thành viên. ASEAN, ASEM, APEC, WTO đều là các thể chế liên chính phủ với chức năng chính là: đề ra luật lệ điều chỉnh quan hệ thương mại, làm cho thương mại thế giới và khu vực tránh được nhiều bất trắc, xáo trộn đột ngột ; thương lượng hoặc cam kết về tự do hoá mậu dịch, hợp tác kỹ thuật giữa các nước thành viên; giải quyết tranh chấp và bảo đảm tính minh bạch về chế độ thương mại của các nước. Nội dung hoạt động của các thể chể rất đa dạng và
  35. có nhiều điểm riêng, song có một điểm chung là hướng tới từng bước mở cửa tối đa về thương mại và đầu tư thông qua bỏ dần các cản trở đối với các hoạt động kinh tế bằng những luật chơi chung. Về thực chất các thể chế đều đòi hỏi mỗi thành viên tham gia phải đáp ứng các điều kiện tối thiểu như cải cách và mở cửa thị trường; điều chỉnh chính sách và cơ cấu kinh tế trong nước cho phù hợp với các chuẩn mực chung; bảo đảm tính minh bạch của các luật lệ và quy định về kinh tế cũng như việc thực thi các quy định đó trên thực tế. Dù trong bối cảnh khủng hoảng, xu hướng chung của các thể chế trên là phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, nhất là trong những lĩnh vực chưa được đề cập nhiều như dịch vụ, đầu tư, mua sắm chính phủ, sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh tranhvv. Quy chế và tổ chức của các thể chế này cũng ngày càng chặt chẽ hơn, đồng thời thời hạn mở cửa ngày càng rút ngắn, đòi hỏi các nước đang phát triển nỗ lực và tranh thủ thời gian hơn mới tránh được nguy cơ tụt hậu. 2.1. Quá trình tham gia ASEAN của Việt Nam Ngày 17-10-1994, Việt Nam chính thức gửi đơn gia nhập ASEAN và trở thành thành viên chính thức của tổ chức này kể từ ngày 28-7-1995 với cam kết sẽ bắt đầu thi hành nghĩa vụ thành viên Khu vực mậu dịch tự do ASEAN(AFTA) từ ngày 1-1-1996. AFTA được thực hiện thông qua chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT). Như đã được nêu rõ trong các văn kiện Hiệp định, mục tiêu của AFTA là loại bỏ hoàn toàn các hàng rào cản trở thương mại đối với hầu hết hàng hoá trong nội bộ ASEAN, kể cả thuế quan và các loại hàng rào phi thuế quan. Về quy mô, ASEAN là liên minh các quốc gia đang phát triển ở tầm tiểu khu vực. ASEAN mang đặc điểm riêng gồm những thành viên ở trình độ phát triển kinh tế không quá cách xa nhau.
  36. Có thể nói quyết định tham gia AFTA là một biện pháp đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Đây là lần đầu tiên Việt Nam thực sự tham gia vào một hiệp định tự do hoá thương mại quốc tế ở tầm khu vực phù hợp với các luật lệ thương mại chung của thế giới. Việc thực hiện các cam kết về mở cửa tự do hoá thương mại theo một lộ trình cụ thể và trên nguyên tắc có đi có lại thể hiện quyết tâm hội nhập của Việt Nam. Hợp tác kinh tế ASEAN được bắt đầu từ những năm 1970. Một số chương trình hợp tác về thương mại và công nghiệp quan trọng như Thoả thuận thương mại ưu đãi (PTA), Dự án công nghiệp ASEAN (AIP), Chương trình bổ trợ công nghiệp (AIC), Chương trình liên doanh công nghiệp (AIJV) đã được ký kết và thực hiện trong những năm 1970-1980. Tuy nhiên kết quả của những chương trình hợp tác này còn rất hạn chế. Năm 1992, các nước ASEAN ký Hiệp định thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (Common Effective Preferential Tariff Scheme - CEPT) quy định việc xây dựng Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Việc xây dựng AFTA nhằm 3 mục tiêu: Thúc đẩy tự do hoá thương mại ASEAN bằng việc loại bỏ các hàng rào thuế quan và cuối cùng là hàng rào phi thuế quan trong nội bộ khu vực, Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào khu vực bằng việc đưa ra một thị trường chung thống nhất, và Làm cho ASEAN thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế đang thay đổi, đặc biệt là việc phát triển các thoả thuận thương mại khu vực (RTA) trên thế giới Bên cạnh việc tham gia AFTA, Việt Nam đã cùng các nước nước ASEAN khác ký Hiệp định khung về thành lập Khu vực đầu tư ASEAN (AIA) ngày 7-10-1998 với mục tiêu nhằm tạo ra một khu vực tự do đầu tư trong nội bộ các nước ASEAN vào năm 2010 cho các nước ngoài ASEAN vào 2020.
  37. Theo Hiệp định này, các nước ASEAN sẽ mở cửa các ngành/nghề và cho các nhà đầu tư ASEAN hưởng quy chế đối xử quốc gia (mốc hoàn thành thực hiện đối với Việt Nam là năm 2010, đối với các nước ASEAN khác là 2003) sau đó mở ra cho các nhà đầu tư không thuộc ASEAN. Sau khi ký cam kết, Việt Nam đã tiến hành các thủ tục phê chuẩn, phê duyệt, nộp Danh mục các ngành/nghề tạm thời loại trừ không áp dụng các ưu đãi về đối xử quốc gia và mở cửa thị trường, Danh mục các ngành/nghề nhạy cảm, Danh mục các ngành nghề mở cửa và áp dụng chế độ đối xử quốc gia cụ thể để triển khai thực hiện AIA. Việt Nam cũng đã cùng các nước ASEAN đàm phán và ký các Nghị định thư để cụ thể hoá các quy định cuả Hiệp định khung đồng thời triển khai các chương trình hành động và thuận lợi hoá đầu tư trong ASEAN. Ngoài ra, Việt Nam cũng đã cùng các nước ASEAN đàm phán và ký Hiệp định khung ASEAN về tạo điều kiện thuận lợi cho vận tải quá cảnh cùng các nghị định thư đi kèm, Hiệp định khung ASEAN về vận tải đa phương tiện, Nghị định thư ASEAN về hoán đổi ngoại tệ nhằm tăng cường và mở rộng các lĩnh vực hợp tác và tự do hoá trong ASEAN. Chỉ trong vòng 5 năm sau khi gia nhập ASEAN, kim ngạch buôn bán của Việt Nam với ASEAN đã tăng nhanh chóng, đạt 6 tỷ USD, gấp 16,5 lần so với năm 1993; 1,3 lần so với năm 1994 và chiếm tỷ trọng 21% tổng giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam. Tính chung từ năm 1990 đến nay, thương mại giữa Việt Nam và các nước ASEAN tăng với tốc độ trung bình trên 20% /năm và hiện nay chiếm tới trên 1/ 4 toàn bộ kim ngạch ngoại thương của Việt Nam. Về đầu tư, sau năm 1987, đầu tư trực tiếp của các nước ASEAN vào Việt Nam tăng rất nhanh. Cho đến tháng 6/1995, ASEAN đã đầu tư vào Việt Nam gần 200 dự án với tổng số vốn đầu tư lên tới trên 2 tỷ USD, chiếm 15% tổng số FDI vào Việt Nam tại thời điểm đó. Hiện nay, FDI của các nước ASEAN vào Việt Nam xấp xỉ 10 tỷ USD trong gần 580 dự án, chiếm khoảng 27% tổng vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam (Việt Nam-Hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu hóa, Vấn đề và giải pháp-Bộ Ngoại giao-Vụ Hợp tác kinh tế đa
