Khóa luận Tiềm năng du lịch và giải pháp nhằm phát triển du lịch bền vững tại vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, Quảng Bình
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Tiềm năng du lịch và giải pháp nhằm phát triển du lịch bền vững tại vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, Quảng Bình", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- khoa_luan_tiem_nang_du_lich_va_giai_phap_nham_phat_trien_du.pdf
Nội dung text: Khóa luận Tiềm năng du lịch và giải pháp nhằm phát triển du lịch bền vững tại vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, Quảng Bình
- LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành đề tài khóa luận tốt nghiệp, em đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ và chỉ bảo nhiệt tình của thầy cô, gia đình và bạn bè. Trước tiên em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Tạ Duy Trinh đã định hướng, chỉ bảo và giúp đỡ em tận tình trong suốt quá trình thực hiện khóa luận. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong bộ môn Văn hóa du lịch trường Đại học Dân lập Hải Phòng đã trang bị cho em những kiến thức trong suốt quá trình học tập để vận dụng làm bài khóa luận. Em xin chân thành cảm ơn Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Bình, Ban quản lý VQG Phong Nha – Kẻ Bàng, đã nhiệt tình cung cấp cho em những tài liệu cần thiết. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn gia đình và bạn bè đã luôn tạo điều kiện quan tâm, giúp đỡ động viên em trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu để hoàn thành bài khóa luận. Mặc dù đã có sự cố gắng, nỗ lực hết mình nhưng do thời gian còn eo hẹp và trình độ nhận thức của bản thân còn hạn chế nên bài khóa luận của em vẫn còn nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo đóng góp của thầy cô và các bạn để giúp em hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Hải Phòng, ngày 12 tháng 06 năm 2010 Sinh viên thực hiện Lê Thị Nga 1
- MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 2 1.Lý do chọn đề tài 2 2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài 3 3. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu 4 4. Phương pháp nghiên cứu 4 5. Những đóng góp của khóa luận 4 6. Bố cục khóa luận 4 PHẦN NỘI DUNG 5 CHƢƠNG 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DU LỊCH VÀ QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG 5 1.1 K hái niệm và phân loại du lịch 5 1.1.1 Khái niệm du lịch 5 1.1.2 Tài nguyên du lịch (TNDL) 6 1.1.2.1 Tài nguyên du lịch tự nhiên 7 1.1.2.2 Tài nguyên du lịch nhân văn 8 1.1.3 Phân loại du lịch 9 1.2 Quan điểm phát triển du lịch bền vững 11 1.2.1 Khái niệm du lịch bền vững 11 1.2.2 Mục tiêu của phát triển bền vững 11 1.2.3 Các nguyên tắc phát triển du lịch bền vững 12 1.2.4 Các loại hình du lịch bền vững 16 Tiểu kết 18 CHƢƠNG 2: ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI ẢNH HƢỞNG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH BỀN VỮNG Ở VQG PHONG NHA - KẺ BÀNG 19 2.1 Điều kiện tự nhiên 19 2.1.1 Vị trí địa lý 19 2.1.2 Địa hình 19 2.1.3 Khí hậu2 21 2.1.4 Thủy văn 22 2.1.5 Động thực vật 22 2.2 Điều kiện xã hội 25 2.2.1 Dân cư 25 2.2.2 Kinh tế xã hội 26 2.2.3 Những tập quán văn hóa tiêu biểu 26 2.2.4 Cơ sở hạ tầng 29 2
- 2.2.5 Giáo dục 29 Tiểu kết 30 CHƢƠNG 3: TIỀM NĂNG DU LỊCH VÀ THỰC TRẠNG KHAI THÁC DU LỊCH TẠI VQG PHONG NHA- KẺ BÀNG 31 3.1 Tiềm năng du lịch của VQG Phong Nha – Kẻ Bàng 31 3.1.1 Tài nguyên du lịch của VQG Phong Nha – Kẻ Bàng 31 3.1.2 Các điểm du lịch và tính hấp dẫn của nó 35 3.1.2.1 Động Phong Nha 35 3.1.2.2 Động Tiên Sơn 38 3.1.2.3 Dòng sông Son 39 3.1.2.4 Bến phà Xuân Sơn 41 3.2.1.5 Thung lũng sinh tồn 41 3.1.2.6 Khu tái hòa nhập Linh trưởng 43 3.1.2.7 Hang Tám cô 44 .1.2.8 Suối nước Moọc 44 3.1.3 Các loại hình du lịch 44 3.1.4 Các tour du lịch 45 3.1.5 Tổ chức quản lý du lịch của VQG Phong Nha – Kẻ Bàng 46 3.2 Thực trạng hoạt động DLBV tại VQG Phong Nha - Kẻ Bàng 48 3.2.1 Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch, dịch vụ du lịch tại VQG 48 3.2.1.1 Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch 49 3.2.1.2 Hiện trạng khai thác cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch 50 3.2.1.3 H iện trạng khách du lịch 51 3.2.1.4 Hiện trạng thông tin quảng bá, tiếp thị và xúc tiến du lịch 57 3.2.2 Đánh giá chung về hiện trạng phát triển DLBV ở VQG 57 3.2.2.1 Kết quả đạt được 57 3.2.2.2 Những hạn chế 58 Tiểu kết 59 CHƢƠNG 4 : ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DLBV Ở VQG PHONG NHA – KẺ BÀNG 60 4.1 Quan điểm phát triển 60 4.2 Định hướng phát triển DLBV tại VQG Phong Nha – Kẻ Bàng trong thời gian tới 61 3
- 4.2.1 Cơ hội và thách thức trong phát triển DLBV tại VQG Phong Nha – Kẻ Bàng hiện nay 61 4.2.2 Định hướng phát triển DLBV tại VQG Phong Nha – Kẻ Bàng 62 4.3 Một số giải pháp cơ bản để phát triển du lịch bền vững 63 4.3.1 Giải pháp về xây dựng quy hoạch phát triển du lịch 63 4.3.2 Giải pháp về đầu tư và chính sách đầu tư 65 4.3.3 Giải pháp về lao động 66 4.3.4 Giải pháp về môi trường 67 4.3.5 Giải pháp về quảng bá 69 4.3.6 Giải pháp về tổ chức, cơ chế quản lý du lịch của VQG 70 4.3.7 Một số đề xuất, kiến nghị với UBND tỉnh Quảng Bình 71 Tiểu kết 71 KẾT LUẬN 72 TÀI LIỆU THAM KHẢO 74 PHỤ LỤC 76 4
- PHẦN MỞ ĐẦU 1.Lý do chọn đề tài Từ lâu du lịch đã là hiện tượng kinh tế xã hội quan trọng với đời sống nhân loại. Trong quá trình phát triển, hoàn thiện và tự làm mới mình của ngành du lịch bằng nhiều chiến lược cụ thể nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách du lịch thì phát triển du lịch bền vững là một chiến lược không thể thiếu được và trở thành động cơ đi du lịch lớn nhất hiện nay. Nhạy bén trước tình hình phát triển của du lịch thế giới cộng với những ưu thế lớn về tài nguyên du lịch sinh thái của mình du lịch Việt Nam đã đưa ra chiến lược phát triển, chỉ rõ: Ưu tiên phát triển du lịch sinh thái nhằm tạo ra hình ảnh mới của du lịch Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI. Do vậy nó đã thu hút được lượng khách du lịch lớn và trở thành một nhân tố quan trọng trong việc phát triển du lịch của cả nước nói chung và các địa phương nói riêng. Xứ Quảng hội tụ đầy đủ cả tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn có sức hấp dẫn lớn, giá trị lớn. Phong Nha - Kẻ Bàng là một trong những nơi có nhiều tài nguyên du lịch phong phú. Chính vì vậy tháng 7/2003 VQG Phong Nha - Kẻ Bàng đã được UNESCO công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới với tiêu chí địa chất, địa mạo. Hiện nay Chính phủ Việt Nam đang lập hồ sơ khoa học Di sản thiên nhiên thế giới Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng để đệ trình UNESCO xem xét tiếp tục công nhận Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng là Di sản thiên nhiên thế giới về tiêu chí da dạng sinh học. Những tài nguyên này sẽ là tiền đề để xây dựng du lịch Quảng Bình trở thành ngành mạnh có khả năng xuất khẩu tại chỗ đem lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động của địa phương, nhưng tài nguyên du lịch ở đây chưa được quan tâm nghiên cứu đúng mức. Với mong muốn vận dụng khoa học địa lý, văn hóa du lịch để đánh giá tiềm năng du lịch và định hướng khai thác tài nguyên du lịch theo quan điểm phát triển bền vững tại VQG Phong Nha - 5