  38. phương-Nhà xuất bản chính trị quốc gia, tr 299). Sự tham gia các chương trình liên kết kinh tế AIA, AFTA, AICO, việc triển khai chương trình hợp tác sông Mê Công, nhất là thực hiện sáng kiến quan trọng của ta về phát triển kinh tế các vùng nghèo liên quốc gia dọc hành lang Đông-Tây (WEC) đã tạo thế chủ động hội nhập của nước ta vào nền kinh tế khu vực, phù hợp với các ưu tiên phát triển của ta. 2.2. Quá trình tham gia APEC của Việt Nam Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) được 12 thành viên thuộc khu vực Châu Á - Thái Bình Dương sáng lập tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao và Kinh tế tổ chức ở Canberra tháng 11-1989 theo sáng kiến của Australia. Cho đến nay số thành viên của APEC là 21 bao gồm: Ôxtrâylia, Brunây, Canada, Chilê, Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Công, Inđônêxia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malayxia, Mêhicô, Niu Dilân, Papua Niu Ghinê, Philíppin, Xingapo, Thái Lan, Hoa Kỳ, Việt Nam, Nga, Pêru. Mục tiêu đề ra của APEC là duy trì tăng trưởng và sự phát triển trong khu vực, đóng góp vào kinh tế thế giới, khuyến khích hàng hoá, dịch vụ, công nghệ, tăng cường hệ thống thương mại đa phương, giảm hàng rào đối với hàng hóa, dịch vụ đầu tư phù hợp với WTO. Sau hơn 10 năm tồn tại và phát triển, với vai trò là một tổ chức nhằm thúc đẩy mở cửa và hợp tác về kinh tế - thương mại giữa các nền kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương, góp phần hình thành cơ chế buôn bán toàn cầu. Nhằm thực hiện những mục tiêu đề ra, nội dung hoạt động của APEC xoay quanh ba trụ cột chính là tự do hoá thương mại và đầu tư, tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư, và hợp tác kinh tế kỹ thuật với các Chương trình hành động tập thể (CAP) và Chương trình hành động quốc gia của từng thành viên (IAP). Nói cách khác, mục tiêu của APEC không phải là để xây dựng một khối thương mại, một liên minh quan thuế hay một khu vực mậu dịch tự do như kiểu EU,
  39. NAFTA hay AFTA, mà là một diễn đàn kinh tế mở, nhằm xúc tiến các biện pháp kinh tế, thúc đẩy thương mại và đầu tư giữa các nền kinh tế thành viên trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện cùng có lợi, nguyên tắc đồng thuận, nguyên tắc tự nguyện và phù hợp với nguyên tằc của WTO/GATT. Việt Nam gia nhập APEC năm 1998. Tuy là một nền kinh tế đang phát triển trong giai đoạn chuyển đổi, Việt Nam đã tích cực tham gia vào các chương trình hoạt động của APEC. Tháng 10-1998, ta đã hoàn thiện Chương trình hành động quốc gia (IAP) và nộp cho APEC, sau đó hàng năm chúng ta tiếp tục nâng cấp và cụ thể hoá các cam kết đưa ra trong IAP. Cam kết thực hiện IAP của Việt Nam được coi là nghiêm túc nhất trong số các thành viên mới gia nhập (đã mở rộng cam kết trong 11 trên tổng số 15 lĩnh vực). Trong thời gian tới, Việt Nam tập trung dành ưu tiên cho chương trình hợp tác kinh tế kỹ thuật; tham gia có chọn lọc một số Kế hoạch hành động tập thể (CAP) như thủ tục hải quan, tiêu chuẩn chất lượng, du lịch. 2.3. Quá trình tham gia ASEM của Việt Nam Hội nghị cấp cao Á-Âu (ASEM ) lần thứ nhất đã được tổ chức tại Băng Cốc từ ngày 1 đến 2 tháng 3 năm 1996, đánh dấu sự ra đời của tiến trình hợp tác Á-Âu. Tiến trình này ra đời xuất phát từ thực tế là mối quan hệ giữa châu Á và châu Âu kém phát triển hơn so với quan hệ giữa châu Á với châu Mỹ cũng như giữa châu Âu với Bắc Mỹ. Số thành viên của ASEM hiện nay bao gồm 15 nước thuộc Liên minh châu Âu, 7 nước ASEAN và 3 nước Đông Bắc Á và Uỷ ban châu Âu. Theo khuôn khổ hợp tác Á-Âu thông qua tại ASEM II ở Anh tháng 4 năm 1998 và khuôn khổ hợp tác Á-Âu 2000 thông qua tại ASEM III ở Hàn Quốc tháng 10 năm 2000, mục đích của ASEM là tạo dựng “một mối quan hệ đối tác mới toàn diện giữa Á-Âu vì sự phát triển mạnh mẽ hơn” trong thế kỷ 21. ASEM tiến hành hoạt động theo những nguyên tắc sau:
  40. Bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi; ASEM là một quá trình mở, tiệm tiến, không chính thức nên không nhất thiết thể chế hoá; Tăng cường nhận thức và hiểu biết lânc nhau thông qua một tiến trình đối thoại và tiến tới hợp tacs trong việc xác định các ưu tiên cho các hoạt động phối hợp và hỗ trợ lẫn nhau; Triển khai đồng đều ở cả ba lĩnh vực hợp tác chủ yếu là tăng cường đối thoại chính trị, thúc đẩy hợp tác kinh tế và đẩy mạnh hợp tác trong các lĩnh vực khác; Việc mở rộng thành viên cần phải được thực hiện với sự nhất trí chung của các vị đứng đầu Nhà nước và Chính phủ 2.4. Quá trình tham gia WTO của Việt Nam Tổ chức Thương mại thế giới thành lập ngày 1-1-1995 với tư cách là thể chế pháp lý điều tiết các mối quan hệ kinh tế thương mại quốc tế mang tính toàn cầu. WTO ra đời trên cơ sở kế thừa tất cả các nguyên tắc, luật lệ của tổ chức tiền thân đã tồn tại gần 50 năm qua là Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT) Để thực hiện các mục tiêu chung của GATT trước đây, WTO đã xác định ba mục tiêu cụ thể là : (1) thúc đẩy tăng trưởng thương mại hàng hoá và dịch vụ trên thế giới, (2) giải quyết các tranh chấp thương mại giữa các nước thành viên trong khuân khổ của hệ thống thương mại đa phương và (3) nâng cao mức sống, tạo công ăn việc làm cho người dân các nước thành viên. Để thực hiện các mục tiêu nêu trên một cách có hiệu quả, WTO đã đặt ra một loạt các nguyên tắc hoạt động mang tính ràng buộc mà tất cả các thành viên WTO phải tuân thủ. Có bốn nguyên tắc quan trọng nhất cần được đề cập:
  41. a/ Nguyên tắc “Tối huệ quốc” (MFN) được hiểu là nếu một nước dành cho một nước thành viên một sự đối xử ưu đãi nào đó thì nước này cũng sẽ phải dành sự ưu đãi đó cho tất cả các nước thành viên khác. b/ Nguyên tắc “Đối xử quốc gia” được hiểu là hàng hoá nhập khẩu, dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ nước ngoài phải được đối xử không kém phần thuận lợi hơn so với hàng hoá cùng loại trong nước. c/ Nguyên tắc “Mở cửa thị trường” nhằm mở cửa thị trường cho hàng hoá, dịch vụ và đầu tư nước ngoài. d/ Nguyên tắc “Cạnh tranh công bằng” thể hiện nguyên tắc “tự do cạnh tranh trong những điều kiện bình đẳng như nhau”. Việt Nam chính thức nộp đơn gia nhập WTO từ ngày 1-1-1995. Cho đến nay, Nhóm Công tác về Việt Nam gia nhập WTO đã họp 4 phiên. Việt Nam cũng đã đưa ra chương trình thể chế hoá pháp luật và tiến hành xây dựng một số tài liệu theo mẫu quy định của WTO như: Bảng hiện trạng về hỗ trợ trong nước và trợ cấp xuất khẩu đối với nông sản, Bảng doanh nghiệp thương mại nhà nước và Bảng trợ cấp công nghiệp. Tháng 8-2001, Ban thư ký WTO đã gửi và đề nghị Việt Nam góp ý sửa đổi, bổ sung tài liệu Tóm tắt hiện trạng về hệ thống chính sách thương mại Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam đang tích cực chuẩn bị cho các phiên họp theo hướng bên cạnh việc tiếp tục minh bạch hoá chính sách, sẽ tiến hành các cuộc đàm phán song phương với một số thành viên WTO có quan tâm như EU, Thuỵ Sĩ, Mỹ, Áchentina, Hàn Quốc, Australia bằng các văn bản chào mở cửa thị trường của Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực hàng hoá và dịch vụ. Nhìn chung trong quá trình gia nhập WTO, Việt Nam có những thuận lợi và thách thức nhất định. Xét về thuận lợi, Việt Nam đã khắc phục tình
  42. trạng bị một số nước phân biệt đối xử; tạo dựng và nâng cao dần vị thế của Việt Nam; tạo dựng một môi trường phát triển kinh tế công bằng, không phân biệt đối xử; nâng cao tính hấp dẫn thu hút đầu tư từ bên ngoài; nâng cao khả năng tiếp thu theo kinh nghiệm quản lý quốc tế. Tuy nhiên một khi đã mở cửa thị trường thì các doanh nghiệp Việt Nam vốn hoạt động yếu kém phải chấp nhận cạnh tranh gay gắt với các doanh nghiệp nước ngoài. Một thực tế là năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam còn rất thấp và ngày càng tụt giảm. Nếu năm 1998 còn đứng ở vị trí 43, thì năm 1999 xuống thứ 48 và năm 2000 là 53. Để có thể thực hiện các cam kết về hội nhập kinh tế quốc tế và tham gia có hiệu quả vào các hoạt động của các thể chế kinh tế quốc tế, Việt Nam đã tiếp tục thúc đẩy quá trình cải cách trong nước, đặc biệt là thực hiện, bổ sung, điều chỉnh chính sách và pháp luật về thương mại, đầu tư, kinh doanh nhằm làm cho hệ thống này dần phù hợp với các quy định của các thể chế liên kết kinh tế mà Việt Nam tham gia. Trong mấy năm qua, chúng ta đã tích cực triển khai chương trình xây dựng pháp luật (đã thông qua Luật thương mại, Luật đầu tư sửa đổi, Luật thuế giá trị gia tăng , đáng soạn thảo và chuẩn bị ban hành nhiều văn bản luật định mới về các vấn đề quy chế tối huệ quốc, quy chế đối xử quốc gia và bảo vệ tình trạng khẩn cấp) là những bước đi chủ động của ta trong tiến trình hội nhập. Tuy nhiên những hạn chế, bất cập vẫn còn, điều đó thúc đẩy Việt Nam phải cố gắng hơn nữa trong vấn đề hoàn thiện chính sách thương mại để đáp ứng được tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
  43. CHƯƠNG II: NHỮNG ĐIỀU CHƯA PHÙ HỢP TRONG CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI HÀNG HOÁ CỦA VIỆT NAM SO VỚI CÁC QUY ĐỊNH CỦA CÁC TỔ CHỨC KINH TẾ QUỐC TẾ I/ Những quy định chung của các tổ chức kinh tế quốc tế về chính sách thương mại hàng hoá và quá trình thực hiện các cam kết của Việt Nam 1. ASEAN Sau khi chính thức gia nhập ASEAN (7-1995), Việt Nam đã tích cực tham gia vào mọi hoạt động của ASEAN và đã đóng vai trò quan trọng trong việc xác định các phương hướng hợp tác và phát triển của khu vực và trong các quyết sách lớn của ASEAN. Việt Nam đặc biệt cũng tham gia tích cực vào Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Theo Hiệp định thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT), việc cắt giảm thuế quan được từng nước tự xây dựng lộ trình thực hiện đối với từng sản phẩm theo bốn loại danh mục sau: - Danh mục giảm thuế ngay (Inclusion List - IL): gồm những sản phẩm mà mỗi nước tự đưa vào diện thực hiện cắt giảm thuế quan ngay. - Danh mục các sản phẩm tạm thời chưa cắt giảm thuế (Temporary Exclusion List - TEL): gồm những sản phẩm tạm thời trong một thời gian chưa đưa vào diện cắt giảm thuế quan, nhưng bắt đầu từ năm 2000 phải chuyển dần mỗi năm 20% vào diện cắt giảm thuế. - Danh mục nhạy cảm (SEL) hoặc nhạy cảm cao: gồm các nông sản chưa chế biến mà mỗi nước cho là cần thiết phải bảo hộ thêm một thời gian. Sau đó, các sản phẩm nằm trong danh mục này cũng sẽ phải chuyển dần sang diện phải cắt giảm thuế (theo một lộ trình riêng dài hơn TEL). - Danh mục loại trừ hoàn toàn (General Exclusion List - GEL) gồm các sản phẩm có ảnh hưởng đến an ninh, quốc phòng, đạo đức xã hội, sức khoẻ cộng đồng, bảo tồn giá trị văn hoá, lịch sử mà mỗi nước không muốn đưa
  44. vào diện cắt giảm thuế và bỏ các cản trở phi quan thuế (Điều 9B của Hiệp định CEPT) 1.1. Những cam kết theo các Hiệp định ASEAN a) Về thuế quan a.1. Đối với hàng hoá thuộc danh mục được điều chỉnh (IL) Mục tiêu chung là cắt giảm tất cả các mức thuế xuống còn 0-5%. Có hai cách cắt giảm thuế như sau: - Lộ trình thường (bao gồm các sản phẩm như máy móc, thiết bị, sắt thép ): với những mặt hàng có mức thuế suất cao hơn 20% phải được giảm thuế xuống còn 20% chậm nhất vào năm 2001 và tiếp tục giảm xuống còn 0- 5% chậm nhất vào 1/2006; với những mặt hàng có mức thuế suất thấp hơn 20% phải được giảm thuế xuống còn 0-5% chậm nhất vào 1/2003. - Lộ trình nhanh (bao gồm 15 nhóm hàng như là dầu thực vật, hoá chất, phân bón, sản phẩm cao su, bộ giấy và giấy, sản phẩm gỗ và song mây, đồ quý và đồ trang sức, xi măng, dược phẩm, chất dẻo, sản phẩm da, hàng dệt, gốm, thuỷ tinh và hàng điện tử): với những mặt hàng có mức thuế suất cao hơn 20% phải được giảm thuế xuống còn 0-5% chậm nhất vào 1/2003; với những mặt hàng có mức thuế suất thấp hơn 20% phải được giảm thuế xuống còn 0- 5% chậm nhất vào 1/2001. a.2. Đối với hàng hoá thuộc Danh mục TEL Hàng hoá thuộc danh mục này bắt đầu từ năm 2000 phải chuyển dần ra khỏi danh mục mỗi năm 20% (được chuyển sang danh mục IL: 2004-2013), mức thuế quan sẽ được giảm xuống 0-5% (1999-2003) a.3. Đối với hàng hoá thuộc danh mục SEL
  45. Hàng hoá thuộc danh mục này sẽ được giảm mức thuế xuống còn 0-5% (lộ trình: 1999-2006). a.4. Đối với hàng hoá thuộc danh mục GEL Hàng hoá thuộc danh mục này sẽ được giảm mức thuế xuống còn 0%, nhưng một số mặt hàng nhạy cảm có thể chịu mức thuế này vào năm 2018 (Lộ trình đối với danh mục này: 2004-2013;2015) b) Rào cản phi thuế quan (NTB) Đối với các mặt hàng thuộc IL và SEL, tất cả các hàng rào phi thuế quan sẽ được loại bỏ (lộ trình: 1996-2006) bao gồm: - Các hạn chế số lượng (quota, giấy phép và cấm) phải được loại bỏ (1996-2003). - Các hạn chế về ngoại tệ liên quan đến việc thanh toán các hàng hoá thuộc CEPT sẽ được loại bỏ (1996). - Các khoản thuế phụ thu sẽ được loại bỏ (1996-1999). - Các hàng rào phi thuế quan khác phải được loại bỏ (1996-2006) 1.2 Quá trình thực hiện các cam kết (bao gồm các hoạt động đã triển khai và các hoạt động dự kiến) a. Về thuế quan Như đã đề cập ở Chương I Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu đã được sửa đổi điều chỉnh rất nhiều để phù hợp với các quy định, các yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế. Thuế xuất khẩu chỉ đánh vào một số sản phẩm rất quan trọng, như là khoáng sản hay tài nguyên thiên nhiên không có khả năng tái sinh mà được xuất khẩu ở dạng thô. Các sản phẩm khác không phải chịu thuế xuất khẩu nhằm thực hiện mục tiêu khuyến khích xuất khẩu. Biểu thuế cũng có một số thay đổi nhằm phù hợp hơn nữa với hệ thống hài hoà hải quan (HS 96) của Tổ chức Hải quan thế giới (đã trình bày ở chương I).
  46. Tuy nhiên Việt Nam dự kiến kế hoạch cắt giảm thuế bao gồm việc rút ngắn số dòng thuế và thu hẹp khoảng cách giữa các dòng thuế hưởng 0% và việc áp dụng nó đối với thiết bị vốn hoàn chỉnh và một số nguyên liệu thiết yếu dùng trong sản xuất nông nghiệp (phân bón, thuốc trừ sâu). a.1. Ưu đãi thuế quan Để thực hiện Hiệp định CEPT, từ 1996 Việt Nam đã công bố hàng năm việc giảm thuế quan của mình. Năm 2001 thì 712 sản phẩm đã được chuyển từ danh mục TEL sang danh mục IL. Cho tới hiện giờ thì 5000 dòng thuế đã được đưa vào IL và phải tuân theo việc giảm thuế của CEPT. Tất cả các dòng thuế này đều có thuế suất thấp hơn 20%. Các dòng thuế cao hơn 20% đã được giảm xuống vào 2001 (bao gồm các hàng nông sản đã chế biến, đồ uống(nước khoáng và nước có ga ). Danh mục hàng hoá và mức thuế của Việt Nam để thi hành CEPT bao gồm 4233 mặt hàng - chiếm 66% trong tổng số 6383 mặt hàng trong danh mục hàng hoá nhập khẩu của Việt Nam. Tháng 2/2001 Việt Nam đã công bố kế hoạch tổng thể của mình về giảm thuế quan theo CEPT từ 2001 đến 2006 để thực hiện mục tiêu giảm thuế suất của tất cả các mặt hàng thuộc IL và TEL xuống còn 0-5%. Việt Nam cũng dự kiến sẽ áp dụng một thể chế thuế nhập khẩu thống nhất đối với cả ngoại thương và biên mậu. Hơn nữa dự kiến mức thuế nhập khẩu không được vượt quá 60% giá CIF tại cửa khẩu nhập khẩu. a.2. Thuế đang được áp dụng Năm 1999 Việt Nam áp dụng Luật sửa đổi một số điều của Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu với ba loại mức thuế: mức thông thường chung, mức ưu đãi và mức ưu đãi đặc biệt. Biểu thuế nhập khẩu của Việt Nam đã hoàn toàn hài hoà với Biểu thuế HS 96 ở mức 6 chữ số của Tổ chức Hải quan thế giới.
  47. Tuy nhiên nhằm thực hiện các cam kết của Việt Nam hội nhập khu vực và quốc tế thì thuế nhập khẩu sẽ được sửa đổi theo các hướng sau đây: - để phù hợp với thực tiễn quốc tế thì trong những năm tới các mức thuế xuất khẩu, nhập khẩu phải được chia làm 3 mức: mức chuẩn, mức MFN, mức ưu đãi để thể chế MFN có thể được dành cho các nước cũng trao sự đối xử tương tự co Việt Nam. - 2002: 500 dòng thuế sẽ được chuyển từ TEL vào IL - 2003: hơn 700 dòng thuế sẽ được chuyển từ TEL vào IL. 2004-2006: 6210 dòng thuế sẽ được giảm xuống 0-5% - 2015: tất cả các dòng thuế sẽ giảm xuống 0% - Tiếp tục thuế hoá các biện pháp phi thuế đối với một số nhóm mặt hàng. b. Rào cản phi thuế quan b.1 Các hạn chế/cấm xuất khẩu, nhập khẩu về số lượng Hiện nay Việt Nam đang áp dụng các rào cản phi thuế quan khác nhau kể cả giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu, cấm xuất khẩu, nhập khẩu để bảo vệ sức khoẻ con người, động thực vật, môi trường, an toàn xã hội và các tiêu chuẩn sử dụng của hàng hoá. Các hàng hoá cấm nhập khẩu là: - Súng đạn, chất nổ (trừ các chất nổ công nghiệp như được quy định cụ thể của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 1535/CP-KTTH ngày 28/12/1998) và thiết bị quốc phòng - Ma tuý - Các hoá chất độc hại - Các văn hoá phẩm đồi truỵ, phản động, đồ chơi trẻ em mà có thể có tác động xấu tới nhân phẩm của trẻ em, trật tự và an toàn xã hội