- Kẻ Bàng nên em đã chọn đề tài “Tiềm năng du lịch và giải pháp nhằm phát triển du lịch bền vững tại VQG Phong Nha - Kẻ Bàng, Quảng Bình” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp. Để góp phần nhỏ bé của mình thúc đẩy khai thác có hiệu quả tiềm năng du lịch nơi đây, nhằm phục vụ cho chiến lược phát triển du lịch Quảng Bình, đưa Quảng Bình trở thành một trong các trọng điểm du lịch cả nước, tạo thế và lực đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội địa phương. 2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài 2.1 Mục đích Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, đánh giá nguồn tài nguyên du lịch phục vụ cho việc phát triển du lịch bền vững tại VQG. Xác định hướng và đề xuất giải pháp khai thác hợp lý, có hiệu quả nguồn tài nguyên du lịch nhằm phát huy hơn nữa tiềm năng du lịch của VQG Phong Nha - Kẻ Bàng. 2.2 Nhiệm vụ - Trên cơ sở lý luận cơ bản về du lịch bền vững, khảo sát đánh giá, tiềm năng của các tài nguyên du lịch ở VQG Phong Nha - Kẻ Bàng. - Đánh giá hiện trạng phát triển du lịch bền vững ở VQG Phong Nha - Kẻ Bàng. - Đưa ra các giải pháp để đảm bảo cho sự phát triển du lịch bền vững. 3. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu 3.1 Nội dung nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu các tiềm năng, thực trạng phát triển và giải pháp phát triển du lịch bền vững tại VQG Phong Nha - Kẻ Bàng. 3.2 Lãnh thổ nghiên cứu Trước khi trở thành một vườn quốc gia, khu vực này là một khu bảo tồn tự nhiên. Khu bảo tồn Phong Nha Kẻ Bàng có diện tích 5.000 ha đã được Chính phủ Việt Nam chính thức công bố ngày 9 tháng 8 năm 1986 và đã được mở rộng thành 41.132 ha vào năm 1991. Ngày 12 tháng 12 năm 2001, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định số 189/2001/QĐ-TTg chuyển Khu bảo tồn thiên nhiên Phong Nha - Kẻ Bàng thành vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng. Diện tích vùng lõi của VQG là 85.754 ha và một vùng đệm rộng trên 200.000 ha. Chính vì vậy việc nghiên cứu phải căn cứ vào 6
- các số liệu trước khi mở rộng và số liệu mới sau khi mở rộng diện tích VQG. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu - Phương pháp khảo sát thực địa và thu thập tài liệu - Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh tổng hợp và mô hình hóa - Phương pháp xã hội học. 5. Những đóng góp của khóa luận Thông qua những quan điểm về du lịch bền vững trong và ngoài nước vận dụng vào thực tiễn việc đánh giá tiềm năng phát triển du lịch bền vững của VQG Phong Nha - Kẻ Bàng. Từ thực tế bước đầu đánh giá các tiềm năng để phát triển du lịch bền vững, xác định những điểm mạnh và hạn chế trong quá trình phát triển du lịch bền vững tại VQG này. Giải pháp thực hiện có hiệu quả việc phát triển du lịch bền vững tại đây. 6. Bố cục khóa luận Gồm 4 chương: Chương 1: Một số lý luận chung về du lịch và quan điểm phát triển du lịch bền vững. Chương 2: Điều kiện tự nhiên và xã hội ảnh hưởng hoạt động du lịch bền vững ở VQG Phong Nha - Kẻ Bàng. Chương 3: Tiềm năng du lịch và thực trạng khai thác du lịch tại VQG Phong Nha - Kẻ Bàng. Chương 4: Định hướng và giải pháp phát triển du lịch bền vững ở VQG Phong Nha - Kẻ Bàng. 7
- PHẦN NỘI DUNG CHƢƠNG 1 MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DU LỊCH VÀ QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG 1.2 Khái niệm và phân loại du lịch 1.1.1 Khái niệm du lịch Từ xa xưa trong lịch sử nhân loại du lịch được ghi nhận như một sở thích, một hoạt động nghỉ ngơi tích cực của con người. Ngày nay du lịch trở thành một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống văn hóa - xã hội của người dân. Du lịch được ví như một ngành “công nghiệp không khói” và hiện nay ngành “công nghiệp” này chỉ đứng sau công nghiệp dầu khí và ô tô. Đối với các nước đang phát triển, du lịch được coi là cứu cánh để vực dậy kinh tế ốm yếu của quốc gia. Ngày nay, du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế – xã hội phổ biến không chỉ ở các nước phát triển mà còn ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến nay không chỉ ở nước ta, nhận thức về nội dung du lịch vẫn chưa thống nhất. Tổ chức du lịch thế giới đã có định nghĩa về du lịch như sau: “Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi thường trú thường xuyên của họ hay ngoài trời nước họ với mục đích hòa bình. Nơi họ đến lưu trú không phải là nơi làm việc của họ”. Luật Du lịch Việt Nam năm 2005 đã đưa ra khái niệm về du lịch: “Du lịch là các hoạt động của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định”. (9[10]) 8
- Sau khi Luật du lịch được ban hành, du lịch Việt Nam phát triển mạnh mẽ hơn và du lịch bền vững ngày càng được chú ý đến trong sự phát triển chung của hoạt động du lịch nhằm nâng cao chất lượng, quy mô và hiệu quả hoạt động du lịch, đưa ngành du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. 1.1.2 Tài nguyên du lịch (TNDL) TNDL là loại tài nguyên có những đặc điểm giống những loại tài nguyên nói chung, song có một số đặc điểm riêng gắn với sự phát triển của ngành Du lịch. TNDL theo Pirojnik: “TNDL là những tổng thể tự nhiên, văn hóa – lịch sử và những thành phần của chúng, tạo điều kiện cho việc phục hồi và phát triển thể lực tinh thần con người, khả năng lao động và sức khỏe của họ, trong cấu trúc nhu cầu du lịch hiện tại và tương lai, trong khả năng kinh tế kỹ thuật cho phép, chúng được dùng để trực tiếp và gián tiếp sản xuất ra những dịch vụ du lịch và nghỉ ngơi”. (19[2]). Nguyễn Minh Tuệ và nnk. cũng cho rằng: “TNDL là tổng thể tự nhiên và văn hóa lịch sử cùng các thành phần của chúng góp phần khôi phục, phát triển thể lực, trí tuệ của con người, khả năng lao động và sức khỏe của họ. Những tài nguyên này được sử dung cho nhu cầu trực tiếp và gián tiếp, cho việc sản xuất dịch vụ du lịch”. (19[2]). Khoản 4 (Điều 4 chương 1) Luật Du lịch Việt Nam năm 2005 quy định: “TNDL là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử văn hóa, công trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác có thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch”. Như vậy, TNDL được xem như là tiền đề phát triển du lịch. TNDL càng phong phú đặc sắc có mức độ tập trung cao thì càng có sức hấp dẫn với du khách và có hiệu quả kinh doanh du lịch cao. TNDL là một phạm trù lịch sử, việc khai thác phụ thuộc vào nhiều điều kiện kinh tế – xã hội, khoa học kỹ thuật, chính trị nên ngày càng được mở rộng. Do vậy TNDL bao gồm cả TNDL đã, đang khai thác và TNDL chưa được khai thác. 1.1.2.1 Tài nguyên du lịch tự nhiên 9