  48. - Tất cả các loại pháo (trừ pháo hiệu sử dụng vì an toàn hàng hải và các nhu cầu khác) - Thuốc lá, xì gà và các sản phẩm thuốc lá khác - Các đồ cũ bao gồm: quần áo; giầy dép; hàng dệt may; hàng điện tử; hàng đồ dùng điện tử; hàng máylạnh điện tử; hàng đồ dùng điện tử gia dụng; nội thất; các thiết bị gia đình làm từ gốm sứ, thuỷ tinh, kim loại, nhựa, cao su, mủ cao su và các nguyên liệu khác; các phương tiện tay lái nghịch (kể cả các phương tiện được lắp ráp và chuyển sang tay lái thuận trước khi nhập khẩu vào Việt Nam) trừ đối với một số phương tiện tay lái nghịch tự hành và một số mục đích đặc biệt mà hoạt động trong cự ly ngắn, bao gồm xe cẩu, máy đào xúc cống mương, xe vệ sinh đường phố, đổ rác, làm đường, vận tải hành khách đi hàng không, phương tiện nâng hàng; các nguyên liệu và phương tiện cũ; các hàng hoá và nguyên liệu thuộc nhóm amiăng; các máy móc và phần mềm chuyên dùng trong bí mật nhà nước. Các hàng hoá cấm xuất khẩu là: - Các loại vũ khí, đạn dược, chất nổ (trừ chất nổ công nghiệp), thiết bị quốc phòng - Ma tuý các loại - Các hoá chất độc hại - Đồ cổ - Gỗ tròn và gỗ xẻ có nguồn gốc từ rừng thiên nhiên trong nước, củi, than củi, hày củi có nguồn gốc từ rừng tự nhiên trong nước. - Động vật hoang dã, động thực vật tự nhiên quý hiếm - Các máy móc và phần mềm chuyên dùng được sử dụng trong bí mật nhà nước - Các mặt hàng cấm xuất khẩu theo danh mục hàng hoá chịu sự kiểm soát chuyên ngành của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Thuỷ sản,
  49. Bộ Văn hóa và Thể thao theo Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg ngày 4/4/2001 về quản lý xuất khẩu, nhập khẩu giai đoạn 2001-2005. b.2 Cấp phép xuất khẩu, nhập khẩu Từ tháng 5/2001 Chính phủ đã bãi bỏ việc cấp giấy phép nhập khẩu đối với đồ uống có cồn, giấy in báo, giấy in, giấy viết, gạch lát nền gốm, và granite không qúa 400x400mm, ôtô 10 đến 16 chỗ (các loại mới). Những hàng hoá tiếp tục chịu cấp phép của Bộ Thương mại trong giai đoạn 2001-2005 là: - Các hàng hoá chịu sự kiểm soát nhập khẩu theo các quy định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia được Bộ thương mại công bố trong từng thời kỳ - Xi măng đen trắng - Một số loại kính - Một số loại thép - Một số loại dầu thực vật - Đường tinh chế và đường thô - Phương tiện moto 2 hay 3 bánh 100% mới và các linh kiện lắp ráp dưới mọi hình thức SKD hay CKD, động cơ, khung xe 2 hay 3 bánh (trừ đối với xe được đăng ký hàm lượng nội địa) - Các phương tiện dưới 9 chỗ, loại mới Ngoài ra còn có danh mục hàng hoá thực hiện quản lý chuyên ngành được quy định tại Quyết định 46/2001-QĐ-TTG ngày 4/4/2001 và các Thông tư hướng dẫn thực hiện quyết định của các Bộ, ngành. Dự kiến chậm nhất vào 31/12/2001 giấy phép nhập khẩu của Bộ thương mại đối với các hàng hoá sau đây sẽ được loại bỏ: - Một số loại kính - Một số loại thép - Một số loại dầu thực vật
  50. Dự kiến chậm nhất vào 31/12/2002 giấy phép nhập khẩu của Bộ thương mại đối với các hàng hoá sau đây sẽ được loại bỏ: - Xi măng đen trắng - Phương tiện moto 2 hay 3 bánh 100% mới và các linh kiện lắp ráp dưới mọi hình thức SKD hay CKD, động cơ, khung xe 2 hay 3 bánh (trừ đối với xe được đăng ký hàm lượng nội địa) - Các phương tiện dưới 9 chỗ, loại mới. 2/ APEC 2.1. Những cam kết hội nhập trong APEC a. Về thuế quan Từ ngày 1/1/1999, Việt Nam thực thi Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu mới. Theo đó, có ba loại thuế gồm thuế Tối huệ quốc, Thuế phi Tối huệ quốc và thuế ưu đãi. Số các mức thuế cũng sẽ được điều chỉnh, thuế suất cũng tiếp tục giảm để đạt mục tiêu của APEC vào 2020. Việt Nam cũng cam kết sẽ hướng tới chính sách thương mại mở bằng việc liên tục giảm mức thuế và nâng cao tính minh bạch của biểu thuế, làm cho biểu thuế phải phù hợp với biểu HS. b. Phi thuế quan Trên cơ sở tự nguyện, Việt Nam sẽ loại bỏ dần dần các rào cản phi thuế. Theo như cam kết thì hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu thuộc diện quản lý sẽ được hệ thống hoá trong biểu HS. Chúng ta từng bước chuyển những sản phẩm quản lý bằng giấy phép nhập khẩu hoặc hạn chế số lượng sang quản lý bằng hệ thống cấp giấy phép tự động về trung hạn. Việt Nam cũng sẽ tiến hành bãi bỏ nhập khẩu thông qua các đầu mối đối với xăng dầu và phân bón về dài hạn, tự do hoá xuất khẩu gạo, hạn chế phạm vi của các đầu mối (đặc quyền) trong xuất khẩu và trên cơ sở tự nguyên cũng sẽ đơn giản hoá sự quản lý của các Bộ đối với nhập khẩu.
  51. 2.2. Quá trình thực hiện các cam kết (bao gồm các hoạt động đã triển khai và các hoạt động dự kiến) a. Về thuế quan Hầu như các cam kết của APEC đang được Việt Nam nỗ lực thực hiện. Hiện nay số mức thuế suất giảm xuống 12. Việt Nam cũng đang tiếp tục thực hiện giảm thuế để đạt mục tiêu của APEC về thương mại tự do vào 2020 (lộ trình:1999-2020).Việc minh bạch hoá biểu thuế cũng được thực hiện dần (dù không xác định trong tiến độ triển khai dự kiến) Biểu thuế của chúng ta hiện nay nhằm phù hợp với biểu HS đã được điều chỉnh, tái cơ cấu từ 3280 dòng thuế lên 6384 dòng thuế 6 chữ số. b. Phi thuế quan Các cơ quan chịu trách nhiệm như Bộ Thương mại, Bộ Tài chính và các Bộ, ngành hữu quan khác đã chỉ đạo việc thực hiện một số cam kết phi thuế quan như việc quản lý trực tiếp dựa trên tiêu chuẩn và chất lượng kỹ thuật, phân loại hàng hoá phụ thuộc vào những yêu cầu cấp phép tự động và không tự động. Ngoài ra, việc bãi bỏ nhập khẩu thông qua các đầu mối đã được tiến hành trừ xăng dầu. Việt Nam đã ban hành danh mục hàng hoá nhập khẩu phải được phép của Bộ Thương mại từ 2001-2005, và hạn chế danh mục hàng hoá thuộc sự quản lý của các Bộ hữu quan đối với các mặt hàng nhập khẩu. 3/ Tổ chức thương mại thế giới (WTO) 3.1 Các cam kết thực hiện theo WTO Trong khuôn khổ WTO, các quy định chủ yếu về cắt giảm thuế quan và phi thuế quan đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam như sau: Về nông nghiệp:
  52. - Giảm 24% giá trị trợ cấp xuất khẩu từ ngân sách và 14% khối lượng hàng được trợ cấp (cơ sở là mức trung bình hàng năm của thời kỳ 1986-1990) trong vòng 10 năm kể từ 1995 (mức cắt giảm của các nước phát triển là 36% và 21% trong vòng 6 năm; các nước kém phát triển không bị bắt buộc thực hiện); - Chuyển các biện pháp phi thuế quan sang các biện pháp thuế quan có tác động bảo hộ tương đương (thuế hoá); giảm thuế quan 24% trong đó mỗi dòng thuế giảm không ít hơn10% trong 10 năm kể từ năm 1995 (mức cắt giảm của các nước phát triển là 36% và 15% trong vòng 6 năm); - Giảm mức trợ cấp nội địa 13% (cơ sở là mức trung bình của thời kỳ 1986-1988) trong 10 năm kể từ năm 1999 (mức cắt giảm của các nước phát triển là 20% trong vòng 6 năm); Về công nghiệp: - Giảm thuế suất từ mức bình quân là 15,3% năm 1995 xuống 12,3% vào ngày 1-1-2000, tức là giảm 20% mức thuế của năm 1995 trong vòng 5 năm (mức cắt giảm của các nước phát triển là từ 6,3% năm 1995 xuống còn 3,8% vào ngày 1-1-2000). Việc cắt giảm được thực hiện theo 5 giai đoạn bằng nhau và có thể ràng buộc mức thuế theo thuế trần. - Đối với hàng dệt may, việc xoá bỏ hoàn toàn hạn ngạch nhập khẩu được thực hiện trong 10 năm (1995-2005) chia làm 4 giai đoạn: xoá hạn ngạch cho 16% mặt hàng và tăng 6,69%/năm số lượng hạn ngạch cho các mặt hàng còn lại từ ngày 1-1-1995 đến 31-12-1997; tương tự 17% và 8,7% từ ngày 1-1-1998 đến 31-12-2001; 18% và 11,05% từ ngày 1-1-2002 đến 31-12- 2004; 49% và không còn hạn ngạch từ ngày 1-1-2005. 3.2. Thực trạng chính sách thương mại Việt Nam và các quy định cụ thể của WTO 3.2.1 Đối xử quốc gia
  53. Đối xử quốc gia là một trong các nguyên tắc cơ bản của GATT. Điều III.1 quy GATT 1994 quy định các thành viên không được áp dụng thuế và các khoản thu trong nước cũng như các luật, quy định hay các yêu cầu tác động lên hàng nhập khẩu và hàng nội địa nhằm bảo vệ sản xuất trong nước. Trong một số trường hợp cụ thể, các thành viên có thể áp dụng những biện pháp trái với điều này. Hiện nay Việt Nam đang duy trì một số các biện pháp có thể trái với nguyên tắc này nhằm bảo hộ sản xuất trong nước hoặc các mục đích khác. Tất cả các biện pháp này đều khó có thể biện minh theo các quy định của WTO. Thuế nhập khẩu theo tỷ lệ nội địa hoá Theo chính sách thuế theo tỷ lệ nội địa hoá đối với các sản phẩm, phụ tùng thuộc ngành cơ khí, điện tử thì vật tư, nguyên liệu cho lắp ráp trong nước được tính theo cách: mỗi doanh nghiệp lắp ráp có một mức thuế tương ứng mức nội địa hoá. Luật thuế tiêu thụ đặc biệt Thuốc lá sản xuất từ nguyên liệu ngoại chịu thuế tiêu thụ đặc biệt cao hơn thuốc lá sản xuất từ nguyên liệu trong nước. Cụ thể: + Thuốc đầu lọc sản xuất chủ yếu bằng nguyên liệu nhập khẩu : 65% + Có đầu lọc sản xuất chủ yếu bằng nguyên liệu trong nước: 45% Các nhà sản xuất ô tô trong nước có thể được giảm 60% đến 100% mức thuế suất theo biểu thuế tiêu thụ đặc biệt trong thời hạn 5 năm đầu kể từ khi Luật có hiệu lực. Sau đó nếu nhà sản xuất vẫn gặp khó khăn thì có thể kéo dài thời gian giảm thuế thêm từ 1 đến 5 năm nữa; Các nhà sản xuất bia quy mô nhỏ, nếu bị lỗ thì được xét giảm thuế tiêu thụ đặc biệt theo số lỗ, nhưng thời gian không quá 5 năm kể từ khi Luật có hiệu lực. Cấm nhập khẩu thuốc lá điếu trong khi vẫn cho phép sản xuất thuốc lá trong nước Quy định về cấm/hạn chế quảng cáo rượu ngoại
  54. Bông sơ chế từ nguồn nguyên liệu trong nước chịu thuế VAT là 5% thấp hơn thuế VAT đối với bông sơ chế từ nguồn nguyên liệu nhập khẩu (10%) 3.2.2 Hạn chế số lượng bao gồm cấm, hạn ngạch và giấy phép Luật Thương mại ban hành tháng 5/1997 là cơ sở pháp lý cơ bản của hoạt động thương mại tại Việt Nam. Nghị định 57/1998/NĐ-CP ban hành tháng 7/1998 có những quy định khá chi tiết về các hoạt động liên quan đến xuất khẩu,nhập khẩu hàng hoá. Nghị định này đã ban hành Danh mục hàng hoá cấm xuất khẩu, nhập khẩu và Danh mục hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu có điều kiện. Một văn bản pháp quy mới ra đời căn cứ trên Nghị định số 57/1998/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật thương mại về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hoá với nước ngoài là Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 46/2001/QĐ-TTg ban hành ngày 4/4/2001 về quản lý xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá thời kỳ 2001-2005. Một khó khăn khi thực hiện các luật mới này là sức ép từ các ngành công nghiệp trong nước, đặc biệt là các ngành mà các tổng công ty Nhà nước lớn đang giữ vai trò chủ đạo như xăng dầu, sắt thép hay các ngành đã được đầu tư bằng cả nguồn vốn trong nước cũng như nước ngoài (FDI) theo hướng sản xuất thay thế nhập khẩu có sức cạnh tranh thấp như ô tô, xi măng, đường, giấy. Sức ép đòi bảo hộ từ các nhà sản xuất trong các ngành công nghiệp này là cản trở mạnh mẽ cho việc áp dụng các biện pháp hạn chế số lượng của Việt Nam phù hợp với các quy định của WTO. a/ Cấm Điều XI của GATT 1994 qui định các nước thành viên không được áp dụng các biện pháp cấm hay hạn chế đối với hàng nhập khẩu và xuất khẩu ngoài thuế quan, thuế và phụ thu khác, dù là ở dạng hạn ngạch, giấy phép xuất nhập khẩu hay các biện pháp khác trừ trường hợp ngoại lệ.