- Nếu được quy hoạch, bảo vệ khai thác hợp lý theo hướng bền vững thì phần lớn các loại TNDL tự nhiên được xếp vào loại tài nguyên vô tận, tài nguyên có khả năng tái tạo hoặc có quá trình suy thoái chậm. Ví dụ: Tài nguyên nước, theo quy luật tuần hoàn nếu rừng được bảo vệ và khai thác hợp lý, tài nguyên nước không bị ô nhiễm bởi các chất thải từ đời sống cũng như sản xuất, tài nguyên nước được xếp vào loại tài nguyên vô tận. Tài nguyên khí hậu cũng được xếp vào loại tài nguyên vô tận. Nhưng do các chất thải từ hoạt động kinh tế trong đó có du lịch, việc bảo vệ không hợp lý, khai thác rừng bừa bãi, diện tích rừng bị suy giảm có thể làm cho không khí bị ô nhiễm bởi bụi, khí thải độc hại, tiếng ồn, nhiệt độ. Nhiệt độ của Trái Đất bị tăng lên do lượng khí thải tăng lên và làm tăng hiệu ứng nhà kính đã làm cho khí hậu của toàn cầu thay đổi. Tài nguyên sinh vật, nhất là trong các khu vực nhiệt đới và xích đạo có khả năng tự phục hồi nhanh. Tuy nhiên chỉ trong điều kiện tài nguyên này được khai thác và bảo vệ hợp lý, không vượt quá giới hạn sinh học, khả năng tái tạo của nó. Tài nguyên địa hình, địa chất nếu được khai thác bảo tồn hợp lý, không phá vỡ cảnh quan, loại tài nguyên này có thể khai thác được nhiều lần, thời gian làm cho chúng tự thay đổi phải tính đến từ nghìn năm cho đến hàng triệu năm. Hầu hết việc khai thác TNDL tự nhiên chịu ảnh hưởng nhiều vào điều kiện thời tiết, việc tổ chức các tour leo núi, tham quan các vùng núi hay đi nghỉ biển, tham quan sông nước phụ thuộc vào rất nhiều điều kiện thời tiết. Đặc biệt không thể tổ chức các tuor du lịch sông nước vào mùa lũ, không thể tắm biển vào mùa rét. Vào mùa khô trữ lượng nước của các thác nước, hồ nước, hệ thống sông cạn nước nên khó khăn cho hoạt động du lịch thể thao nước và tham quan sông nước. Một số điểm phong cảnh và du lịch dựa vào điều kiện tự nhiên thường cách xa các khu đông dân cư. Đặc điểm này có mặt gây tốn kém, khó khăn cho việc tổ chức các hoạt động du lịch, mặt khác nó lại là nhân tố góp phần làm cho TNDL tự nhiên hấp dẫn, được bảo tồn tốt hơn do ít chịu ảnh hưởng tiêu cực bởi các hoạt động kinh tế – xã hội. Ví dụ như một số VQG Ba Bể, Tam Đảo, Hoàng Liên Sơn, Pù Mát, Vụ Quang, Phong Nha - Kẻ Bàng, Bạch Mã, Các thác nước như: Thác Bạc (Tam Đảo), 10
- Thác Bạc (Sa Pa); thác Bản Giốc (Cao Bằng); thác Ponggua Premn (Đà Lạt), 1.1.2.2 Tài nguyên du lịch nhân văn TNDL nhân văn do con người tạo ra nên chịu tác động của thời gian, thiên nhiên và do chính con người. Vì vậy dễ bị suy thoái, hủy hoại và không có khả năng tự phục hồi ngay cả khi không có sự tác động của con người. Vì vậy di tích lịch sử – văn hóa khi bị bỏ hoang cũng bị xuống cấp nhanh chóng; những giá trị văn hóa phi vật thể như những làn điệu dân ca, những vũ khúc, các lễ hội các nghề truyền thống, phong tục, tập quán, khi không được bảo tồn và phát huy có hiệu quả sẽ bị mai một và biến mất. Do vậy, khi khai thác TNDL nhân văn cho mục đích phát triển du lịch cần quan tâm đầu tư cho bảo tồn, tôn tạo thường xuyên, khoa học và có hiệu quả. Tài nguyên du lịch nhân văn là do con người sáng tạo ra nên có tính phổ biến. Ở đâu có con người, ở đó có tài nguyên nhân văn, trong đó có nhiều loại có sức hấp dẫn với du khách, đã hoặc sẽ có thể sử dụng cho phát triển du lịch. TNDL nhân văn ở mỗi vùng, mỗi quốc gia thường mang những giá trị đặc sắc riêng. Do điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế – xã hội là những yếu tố nuôi dưỡng tạo thành TNDL nhân văn ở mỗi địa phương, mỗi quốc gia không giống nhau nên TNDL nhân văn ở mỗi khu vực, mỗi quốc gia có những giá trị đặc sắc riêng. Do vậy trong quá trình khai thác, bảo tồn TNDL nhân văn cần coi trọng việc bảo vệ, phát huy giá trị độc đáo của tài nguyên. TNDL nhân văn thường được phân bố gần các khu dân cư, đặc biệt tập trung ở những khu đông dân cư. Bởi nó được sinh ra trong quá trình phát triển xã hội và là ấn phẩm do con người sáng tạo ra. Khác với TNDL tự nhiên, việc khai thác phần lớn các loại TNDL nhân văn thường ít chịu ảnh hưởng của các hiện tượng thời tiết gây nên như mưa hay rét nên tính mùa vụ cũng ít hơn so với TNDL tự nhiên. 1.1.3 Phân loại du lịch Ở Việt Nam, hoạt động du lịch có thể chia thành nhiều nhóm khác nhau tùy thuộc vào các tiêu chí và mục đích mà ta đưa ra. Các tiêu chí phổ biến hay được sử dụng để phân loại du lịch là môi trường tài nguyên, mục đích chuyến đi và lãnh thổ hoạt động. Ngoài ra, ta cũng có thể phân loại du lịch dựa vào đặc điểm địa lý của điểm 11
- du lịch, phương tiện giao thông, loại hình lưu trú, lứa tuổi du khách, độ dài chuyến đi, hình thức tổ chức hay phương thức hợp đồng. Hiện nay, đa số các chuyên gia về du lịch Việt Nam phân chia các loại hình du lịch theo các tiêu chí cơ bản dưới đây: Phân loại theo môi trƣờng tài nguyên: Theo Pirojnik, du lịch là một ngành có định hướng tài nguyên rõ rệt. Tùy vào môi trường tài nguyên mà hoạt động du lịch được chia thành hai nhóm lớn là du lịch văn hóa và du lịch thiên nhiên. Người ta gọi là du lịch văn hóa khi hoạt động du lịch diễn ra chủ yếu trong môi trường nhân văn, hoặc hoạt động đó tập trung khai thác tài nguyên du lịch nhân văn. Tài nguyên du lịch nhân văn là nhóm tài nguyên có nguồn gốc nhân tạo, nghĩa là do con người tạo ra. Theo quan điểm chung hiện nay thì toàn bộ những sản phẩm có giá trị vật chất cũng như tinh thần do con người sáng tạo ra đều được coi là những sản phẩm văn hóa. Các dạng tài nguyên du lịch nhân văn: các di tích lịch sử - văn hóa, các lễ hội, nghề và làng nghề thủ công truyền thống, các đối tượng du lịch gắn với dân tộc học, các hoạt động văn hóa thể thao hay những hoạt động có tính sự kiện. Ngược lại, du lịch thiên nhiên diễn ra nhằm thỏa mãn nhu cầu về với thiên nhiên của con người. Du lịch thiên nhiên được coi là loại hình hoạt động du lịch đưa khách về với những nơi có điều kiện, môi trường tự nhiên trong lành, cảnh quan tự nhiên hấp dẫn Nhằm thỏa mãn nhu cầu đặc trưng của họ. Để có thể phát triển du lịch tự nhiên thì phải có tài nguyên du lịch tự nhiên. Các tài nguyên du lịch tự nhiên bao gồm: địa hình (Các vùng núi có phong cảnh đẹp, các hang động, các bãi biển, các di tích tự nhiên), khí hậu (Khí hậu phù hợp với sức khỏe của con người, phục vụ cho việc chữa bệnh, an dưỡng), Thủy văn (Bề mặt nước và các bãi nông ven bờ, các điểm nước khoáng, suối nước nóng), sinh vật (Các VQG, các khu bảo tồn thiên nhiên, các điểm tham quan sinh vật, một số hệ sinh thái đặc biệt). Du lịch sinh thái: Theo quan niệm chung trong các hội nghị quốc tế: Du lịch sinh thái là loại hình 12
- du lịch dựa vào thiên nhiên hỗ trợ cho các hoạt động bảo tồn và được quản lý bền vững về mặt sinh thái (các yếu tố tự nhiên còn hoang sơ, ít bị biến đổi) khách du lịch được hướng dẫn để bảo vệ môi trường và tự nhiên từ đó giúp cho khách du lịch nâng cao hiểu biết và được thưởng ngoạn những phong cảnh đẹp, giới sinh vật hoang dã cũng như các giá trị văn hóa của địa phương từ đó sẽ làm thức dậy tình yêu, trách nhiệm của khách du lịch với việc bảo tồn các giá trị văn hóa tự nhiên. Theo định nghĩa trong hội thảo Quốc gia về du lịch sinh thái tháng 9/1999: Du lịch sinh thái là loại hình du lịch dựa vào tự nhiên và văn hóa bản địa gắn với việc giáo dục môi trường và có sự đóng góp nỗ lực cho bảo tồn và phát triển bền vững với sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương. Phân loại theo mục đích chuyến đi: - Thuần thúy du lịch : tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng, khám phá, thể thao, lễ hội -Mục đích kết hợp: tôn giáo, nghiên cứu, hội nghị, thể thao, chữa bệnh, thăm thân, kinh doanh Phân loại theo lãnh thổ hoạt động: - Du lịch quốc tế: Du lịch quốc tế đến là chuyến đi của người nước ngoài đến tham quan du lịch. Du lịch ra nước ngoài là chuyến đi của người trong nước ra tham quan du lịch ở nước ngoài - Du lịch nội địa: Du lịch nội địa được hiểu là các hoạt động tổ chức, phục vụ người trong nước đi du lịch, nghỉ ngơi và tham quan các đối tượng du lịch trong lãnh thổ quốc gia, về cơ bản không có sự giao dịch thanh toán bằng ngoại tệ. - Du lịch quốc gia: Du lịch quốc gia bao gồm toàn bộ hoạt động du lịch của một quốc gia từ việc gửi khách ra nước ngoài đến việc phục vụ khách trong nước và ngoài nước tham quan. Du lịch trong phạm vi nước mình. 1.2 Quan điểm phát triển du lịch bền vững 13
- 1.2.1 Khái niệm du lịch bền vững Phát triển bền vững đã trở thành mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của toàn nhân loại trong thế kỷ XXI. Phát triển du lịch bền vững trở thành xu hướng và mục tiêu phát triển ngành kinh tế du lịch của nhiều quốc gia trên thế giới cũng như Việt Nam trong hiện tại và tương lai. Vì vậy quan điểm phát triển du lịch cần được soi sáng, vận dụng trong việc tổ chức quản lý, triển khai đánh giá các hoạt động du lịch và trong việc nghiên cứu tiến hành quy hoạch du lịch. Theo Hội đồng thế giới về Môi trường và phát triển (WCED): “Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng của các thế hệ tương lai trong đáp ứng các nhu cầu của họ”. (8[1]). Theo Khoản 21, Điều 4, Chương I – Luật Du lịch Việt Nam (năm 2005): “Du lịch bền vững là sự phát triển du lịch đáp ứng được các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu về du lịch của tương lai”. 1.2.2 Mục tiêu của phát triển bền vững - Phát triển bền vững về kinh tế: Du lịch là một ngành kinh tế, nên phát triển du lịch bền vững cần phải bền vững về kinh tế, thu nhập phải lớn hơn chi phí, phải đạt được sự tăng trưởng cao, ổn định trong thời gian dài, tối ưu hóa đóng góp của ngành du lịch vào thu nhập quốc dân, góp phần thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển. - Phát triển bền vững về môi trường: Phải sử dụng bảo vệ tài nguyên và môi trường du lịch theo hướng tiết kiệm, bền vững, đảm bảo sự tái tạo và phục hồi của tài nguyên, nâng cao chất lượng của tài nguyên và môi trường, thu hút cộng đồng và du khách vào các hoạt động bảo tồn, tôn tạo tài nguyên. - Phát triển bền vững về xã hội: Thu hút cộng đồng tham gia vào các hoạt động du lịch, tạo nhiều việc làm góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của cộng đồng địa phương, cải thiện tính công bằng xã hội, đa dạng hóa, nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch, đáp ứng cao độ nhu cầu của du khách. Như vậy, các nhà quy hoạch trong quá trình quy hoạch du lịch cần xem xét đến việc đáp ứng các mục tiêu phát triển du lịch bền vững của các lãnh thổ được quy hoạch. 14
- Để đạt được sự phát triển du lịch bền vững, trong quá trình phát triển du lịch và quy hoạch du lịch cần phải thực hiện có nguyên tắc. 1.2.3 Các nguyên tắc phát triển du lịch bền vững - Sử dụng nguồn lực một cách bền vững: Việc bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên, văn hóa – xã hội là rất cần thiết, nó giúp cho việc kinh doanh phát triển lâu dài. Du lịch là ngành kinh tế có sự định hướng tài nguyên rõ rệt. Tài nguyên du lịch lại được coi là sản phẩm du lịch quan trọng nhất, là mục đích chuyến đi của du khách. Nhưng nhiều loại tài nguyên du lịch không thể đổi mới, tái chế hay thay thế được. Hoạt động du lịch đã mang lại hiệu quả về nhiều mặt, nhưng cũng gây nhiều tác động tiêu cực như: làm cạn kiệt, suy giảm tài nguyên môi trường Vì vậy, trong quá trình quy hoạch các dự án phát triển du lịch cần xây dựng những phương cách, chiến lược bảo tồn, tôn tạo, khai thác tài nguyên du lịch theo hướng tiết kiệm, hợp lý để lưu lại cho thế hệ tương lai một nguồn tài nguyên như thế hệ hiện tại được hưởng. - Duy trì tính đa dạng: Việc duy trì và tăng cường tính đa dạng của thiên nhiên, văn hóa – xã hội là hết sức quan trọng đối với du lịch bền vững lâu dài; là cơ sở cho việc tồn tại, phát triển của ngành du lịch. Trong quá trình xây dựng và thực hiện các dự án quy hoạch du lịch, cũng như sự phát triển du lịch do nhiều nguyên nhân khác nhau nên dễ làm mất đi tính đa dạng của thiên nhiên, văn hóa – xã hội. Vì vậy trong quá trình quy hoạch du lịch cần xây dựng thực hiện các phương cách, chiến lược nhằm duy trì bảo tồn được tính đa dạng của tự nhiên và văn hóa xã hội. - Giảm tiêu thụ quá mức và giảm chất thải: Sự tiêu thụ quá mức tài nguyên thiên nhiên và các tài nguyên khác không chỉ dẫn đến sự hủy hoại môi trường, làm cạn kiệt tài nguyên mà còn không đảm bảo nguồn tài nguyên cho sự phát triển lâu dài của ngành Du lịch. Các chất thải của phương tiện vận chuyển khách, chất tẩy rửa, dầu ăn, nước thải từ dịch vụ giặt đồ và nấu ăn, cùng với lượng chất thải khác từ các dịch vụ phục vụ du khách, cũng như của du khách. Nếu chúng không được thu gom sử lý đúng yêu cầu kỹ thuật, hoặc tái chế sẽ là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường. Do vậy, đối với các địa phương và các quốc gia hoạt động du lịch càng phát triển thì lượng du 15
- khách càng nhiều dẫn đến lượng chất thải từ hoạt động này cũng ngày càng nhiều. Các dự án quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch được triển khai không có đánh giá tác động môi trường hoặc không thực thi những kiến nghị về đánh giá tác động của môi trường đã dẫn đến sự tiêu dùng lãng phí tài nguyên. Chính điều này đã gây ô nhiễm môi trường, suy thoái tài nguyên và xáo trộn về văn hóa – xã hội. Nhiều dự án quy hoạch du lịch không có kế hoạch, hay lập kế hoạch kém dẫn đến việc cộng đồng địa phương cùng với các cơ quan nhà nước phải làm công việc phục hồi tổn thất về môi trường. Do vậy việc quy hoạch phát triển du lịch đúng đắn ngay từ khi lập dự án phải tiến hành đánh giá tác động từ hoạt động du lịch đến tài nguyên môi trường, từ đó dự kiến những biện pháp phòng ngừa hữu hiệu nhằm giảm tiêu thụ quá mức tài nguyên và giảm lượng chất thải vào môi trường là cần thiết. - Hợp nhất quy hoạch du lịch vào quá trình quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội: Du lịch là một ngành kinh tế mang tính liên ngành, nó có mối quan hệ qua lại chặt chẽ với nhiều ngành kinh tế - xã hội. Ngành du lịch mang lại hiệu quả trực tiếp và gián tiếp đối với các ngành kinh tế - xã hội. Do vậy cần hợp nhất phát triển du lịch vào trong khuôn khổ hoạch định chiến lược của địa phương và quốc gia. Quy hoạch phát triển du lịch là một bộ phận của quy hoạch kinh tế – xã hội, nó làm tăng khả năng tồn tại, phát triển lâu dài của ngành du lịch. Khi sự phát triển du lịch là một bộ phận hợp nhất của quy hoạch, kế hoạch phát tiển cấp quốc gia hoặc địa phương, nếu coi việc phát triển du lịch là một tổng thể thì sẽ mang lại lợi ích tối đa và dài hạn hơn cho nền kinh tế – xã hội quốc gia và địa phương và cho cả phát triển du lịch. Điều này sẽ khuyến khích việc bảo tồn, tôn tạo và khai thác tài nguyên môi trường du lịch hiệu quả hơn, vừa góp phần hấp dẫn du khách và nâng cao đời sống cộng đồng địa phương. Khi hòa nhập phát triển quy hoạch du lịch vào quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia và địa phương, ngành du lịch sẽ được đầu tư, phát triển phù hợp, đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển. Do vậy trong quá trình quy hoạch du lịch cần phải tính đến sự hòa hợp quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội. 16