  55. Hầu hết những mặt hàng cấm xuất khẩu, nhập khẩu do Việt Nam chính thức công bố (Phụ lục số 01 Danh mục hàng hoá cấm xuất khẩu, nhập khẩu thời kỳ 2001-2005 (kèm theo Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg ngày 4/4/2001 của Thủ tướng Chính phủ)) đều có thể biện minh được theo Điều XX và Điều XXI GATT 1994. Chẳng hạn cấm xuất khẩu, nhập khẩu vũ khí, đạn dược, vật liệu nổ có thể biện minh vì lý do an ninh theo Điều XXI GATT 1994. Cấm nhập khẩu đồ cổ theo khoản (f), các loại ma tuý theo khoản(b) Điều XX. Cấm nhập khẩu thuốc lá điếu có thể phù hợp với khoản (b) Điều XX vì lý do bảo vệ sức khoẻ con người nhưng không thể biện minh được theo Điều III GATT 1994 về không phân biệt đối xử. Ngành sản xuất thuốc lá của Việt Nam có doanh thu khá lớn và có cả các doanh nghiệp liên doanh sản xuất thuốc lá với nước ngoài. Cấm nhập khẩu thuốc lá điếu trong khi vẫn cho nhập khẩu một số nguyên liệu sản xuất thuốc lá làm cho lý do bảo vệ sức khoẻ con người và môi trường ít giá trị so với lập luận bảo vệ sản xuất trong nước. Các mặt hàng trong danh mục cấm xuất khẩu, nhập khẩu chỉ được phép xuất khẩu, nhập khẩu trong trường hợp đặc biệt khi được phép của Thủ tướng Chính phủ. Trên thực tế thì ngoài các mặt hàng thuộc danh mục cấm nhập khẩu, hàng năm tuỳ theo tình hình sản xuất trong nước mà các cơ quan chức năng có thể quy định cấm nhập một số mặt hàng khác nhằm bảo vệ sản xuất trong nước (những mặt hàng này có thể thuộc danh mục nhập khẩu có điều kiện). Năm 1998, các mặt hàng này là ô tô dưới 12 chỗ ngồi, xe máy nguyên chiếc và SKD, một số loại giấy, một số loại thép. Thay vì gọi là cấm nhập, Việt Nam gọi là “chưa nhập”. Cách điều hành này rõ ràng là không tạo thuận lợi cho kinh doanh thương mại và khó có thể biện minh theo bất cứ điều khoản nào của WTO. b. Hạn ngạch
  56. Hạn ngạch là một hàng rào phi quan thuế gây cản trở rất lớn tới thương mại. Chính sách hạn chế xuất khẩu, nhập khẩu bằng hạn ngạch của Việt Nam trên văn bản chính thức là rất rõ ràng. Phụ lục A.2 của Bị Vong lục (WT/ACC/VNM/2) đưa ra danh sách chỉ có hai mặt hàng chịu hạn ngạch xuất khẩu là gạo và sản phẩm dệt may xuất khẩu vào EU, Canada và Nauy. Bị Vong lục không cung cấp danh mục các mặt hàng chịu hạn ngạch nhập khẩu (Theo “Chính sách thương mại của Việt Nam và các quy định của Tổ chức Thương mại thế giới” - Báo cáo nghiên cứu số 12, Vụ chính sách thương mại đa biên, Bộ Thương Mại). Mặc dù Điều 16 của Luật Thương mại đã nêu rõ: “hạn chế nhập khẩu những mặt hàng trong nước đã sản xuất được và có khả năng đáp ứng nhu cầu, bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước”, nhưng Danh mục hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu có hạn ngạch trong Nghị định số 57/1998/NĐ-CP ngày 31/07/1998 hướng dẫn thực hiện Luật này cũng không đưa ra hạn ngạch với hàng nhập khẩu, còn đối với hàng xuất khẩu là gạo và hàng hoá theo hạn ngạch do các tổ chức kinh tế và nước ngoài ấn định đối với Việt Nam. Hiện nay, hàng hoá xuất khẩu theo hạn ngạch quan trọng nhất do nước ngoài ấn định đối với Việt Nam là hàng dệt may. EU là đối tác quan trọng nhất trong các đối tác đặt hạn ngạch với Việt Nam. Ngoài EU, Canađa, Nauy, Thổ Nhĩ Kỳ cũng đặt hạn ngạch với hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam. c. Giấy phép Mặc dù biện pháp hạn ngạch không áp dụng với hàng nhập khẩu nhưng trên thực tế nhiều mặt hàng nhập khẩu với số lượng lớn chịu sự quản lý số lượng rất chặt chẽ thông qua biện pháp giấy phép. Điều 5 Nghị định số 57/1998/NĐ-CP quy định về hàng hoá xuất nhập khẩu cần có giấy phép của Bộ Thương mại hoặc Bộ quản lý chuyên ngành. Điều 2 Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg quy định ban hành kèm theo Quyết định này Danh mcụ hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép của Bộ
  57. Thương mại thời kỳ 2001-2005. Những hàng hoá nhập khẩu cần có giấy phép của Bộ Thương mại có thể chia ra làm hai nhóm: - Có cân đối với sản xuất và nhu cầu trong nước + Xăng dầu + Phân bón + Sắt thép + Xi măng + Kính xây dựng, đường tinh luyện, đường thô nguyên liệu - Phương tiện vận tải: + Xe hai bánh, ba bánh gắn máy nguyên chiếc mới 100% và linh kiện lắp ráp không có đăng ký tỷ lệ nội địa hoá; máy và khung xe hai bánh gắn máy các loại, trừ loại đi theo bộ linh kiện đã đăng ký tỷ lệ nội địa hoá. + Phương tiện vận chuyển hành khách từ 9 chỗ ngồi trở xuống, loại mới Những lý do áp dụng hạn chế số lượng thông qua giấy phép đối với các hàng hoá này do Việt Nam đưa ra khó có thể biện minh được theo các tiêu chuẩn của WTO. II/ Những điểm chưa phù hợp hiện nay của chính sách thương mại Việt Nam so với quy định của các tổ chức quốc tế Quá trình thay đổi, điều chỉnh, hoàn thiện hơn nữa chính sách thương mại của Việt Nam đã mang lại nhiều thành tựu đáng kể, tuy nhiên vẫn còn những tồn tại và khó khăn chung chủ yếu được khái quát như sau: Hệ thống luật pháp, chính sách quản lý nền kinh tế thị trường không đồng bộ, còn hay thay đôỉ, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, do đó chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập.