- - Hỗ trợ kinh tế địa phương: Nguồn tài nguyên mà ngành du lịch sử dụng vốn thuộc quyền sở hữu của người dân bản địa như đường giao thông, điện nước, hệ thống xử lý chất thải, thông tin liên lạc có thể không chỉ phục vụ riêng cho ngành du lịch nhưng vẫn thúc đẩy du lịch phát triển. Hoạt động du lịch một mặt mang lại hiệu quả tích cực kinh tế - xã hội của địa phương, mặt khác cũng để lại hiệu quả tiêu cực cho tài nguyên môi trường và kinh tế - xã hội của địa phương. Do vậy, ngành du lịch có trách nhiệm đóng góp một phần cho phát triển kinh tế địa phương, trong quá trình hoạch định các giải pháp chính sách khi quy hoạch du lịch cần phải tính đến đóng góp từ thu nhập du lịch cho kinh tế địa phương và quốc gia. - Thu hút sự tham gia của cộng đồng địa phương: Việc tham gia của cộng đồng địa phương vào du lịch không chỉ mang lại lợi ích cho họ và môi trường; mà còn góp phần duy trì, phát triển du lịch, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch, tạo ra sự hấp dẫn với du khách. Sự tham gia của địa phương là cần thiết cho ngành du lịch. Dân cư, nền văn hóa, môi trường, lối sống và truyền thống của địa phương là những nhân tố quan trọng thu hút khách du lịch tới điểm du lịch. Sự tham gia thực sự của cộng đồng có thể làm phong phú thêm kinh nghiệm và sản phẩm du lịch. Khi cộng đồng được tham gia vào quá trình quy hoạch và chỉ đạo phát triển du lịch, thì họ có thể trở thành đối tác tích cực, tạo ra sự kiểm chứng và có nghĩa vụ với môi trường. Sự tham gia của cộng đồng địa phương vào hoạt động du lịch có thể giúp cho họ xóa đói, giảm nghèo góp phần thu được nhiều ngoại tệ, có lợi cho cả cộng đồng địa phương và khách du lịch, đồng thời cũng nâng cao triển vọng phát triển lâu dài của sản phẩm du lịch. Thực tế trong nhiều dự án quy hoạch du lịch, cộng đồng địa phương thường chỉ được tham gia những công việc có thu nhập thấp, nặng nhọc, mang tính mùa vụ. Trong khi họ lại chịu nhiều tác động tiêu cực cả về kinh tế - xã hội, văn hóa từ hoạt động du lịch. Do vậy ngay từ đầu khi tiến hành quy hoạch du lịch cần phải tính đến các phương cách, chiến lược để thu hút cộng đồng địa phương vào hoạt động du lịch. - Lấy ý kiến quần chúng và các đối tượng liên quan: Việc lấy ý kiến của cộng đồng địa phương, các tổ chức và cơ quan khác nhau, các doanh nghiệp du lịch là rất 17
- cần thiết. Đây là một bước nhằm nâng cao nhận thức của các bên tham gia với các dự án quy hoạch, cùng nhau giải quyết các mâu thuẫn tiềm ẩn về quyền lợi. Đồng thời, điều này giúp cho các bên tham gia có thể ủng hộ cho việc thực hiện các dự án quy hoạch. Do vậy, trong quá trình triển khai các dự án quy hoạch du lịch cần vận dụng nguyên tắc này trong điều tra xã hội học, lấy ý kiến của các đối tượng có liên quan vừa để giải tỏa các mâu thuẫn tiềm ẩn; vừa tìm thấy các nguyên nhân bất đồng, những vấn đề cần giải quyết; góp phần thu hút các bên tích cực tham gia vào việc thực hiện dự án quy hoạch du lịch. - Đào tạo nhân viên: Nguồn nhân lực du lịch là lực lượng sản xuất quan trọng nhất, nó quyết định sự phát triển du lịch bền vững. Để đạt được các mục tiêu phát triển bền vững, các dự án quy hoạch ngay từ đầu cần phải hoạch định các chiến lược, giải pháp để đào tạo, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực. - Tiếp thị du lịch một cách có trách nhiệm: Để thực hiện được các mục tiêu phát triển du lịch bền vững, các dự án quy hoạch du lịch cần hoạch định các chiến lược, marketing, quảng bá cho du khách những thông tin đầy đủ và có trách nhiệm nâng cao sự tôn trọng của du khách với môi trường tự nhiên, văn hóa – xã hội tại điểm đến, đồng thời làm tăng sự thỏa mãn của du khách. Tiến hành nghiên cứu: Thông tin số liệu để xây dựng dự án và ngay cả khi dự án được thực hiện đều không sẵn có. Để các dự án quy hoạch có hiệu quả, ngay từ thời kỳ tiền dự án đến khi thực hiện dự án cần: đầu tư nhiều cho công tác điều tra, giám sát, thống kê, so sánh tổng hợp mới có thể xây dựng được các mục tiêu, các định hướng, các giải pháp của dự án phù hợp. Công tác nghiên cứu còn giúp cho việc nhận thức rõ được những thiếu sót, hạn chế của dự án quy hoạch để từ đó có những giải pháp kế hoạch điều chỉnh bổ sung kịp thời. 1.2.4 Các loại hình du lịch bền vững Có một số loại hình du lịch hiện đang hấp dẫn du khách và góp phần phát triển du lịch bền vững, đó là du lịch sinh thái hay còn gọi là “du lịch dựa vào thiên nhiên” và du lịch văn hóa hay “du lịch dựa vào văn hóa”. Theo Khoản 19 và 20 Điều 4, Chương I – Luật Du lịch Việt Nam (năm 2005), 18
- hai loại hình du lịch trên được định nghĩa như sau: “Du lịch sinh thái là hình thức du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc địa phương, với sự tham gia của cộng đồng nhằm phát triển bền vững”. “Du lịch văn hóa là hình thức du lịch dựa vào bản sắc dân tộc với sự tham gia của cộng đồng, nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống”. Các loại hình du lịch sinh thái gồm: Du lịch nghỉ dưỡng; Du lịch tham quan; Du lịch mạo hiểm; Du lịch thể thao; Du lịch nghiên cứu; Vui chơi giải trí Các loại hình du lịch văn hóa gồm: Du lịch tham quan nghiên cứu; Du lịch hành hương lễ hội; Du lịch làng nghề; Du lịch làng bản Các loại hình du lịch bền vững là các loại hình du lịch mang tính giáo dục nhận thức cao, có trách nhiệm bảo tồn và phát triển cộng đồng. Do vậy, cần nghiên cứu các chiến lược phát triển, xây dựng kế hoạch và giải pháp cho việc phát triển các loại hình du lịch bền vững. Trong Khoản 1, Điều 5, Chương I – Luật Du lịch Việt Nam (năm 2005) về các nguyên tắc phát triển du lịch có nêu: “Phát triển du lịch bền vững theo quy hoạch, kế hoạch đảm bảo hài hòa giữa kinh tế – xã hội và môi trường, phát triển có trọng tâm, trọng điểm theo hướng du lịch văn hóa lịch sử, du lịch sinh thái, bảo tồn, tôn tạo phát triển giá trị của tài nguyên”. Như vậy, phát triển du lịch trở thành định hướng, mục tiêu chiến lược nguyên 19
- tắc phát triển của du lịch Việt Nam. Vì vậy, trong quá trình quy hoạch các dự án phát triển du lịch Việt Nam, việc vận dụng quan điểm phát triển bền vững là cần thiết, nó giúp cho các dự án quy hoạch du lịch mang tính khả thi và có hiệu quả cao. Tiểu kết Du lịch đang phát triển mạnh mẽ và trở thành ngành kinh tế có đóng góp to lớn trong GDP và trở thành ngành kinh tế chủ đạo của nhiều quốc gia phát triển kinh tế bằng con đường du lịch. Và việc xây dựng kế hoạch phát triển bền vững chính là giải pháp tối ưu để đạt được các mục tiêu tăng trưởng nhanh trong khi vẫn sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên. Ngày nay du lịch bền vững đang phát triển mạnh mẽ. Các đối tượng văn hóa, các tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn là cơ sở tạo nên các loại hình du lịch hấp dẫn. Nó đánh dấu sự độc đáo, hấp dẫn của từng vùng, từng địa phương, từng quốc gia, từng dân tộc 20
- CHƢƠNG 2 ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI ẢNH HƢỞNG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH BỀN VỮNG Ở VQG PHONG NHA - KẺ BÀNG 2.1 Điều kiện tự nhiên 2.1.1 Vị trí địa lý Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng được thành lập vào năm 2001, trên cơ sở chuyển đổi từ Khu bảo tồn thiên nhiên thành Vượn quốc gia, theo Quyết định số 189/2001/QĐ- TTg của Chính phủ. Theo đó, vùng lõi VQG Phong Nha - Kẻ Bàng, bao gồm ranh giới hành chính của các xã : Tân Trạch, Thượng Trạch, Phúc trạch, Xuân Trạch và Sơn Trạch, thuộc huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, nằm về phía Tây Bắc tỉnh Quảng Bình, dọc biên giới Việt Nam – Lào, có tọa độ địa lý : Từ 17o21'12" đến 17o39'44" Vĩ độ Bắc, Từ 105o57'53" đến 106o24'19" Kinh độ Đông. 2.1.2 Địa hình Phần lớn diện tích Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng là núi đá vôi (karst). Một phần nhỏ diện tích còn lại là phi karst, nằm ở các phạm vi giáp ranh, có độ cao trung bình khoảng 600 – 700 m, tạo thành một dải dài khoảng 50 km dọc biên giới Việt – Lào. Nhìn tổng quát trong khu vực có 3 kiểu địa hình chính: +Kiểu địa hình núi đá vôi Bao gồm khối núi đá vôi liên tục từ dãy núi Phu Toc Vu, đèo Mụ Giạ (huyện Minh Hóa) kéo dài tới hang Én, Rào Bụt, Cà Roòng (huyện Bố Trạch), dài khoảng 70 km. Phần nằm bên lãnh thổ có diện tích khoảng 200.000 ha. Nếu tính toàn bộ khối núi đá vôi cả về phía Việt Nam và Lào thì đây là một trong những khối núi đá rộng lớn nhất hành tinh (Piere G.,1966). Tại đây, các dãy núi đá vôi phát triển hầu như liên tục, thành phần tương đối đồng nhất, độ dày trên 1000 m. Địa hình núi đá vôi bị chia cắt rất mạnh, cùng với quá trình karst do hòa tan và 21
- ngưng đọng carbonat hình thành nên các nhũ đá, măng đá, nấm đá, chuông đá, cột đá đa dạng phức tạp, đẹp kỳ lạ trong các hang động. Nhiều nơi đá bị bào mòn tạo nên những cổng trời, rừng đá, cầu đá rất kỳ thú. Giữa các vách đá thường là các khung kín dài và nhỏ, rộng khoảng 20 – 100 m. Trong vùng núi đá vôi hầu như không có sông suối trên bề mặt, mà thấy ở vành ngoài. Các mắt hút rải rác trong các thung đưa nước thoát theo các sông ngầm. Vùng karst này còn chứa nhiều bí ẩn, hiện nay chưa thể khám phá hết được. +Kiểu địa hình phi karst Kiểu địa hình này chiếm tỷ lệ thấp, phân bố ở vùng ngoài núi đá vôi ở phía Bắc, Đông Bắc và Đông Nam Vườn quốc gia. Độ cao trung bình khoảng 600 – 700m. Có khá nhiều thung lũng hẹp chạy dài theo các suối như khe Am, khe Cha Lo, khe Chua Ngút và ở cực Tây Nam có thung lũng dọc Rào Thương. Địa hình phi karst cũng là vùng đầu nguồn của các con sông, suối chảy vào sông Gianh. Nhìn chung dạng địa hình này thoải và mềm mại hơn vùng núi đá vôi. Độ chia cắt cũng không mạnh bằng. +Kiểu địa hình chuyển tiếp Đây là kiểu địa hình có sự xen kẽ phức tạp giữa các khối đá vôi và địa hình đá lục nguyên. Chúng phân bố rải rác, thường tập chung ở những vùng chuyển tiếp giữa núi đá vôi và đá lục nguyên. Địa hình thường là những đỉnh núi thấp dưới 800m, tuy không hiểm trở như kiểu địa hình karst nhưng cũng rất đa dạng phức tạp. Hệ thống hang động ở VQG Phong Nha – Kẻ Bàng: VQG Phong Nha – Kẻ Bàng là một trong hai khu vực đá vôi lớn nhất thế giới. So với 41 Di sản thế giới khác có karst, Phong Nha- Kẻ Bàng có các điều kiện địa hình, địa mạo và sinh vật khác biệt. Karst tại đây có niên đại từ thời kỳ Đại Cổ Sinh, 400 triệu năm trước, do đó Phong Nha – Kẻ Bàng là vùng karst lớn nhất châu Á. Nếu như khu vực Hin Namno, một khu vực bảo tồn thiên nhiên của tỉnh Khăm Muộn, Lào, giáp Phong Nha – Kẻ Bàng về phía Tây được kết hợp thành một khu bảo tồn liên tục, thì khu vực bảo tồn này sẽ là khu rừng karst còn tồn tại lớn nhất Đông Nam Á với diện tích 317.754 ha. 22
- Tại Phong Nha – Kẻ Bàng có một hệ thống gồm khoảng 300 hang động lớn nhỏ. Hệ thống động Phong Nha đã được Hội nghiên cứu hang động Hoàng gia Anh (BCRA) đánh giá là hang động có giá trị hàng đầu thế giới với 4 điểm nhất: có các sông ngầm dài nhất, có cửa hang cao và rộng nhất, những bờ cát rộng và đẹp nhất, những thạch nhũ đẹp nhất. So với 3 VQG khác đã được UNESCO công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới ở Đông Nam Á và một số khu vực karst khác ở Thái Lan, Trung Quốc, Papua New Guinea thì karst ở VQG Phong Nha – Kẻ Bàng có tuổi già hơn và có hệ thống sông ngầm đa dạng và phức tạp hơn. 2.1.3 Khí hậu Nhiệt độ bình quân hàng năm biến động từ 23 độ – 25 độ. Nhiệt độ bình quân giữa các tháng dao động khá lớn, cực đại vào tháng 7, cực tiểu vào tháng 1. Các tháng lạnh nhất trong năm: 12,1,2. Các tháng nóng nhất trong năm là: 6,7,8. Biên độ nhiệt trong ngày khoảng 10 độ C vào mùa Hè, 8 độ C vào mùa Đông, lượng mưa bình quân: 2000 – 2500 mm/năm. Vùng núi cao: 3000 mm/năm. Lượng mưa lớn nhất vào tháng 9,10,11. Mùa khô, có tối thiểu 10 ngày mưa/tháng (mưa tiểu mãn). Lượng bốc hơi từ 1000 – 1300 mm/năm. Độ ẩm không khí: 83 – 84 % (độ ẩm ở mức trung bình). Mùa khô: 60 – 80 % cá biệt có những ngày chỉ 28% (đây là những ngày gió Lào thổi mạnh). Có hai mùa gió chính là gió mùa đông và gió mùa hạ. Gió mùa Đông từ tháng 11 đến tháng 1 năm sau, thịnh hành là gió Đông Bắc, xen lẫn gió Đông Nam. Gió mùa Hạ từ tháng 5 đến tháng 8, thịnh hành là gió Tây Nam gió rất khô và nóng. Khu vực VQG Phong Nha – Kẻ Bàng nằm trong lưu vực của các sông: Rào Thương, sông Chảy, sông Troóc, sông Son đều là thượng nguồn lưu vực của sông Gianh. Mưa lũ từ tháng 9 đến tháng 11, lũ lớn xuất hiện vào tháng 9, 10. Ngoài mùa mưa lũ chính, lưu vực sông Son còn phải chịu ảnh hưởng của các đợt mưa phụ (mưa tiểu mãn) vào tháng 5, tháng 6. Mưa tiểu mãn đôi khi gây lũ lụt lớn. Mùa nước cạn vào tháng 1 – 7, mực nước thấp nhất và dòng chảy tối thiểu. 2.1.4 Thủy văn Địa hình có sự phân hóa đa dạng và phức tạp nên ở đây có một hệ thống sông 23
- suối khá dày đặc. Tất cả các sông suối chảy từ hệ thống các đỉnh giông về hướng Tây Đông đổ vào sông Son ra sông Gianh và ra biển Đông. Khu bảo tồn thiên nhiên VQG Phong Nha - Kẻ Bàng có hệ thống sông ngầm lớn. Các sông này thông thường đều có thể đi qua được nhưng khô về mùa lũ. Rất nhiều con suối nhánh bị khô cạn vào mùa khô. Phần lớn các con sông chảy rất nhanh có lớp đáy và bờ là đá cuội và đá tảng lớn. Con sông chính này có thể đi thuyền xuôi dòng được ở một số đoạn nhất định trong khu bảo tồn. Không có ao hồ nào trong khu bảo tồn mặc dù có một số vùng thung lũng bằng và bị lũ vào mùa mưa. 2.1.5 Động thực vật Do những đặc điểm về điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý, đây là nơi giao thoa giữa các luồng di chuyển của sinh vật, giữa miền Bắc với miền Nam và giữa Việt Nam với Lào – Mianma. Nên đã tạo cho VQG Phong Nha - Kẻ Bàng có sự đa dạng sinh học cao, phong phú các loài đặc hữu. + Hệ động vật VQG Phong Nha - Kẻ Bàng VQG Phong Nha - Kẻ Bàng là nơi sinh sống của 140 loài thú, nổi bật nhất là hổ và bò tót, loài bò rừng lớn nhất thế giới, 356 loài chim, trong đó có 35 loài nằm trong Sách đỏ Việt Nam và 19 loài nằm trong Sách đỏ thế giới; 150 loài bò sát và lưỡng cư, trong đó có 18 loài nằm trong Sách đỏ Việt Nam và 6 loài nằm trong Sách đỏ thế giới; 261 loài bướm; 162 loài cá, trong đó có 4 loài đặc hữu Việt Nam. Linh trưởng có 10 bộ linh trưởng, chiếm 50 % tổng số loài thuộc bộ linh trưởng ở Việt Nam, 7 loài nằm trong Sách đỏ Việt Nam, đặc biệt là voọc Hà Tĩnh, sao la, mang. Năm 2004 có 3 loại bò sát lần đầu tiên được tìm thấy là tắc kè Phong Nha, rắn lục song và rắn lục Trường Sơn. Phong Nha – Kẻ Bàng được đánh giá là có hệ tự nhiên đa dạng nhất trong tất cả các Vườn quốc gia và khu dự trữ sinh quyển quốc gia trên thế giới. Điển hình có các loài sau: Lớp thú: voọc Hà Tĩnh, gấu chó, gấu ngựa, đều ở cấp độ nguy hiểm. Đặc biệt mới phát hiện ra sói lửa ở Phong Nha - Kẻ Bàng. Lớp chim: gà lôi lam, gà lôi hồng tía, gà lôi trắng, trĩ sao, hồng hoàng, niệc hung 24