  58. Hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi hệ thống luật pháp, chính sách về quảnlý kinh tế trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là thương mại, đầu tư của ta cần phải được điều chỉnh, bổ sung cho thích hợp với các quy tắc và luật chơi của các thể chế kinh tế quốc tế mà Việt Nam tham gia. Cho đến nay, mặc dù đã có rất nhiều cố gắng trong công tác xây dựng pháp luật, nhưng hệ thống luật pháp, chính sách kinh tế của Việt Nam về các vấn đề trên còn chưa hoàn chỉnh và có nhiều bất cập so với các quy định quốc tế, đặc biệt còn thiếu minh bạch, không nhất quán và thiếu tính ổn định. Chẳng hạn như hệ thống quy định về thuế quan và phi thuế quan của Việt Nam còn rất phức tạp, thường xuyên điều chỉnh, thay đổi thất thường, gây tâm lý thiếu tin tưởng trong giới kinh doanh, và các đối tác của Việt Nam. Những biện pháp, chính sách tạo lợi thế cho kinh tế và thương mại mà WTO, ASEAN, APEC, ASEM thừa nhận như quy chế tối huệ quốc và đối xử quốc gia, chế độ hạn ngạch thuế quan, quyền tự vệ, chống bán phá gía, trị giá hải quan, vv thì Việt Nam lại chưa có. Trong khi đó nhiều biện pháp mà các thể chế liên kết kinh tế không thừa nhận thì Việt Nam vẫn áp dụng. Còn nhiều khoảng trống và bất cập trong hệ thống chính sách luật pháp, chính sách điều tiết thị trường, giải quyết tranh chấp kinh tế Nhà nước còn duy trì quá lâu các biện pháp bao cấp như cấp phát vốn, bù lỗ, khoanh nợ và nhiều ưu đãi khác hoặc độc quyền cho các doanh nghiệp thuộc khu vực nhà nước. Điều này tạo ra tâm lý ỷ lại của các doanh nghiệp thuộc khu vực này và tình trạng không bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Chính sách điều chỉnh cơ cấu kinh tế thiếu đồng bộ, nhất quán và chưa phù hợp với điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế làm tăng sự tác động qua lại giữa các nền kinh tế và sâu sắc hoá sự phân công lao động quốc tế. Các nước đều tìm cách điều chỉnh cơ cấu kinh tế của mình theo hướng tập trung phát triển những ngành/nghề, lĩnh vực mà họ có lợi thế nhất để làm cho quá trình đầu tư, sản xuất kinh doanh đưa lại hiệu quả kinh tế-xã hội tối đa và tăng cường sự trao đổi thương mại và đầu tư quốc tế cùng có lợi. Thực tế cho thấy, việc chuyển dịch cơ cấu
  59. kinh tế ở nước ta trong những năm vừa qua diễn ra còn chậm chạp, thiếu đồng bộ và không nhất quán. Việc điều chỉnh này vừa mang tính tự phát vừa mang tính định hướng kiểu “kế hoạch hoá”, chưa dựa trên một chiến lược cơ cấu kinh tế cho một giai đoạn dài được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, dự báo, tính toán một cách hệ thống, cụ thể, đầy đủ các yếu tố, đặc biệt là gắn với điều kiện toàn cầu hoá và hội nhập của Việt Nam. Vấn đề xây dựng một chiến lược như vậy mới được đặt ra khoảng vài năm trở lại đây và được lồng ghép vào chiến lược phát triển kinh tế-xã hội tháng 10 năm 2001-2010 và kế hoạch 5 năm 2001-2005 nhằm khuyến khích chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, cơ cấu lao động theo khuynh hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá dựa trên phát huy thế mạnh, các lợi thế so sánh của đất nước, gắn với nhu cầu thị trường trong nước và ngoài nước. Có thể thấy điểm yếu quan trọng nhất của vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam trong những năm qua là chưa tập trung khai thác và phát triển mạnh nhiều ngành và lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế và có thể mang lại hiệu quả cao nhất. Đầu tư của Nhà nước bị dàn trải và sa đà vào nhiều ngành và lĩnh vực không đưa lại hiệu quả kinh tế (đường mía, xi măng, thép, than ) Ngay trong lĩnh vực nông nghiệp, mặc dù trong thập niên qua đã đạt được những thành tựu lớn, nhưng công nghệ sinh học, công nghệ sau thu hoạch, công nghệ chế biến còn chưa được đầu tư thích đáng để nâng cao hiệu quả sản xuất và giá trị thành phẩm. Các chính sách thương mại và đầu tư cho đến nay chủ yếu tạo điều kiện cho ngành sử dùng nhiều vốn, ít hiệu quả, dựa vào sự bảo hộ cao không phù hợp với thực tiễn nước ta đang dôi dư lao động, thiếu việc làm, do đó hạn chế sự tăng trưởngvà phát triển của nền kinh tế quốc dân. Đối với đầu tư của nước ngoài, ưu tiên chính sách thường dành cho các dự án đầu tư vào lĩnh vực thay thế nhập khẩu và dịch vụ, tạo ra môi trường khuyến khích các nhà đầu tư tìm kiếm và nhận được sự bảo hộ của nhà nước để đảm bảo kinh doanh có lãi siêu ngạch. Môi trường chính sách nói chung còn không ít khó khăn cho các nhà
  60. đầu tư nước ngoài. Đó là một trong những lý do khiến họ và các đối tác của họ tìm cách khắc phục, bù đắp chi phí bằng cách đòi hỏi nhà nước đảm bảo thị phần, giảm thuế và bảo hộ cho các hoạt động kinh doanh của họ. Đối với đầu tư trong nước, việc bảo hộ thường được dành cho các dự án và phát triển khu vực kinh tế nhà nước. Đường và xi măng là những ví dụ cho thấy việc bảo hộ gắn liền với sự đầu tư lớn của chính phủ. Đổi mới bên trong và hội nhập kinh tế quốc tế có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Đổi mới tạo tiền đề cho hội nhập, ngược lại hội nhập lại thúc đẩy đổi mới. Hơn một thế kỷ qua, đổi mới kinh tế ở Việt Nam với nội dung quan trọng là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã tạo tiền đề để hội nhập nền kinh tế Việt Nam với kinh tế khu vực và thế giới. 1. Chính sách thuế Tuy nhiên điểm thấy rõ nét là toàn bộ hệ thống luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu của Việt Nam được hình thành và hoàn thiện từng bước nên mang tính tình thế là chủ yêú, nhằm đối phó với áp lực cạnh tranh ngày càng gia tăng của hàng hoá trên thị trường quốc tế. Cụ thể: 1.1 Thuế xuất khẩu, nhập khẩu quá chú trọng đến việc bảo hộ sản xuất trong nước và thực hiện mục tiêu quản lý nhà nước: Đối với những mặt hàng trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất với khối lượng nhỏ thì mức thuế suất nhập khẩu thấp. Ngược lại, đối với những mặt hàng trong nước sản xuất được nhưng giá cao, khả năng cạnh tranh kém thì có mức thuế suất nhập khẩu cao hơn. Ví dụ như theo biểu thuế nhập khẩu hiện hành thì giấy nói chung có mức thuế suất ưu đãi là 40% hoặc có loại 50% tương ứng với mức thuế suất phổ thông là 50% và 60% trong khi đó các
  61. loại dược phẩm thì mức thuế nhập khẩu ưu đãi là 0%, 5%, 10%. Thuế nhập khẩu trung bình của Việt Nam năm 2000 là 16%, cao hơn rất nhiều so với Singapore 0,3%; Thái Lan 6,9%; Malaysia 6,4%; Indonesia 6% ( Theo Báo cáo Năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 1999, Diễn đàn kinh tế thế giới, JETRO năm 2000). Mức độ bảo hộ như vậy được coi là cao khi Việt Nam tham gia tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Với việc quy định mức thuế suất như vậy đã làm cho giá bán của hàng hoá nước ngoài trên thị trường Việt Nam quá cao so với chi phí tạo ra nó và so với mức sống của người Việt Nam nên hàng của một số doanh nghiệp Việt Nam mặc dù không được tốt lắm nhưng vẫn tiêu thụ được. Điều này đã tạo ra sức ỳ trong một bộ phận các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Tư tưởng được nhà nước bảo hộ đã khiến các doanh nghiệp , đặc biệt đối với các doanh nghiệp nhà nước không đầu tư thích đáng vào đổi mới công nghệ, mạnh dạn vận động, chủ động đi tìm bạn hàng, đi tìm thị trường mới. Và kết quả là chất lượng sản phẩm không được cải thiện đáng kể , chi phí sản xuất cao, giá thành sản phẩm cao. Mặt khác, việc Nhà nước quá chú trọng tới mục tiêu quản lý làm cho môi trường đầu tư phần nào kém thông thoáng, kìm hãm quá trình phát triển không ngừng của hội nhập kinh tế quốc tế. 1.2 Biểu thuế xuất khẩu, nhập khẩu vẫn còn phức tạp và thiếu ổn định: Đối với thuế xuất khẩu: thuế xuất khẩu hiện hành đánh vào 101 mặt hàng với 13 mức thuế suất Trong đó: - Thuế suất 0% có 37 mặt hàng - Thuế suất 1% có 4 mặt hàng - Thuế suất 2% có 4 mặt hàng - Thuế suất 3% có 2 mặt hàng - Thuế suất 4% có 2 mặt hàng