- Lớp bò sát và lưỡng cư: rắn hổ mang chúa, rùa hộp trán vàng, kỳ đà, rắn hổ trâu, tắc kè, rắn hổ mang, ếch xanh, cóc rừng Lớp cá có: 162 loài thuộc 85 giống, 31 họ, 11 bộ, trong đó độc đáo nhất là tới 19 loài cá biển di nhập, 8 loài cá gặp trong hang động, 10 loài mới phát hiện cho khoa học. Có thể khẳng định Phong Nha - Kẻ Bàng là nơi có chỉ số đa dạng sinh học về các nước ngọt cao nhất và cao gấp 25 lần so với khu hệ cá nước ngọt ở Việt Nam. Có 4 loài cá đặc hữu hẹp chỉ gặp ở Phong Nha – Kẻ Bàng và vùng lân cận là cá dáy, cá gáy hoa, cá Phong Nha, cá nghét. Nhóm bướm: Theo nghiên cứu bước đầu của trung tâm nhiệt đới Việt – Nga đã ghi nhận được 261 loài bướm thuộc 11 họ. Hầu hết các nhóm bướm đều có mặt tại đây, chiếm tới 1/5 tổng số loài bướm của Việt Nam. Về động vật không xương sống chưa được nghiên cứu hệ thống, nhưng năm 1995 ông L. Deharveng đã sưu tầm được tiêu bản 1 loài cua mới ở Chà Nội – hang Tối khu vực động Phong Nha – Kẻ Bàng. Đặc biệt VQG Phong - Nha Kẻ Bàng có sự đa dạng cao về động vật: Chiếm tới 5% loài thú, 36,6% loài chim, 30% loài cá nước ngọt, 49% loài bò sát và lưỡng cư của cả nước. Trong đó có nhiều loài đặc hữu như: mang lớn, rắn lục có song, rắn lục Trường Sơn, tắc kè Phong Nha. Vì vậy VQG Phong Nha - Kẻ Bàng được xếp loại đa dạng sinh học loại A ở Việt Nam. Với tài nguyên sinh vật đa dạng, phong phú và đặc sắc của VQG, thuận lợi cho phát triển các loại hình du lịch như tham quan và nghiên cứu sinh vật. + Hệ thực vật VQG Phong Nha - Kẻ Bàng VQG Phong Nha – Kẻ Bàng có hệ thảm thực vật với các kiểu chính phụ sau đây : Rừng kín thường xanh mưa ẩm, nhiệt đới, chủ yếu là cây lá rộng trên núi đá vôi (diện tích 61.079 ha), phân bố ở khu vực trung tâm vườn, có các loại đặc trưng: táu mặt quỷ, trai, hoàng đàn, nghiến, lát hoa Rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới chủ yếu là cây lá rộng trên núi đá vôi cao trên 800 m (diện tích 6.364ha). Thực vật ở đây hạn chế cả về độ cao và 25
- đường kính, các loại chính lá re bời lời, bời lời xanh, sồi lá bạc, nghiến Thứ sinh nhân tác trên núi đá vôi có diện tích 1.810 ha. Các loại rừng chủ yếu đã bị tàn phá, bị thay thế với các lớp cây: ba soi, cỏ tranh Lào, thung Quần lạc cây bụi, cây gỗ rải rác trên núi đá vôi (diện tích 1.663 ha). Kiểu rừng này ở các chân dốc thoải hoặc các gò, đống đỉnh tròn bằng, cây gỗ chỉ còn rất ít, rải rác, phần lớn là cây gỗ tạp như đa lông, tràm, bời lời Rừng kín mưa ẩm thường xanh trên núi đất (diện tích 7.784 ha). Tập trung thành hai khối. Thành phần thực vật chủ yếu là dầu ke, táu mặt quỷ, trò nhai Tại đây có sự giao thoa với luồng thực vật phía bắc, đại diện là họ đậu, họ dẻ, họ re với luồng thực vật phía nam là họ dầu, họ thị Rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới chủ yếu cây lá rộng trên núi đất, trên 800m (diện tích 458 ha). Tập trung ở các đỉnh U Bò, kiểu rừng này còn giữ nguyên tính nguyên sinh, với các loài họ ưu thế, họ dẻ, cà, ổi, sồi bạc lá, sến mật Rừng thứ sinh tác nhân trên núi đá vùng thấp (diện tích 2.359 ha). Các loại cây có giá trị đã bị chặt, trở thành loài phức tạp gồm : họ dẻ, sồi, cốm, chò nhai, lim xẹt Quần lạc cây bụi, cây gỗ rải rác trên núi đất vùng thấp (diện tích 3.518ha). Kiểu thảm thực vật này có nguồn gốc sau nương rẫy hoặc bị chiến tranh tàn phá, thảm thực vật gồm cây bụi lẫn có như họ mua, bồ cu vẽ, lau, cỏ Lào Rừng hành lang ngập nước định kỳ (diện tích 172 ha), phân bố dọc suối Rào Thung, dọc các sông suối với thành phần thực vật: bún, bời lời, sung, chò nước Bước đầu điều tra khảo sát của Viện điều tra Quy hoạch rừng và dự án bảo tồn thiên nhiên quốc gia cho thấy hệ thực vật của VQG Phong Nha – Kẻ Bàng có khoảng 2400 loài thực vật, trong đó có 25% loài đặc hữu quý hiếm. Đặc biệt có 208 loài lan; năm 2004 đã tìm thấy loài lan mũi hài rất quý hiếm. Vườn có quần thể bách xanh núi đá thuần loài nguyên thủy hơn 500 tuổi, có ý nghĩa bảo tồn toàn cầu; có hơn 1700 loài thực vật bậc cao có mạch, những họ quen thuộc của hệ sinh thái rừng Việt Nam như thầu dầu, long não, dâu tằm, cà phê, đậu đều thấy có số lượng lớn. Hệ thực vật Phong Nha - Kẻ Bàng là nơi giao lưu của hai khu hệ thực vật phía 26
- bắc và phía nam. Ở đây là ranh giới cuối cùng phía nam của một số loài như nghiến, chò nước và cũng là ranh giới cuối cùng phía bắc của một số loài như dầu ke, dầu đột tím. Ở đây có 2 loại thực vật đặc hữu : táu đá, mun sọc và huê mộc, cây gỗ lớn thuộc họ dầu VQG Phong Nha – Kẻ Bàng có 36 loài thực vật có nguy cơ bị tiêu diệt và được ghi trong Sách đỏ Việt Nam như: kim tuyến, trầu, trai, mạ sưa lá lớn, chò đãi, sưa, cẩm lai nam, đinh, pơ mu, sến mật Hai loài thực vật đặc hữu quý hiếm đang bị khai thác nhiều, có nguy cơ bị tiệt chủng nhưng chưa được ghi trong Sách đỏ Việt Nam là mun sọc và huê mộc. 2.2 Điều kiện xã hội 2.2.1 Dân cƣ Khu vực vùng đệm VQG Phong Nha – Kẻ Bàng có dân của 10 xã thuộc huyện Minh Hóa: Trung Hóa, Thượng Hóa; huyện Bố Trạch: Tân Trạch, Thượng Trạch, Phúc Trạch, Xuân Trạch, Sơn Trạch, Phú Định, Hưng Trạch và huyện Quảng Ninh: Trường Sơn. Các khu vực dân cư này chủ yếu sống ven các sông lớn như sông Chày, sông Son và các thung lũng có suối phía Đông và Đông Bắc của VQG này. Các khu vực này thuộc khu vực vùng sâu vùng xa của Quảng Bình, có điều kiện hạ tầng cơ sở như đường giao thông, điện, giáo dục, y tế kém phát triển. Dân cư ở đây chủ yếu sống bằng nghề nông, khai thác lâm sản. Có hai làng người dân tộc thiểu số Arem và Ma coong sinh sống ở trong vùng lõi của VQG Phong Nha – Kẻ Bàng. Bên trong vùng đệm của VQG này chủ yếu là người Kinh và một số nhỏ người Chứt và Vân Kiều sinh sống. 2.2.2 Kinh tế xã hội Vùng đệm được xác định là các xã có đất trong hoặc có ranh giới trong Vườn quốc gia. Vùng đệm gồm 10 xã, thuộc 3 huyện. Huyện Bố Trạch: xã Hưng Trạch, xã Phúc Trạch, xã Sơn Trạch, xã Tân Trạch, xã Thượng Trạch, xã Xuân Trạch, xã Phú Định. Huyện Quảng Ninh: xã Trường Sơn. Huyện Minh Hóa: xã Thượng Hóa và xã Trung Hóa. 27
- Vùng đệm được thành lập đồng thời với thời gian thành lập Vườn quốc gia. Vùng đệm có mục đích giảm các tác động tiêu cực từ bên ngoài tới VQG. Chức năng và nhiệm vụ của vùng đệm đã được xác định trong dự án đầu tư xây dựng VQG Phong Nha - Kẻ Bàng (năm 2001). Đất đai và các nguồn tài nguyên vùng đệm do chính quyền địa phương các cấp quản lý. Tổng dân số trên toàn vùng 51.865 khẩu, 10.752 hộ sinh sống trên diện tích của 10 xã nằm xung quanh VQG Phong Nha – Kẻ Bàng. Với diện tích toàn vùng là 288.999 ha tương đương với mật độ trung bình 49 người/km2 Toàn bộ các xã nằm trong chương trình ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội trong chương trình 135, dự án giảm nghèo khu vực miền Trung, Chương trình 661. Các dự án này đã hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, phục hồi rừng, phát triển kinh tế xã hội. Đặc biệt, Chính phủ Việt Nam và Ngân hàng Tái thiết Đức đã ký kết xây dựng một dự án phát triển kinh tế - xã hội tổng hợp tại các xã vùng đệm nhằm giảm các áp lực tới VQG. 2.2.3 Những tập quán văn hóa tiêu biểu Người dân sinh sống quanh vùng đệm đều có đời sống văn hóa xã hội phong phú đa dạng, điều này cũng thật dễ hiểu bởi đây là khu vực mà trong một địa bàn cư trú sinh sống với nhau. Dưới đây là một số tập quán, sinh hoạt văn hóa của các cư dân sinh sống khá đông trong vùng đệm của VQG: Sự ưa thích con trai: Có con trai là nhu cầu quan trọng của hầu hết các gia đình các dân tộc. Con trai là người nối dõi tông đường, là người chăm sóc cha mẹ, tổ tiên nên việc có con trai là rất quan trọng đối với các gia đình. Hiện nay, thậm chí đối với cả những cặp vợ chồng tuy không muốn sinh nhiều con nhưng nếu sinh con một bề vẫn có thể cố gắng sinh thêm con hy vọng có con trai. Điều đó duy trì quan niệm truyền thống không thể thay thế của con trai, làm giảm vị thế của con gái và ảnh hưởng đến địa vị và sức khỏe của người phụ nữ. Để củng cố địa vị của họ trong gia đình nhà chồng người phụ nữ thường cố gắng để có con trai bất chấp tình trạng sức khỏe của mình và điều kiện kinh tế của gia đình. Các nghi lễ truyền thống kéo dài và tốn kém: Hiếu hỷ và các lễ mừng (mừng 28
- sinh con, mừng nhà mới, cơm mới, năm mới, cưới hỏi, ma chay ) đóng vai trò quan trọng trong đời sống cộng đồng. So với mức sống của người dân, các chi phí cho các lễ hội này chiếm một khoản kinh phí khá lớn (rượu, lợn, bò, gà, gạo ). Trong khi phần lớn người dân lại có mức sống thấp, thì những khoản chi phí này có thể phải tìm kiếm ở nguồn khác để trang trải trong đó có khả năng cao sẽ là khai thác gỗ hay sản phẩm có giá trị của rừng. Lối sống của người dân mang tính cộng đồng cao. Trong những lễ nghi cưới xin, ma chay, các lễ mừng hay là làm nhà, sửa nhà đều có sự tham dự và đóng góp của các hộ gia đình trong thôn. Vì vậy, mỗi hộ gia đình khi gia đình có việc dù nghèo cũng phải cố gắng tổ chức bà con trong thôn tới dự. Một nét văn hóa đáng lưu ý là tuổi kết hôn khá sớm của người phụ nữ nhu cầu sinh con trai nối dõi và thờ cúng tổ tiên. Với tuổi kết hôn sớm như vậy, nếu không thực hiện kế hoạch hóa gia đình, độ tuổi sinh con của người phụ nữ sẽ dài hơn, sinh nở sớm sẽ ảnh hưởng tới sức khỏe của người phụ nữ và cơ hội phát triển của họ. Vì mong muốn có con trai mà nhiều cặp vợ chồng đã cố gắng sinh thêm con. Một số nghiên cứu đã chứng minh phần lớn các cặp vợ chồng sinh con thứ 3, thứ 4 là do mong muốn có con trai. Đây là những yếu tố cần được lưu ý bởi chúng có thể gây ảnh hưởng lớn đến việc sinh nhiều con trong các dân tộc đặc biệt là các dân tộc thiểu số. Đặc sắc là nét văn hóa của người Chứt: Cưới xin: Trai gái đều đến tuổi trưởng thành, được tự do tìm hiểu yêu đương. Trước khi cưới, nhà trai phải chọn ông mối đi dạm hỏi vài lần. Lễ cưới được tổ chức bên nhà gái sau đó mới đón dâu. Lễ vật quan trọng nhất thiết phải có thịt khỉ sấy khô. Người Chứt không có tục ở rể. Sinh đẻ: Sắp đến ngày ở cữ, người chồng thường dựng một cái lều nhỏ cho vợ ở ngoài rừng. Thỉnh thoảng anh ta đến thăm nom, tiếp tế lương thực và đồ ăn uống cho vợ. Phụ nữ quen đẻ đứng và tự xoay sở lấy hết mọi việc. Đẻ xong, người sản phụ tự mình nhóm lửa đốt nóng một hòn đá cuội để sẵn rồi dội nước lã vào cho bốc hơi nóng để xông khói. Sau 7 ngày, người chồng mới đến đón vợ con vào nhà. Ma chay: Nhà giàu làm quan tài bằng thân cây khoét rỗng; nhà nghèo chỉ bó 29
- người chết bằng vỏ cây. Thờ cúng: Tổ tiên được thờ tại nhà tộc trưởng. Khi tộc trưởng chết, việc thờ cúng chuyển sang người em trai kế. Khi nào các thế hệ trên không còn ai thì việc thờ cúng mới chuyển sang cho người ở thế hệ dưới. Tin vào các loại ma rừng ma suối , thổ công, ma bếp trong đó quan trọng nhất là ma làng. Các nghi lễ nông nghiệp thường được thực hiện như lễ xuống giống, lễ gieo hạt, lễ cúng hồn lúa, lễ ăn mừng được mùa. Có thể nói các dân tộc sinh sống quanh vùng đệm và trong khu bảo tồn thiên nhiên VQG Phong Nha – Kẻ Bàng có một nền văn hóa phong phú và đậm đà bản sắc dân tộc. Mỗi dân tộc đều có nét văn hóa đặc sắc riêng của mình song họ vẫn giao lưu và giao thoa văn hóa, học tập, tiếp nhận những mặt tích cực của văn hóa các dân tộc và bên cạnh đó những hủ tục, những phong tục tập quán lạc hậu cũng dần được loại bỏ, tạo nên một nét rất đặc trưng của cư dân nơi đây. 2.2.4 Cơ sở hạ tầng Về giao thông vận tải: Phong Nha – Kẻ Bàng thuộc huyện miền Núi của tỉnh Quảng Bình nằm về phía Tây – Bắc của tỉnh do vậy chỉ thuận lợi về đường bộ nên việc đi lại giao lưu của người dân chủ yếu bằng loại hình đường này còn các loại hình đường khác không phổ biến hoặc không được hình thành. Do vậy mà đây cũng là hạn chế chung của địa hình khu vực trung du miền Núi tỉnh Quảng Bình nói chung và Phong Nha – Kẻ Bàng nói riêng và nó đã ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, mạng lưới giao thông đường bộ ở huyện này cũng khá phát triển và toàn diện. Trục giao thông huyết mạch đó là đường mòn Hồ Chí Minh có vai trò to lớn để giao lưu văn hóa kinh tế - xã hội. Về thông tin liên lạc: Hiện nay hệ thống thông tin liên lạc cũng khá phát triển nếu không nói là toàn diện tất cả các huyện đều có hệ thống bưu điện tận huyện, xã đáp ứng nhu cầu cần thiết về thông tin liên lạc cho người dân. Tại các thị trấn thì mạng điện thoại di động và mạng internet đã được phủ sóng. Mạng lưới bưu chính đầy đủ các dịch vụ như: phát hành báo chí, EMS, chuyển tiền nhanh, điện hoa Dịch vụ 30
- viễn thông quốc tế, liên tỉnh và nội tỉnh có thể liên lạc đi mọi nơi. 2.2.5 Giáo dục Là khu vực vùng cao nên đây không có các trường đại học, cao đẳng nhưng giáo dục phổ biến đến cơ sở ở đây cũng khá phát triển đáp ứng nhu cầu học tập của con em. Đặc biệt là Quảng Bình được xem là vùng đất “Địa linh nhân kiệt” với truyền thống cần cù hiếu học. Nhiều người con của quê hương Quảng Bình nói chung, các huyện trung du miền núi nói riêng đang sinh sống và học tập trên khắp mọi miền của đất nước, không ngừng đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và làm giàu quê hương. Tiểu kết VQG Phong Nha – Kẻ Bàng nằm ở khu vực núi đá vôi rộng lớn thuộc lãnh thổ Việt Nam. VQG bao gồm vùng lõi với 85.754 ha và một vùng đệm rộng trên 200.000 ha. VQG Phong Nha – Kẻ Bàng được thiết lập để bảo vệ một trong hai vùng karst lớn nhất thế giới khoảng 300 hang động và bảo tồn hệ sinh thái Bắc Tường Sơn ở khu vực Bắc Trung Bộ Việt Nam. Đặc trưng của VQG này là các kiến tạo đá vôi, 300 hang động, các sông ngầm và hệ thống động thực vật quý hiếm nằm trong Sách đỏ Việt Nam và Sách đỏ thế giới. Các hang động ở đây có tổng chiều dài khoảng hơn 80 km nhưng các nhà thám hiểm hang động Anh và Việt Nam mới chỉ thám hiểm 20 km, trong đó 17 km ở khu vực Phong Nha và 3 km ở khu vực Kẻ Bàng. 31
- CHƢƠNG 3 TIỀM NĂNG DU LỊCH VÀ THỰC TRẠNG KHAI THÁC DU LỊCH TẠI VQG PHONG NHA- KẺ BÀNG 3.1 Tiềm năng du lịch của VQG Phong Nha – Kẻ Bàng 3.1.1 Tài nguyên du lịch của VQG Phong Nha – Kẻ Bàng Khu Phong Nha - Kẻ Bàng nằm trong vùng sinh thái Bắc Trường Sơn thuộc địa bàn các huyện Quảng Ninh, Bố Trạch, Minh Hoá, được đánh giá là một trong 238 vùng sinh thái quan trọng trên toàn cầu, với các dãy núi đá vôi phát triển hầu như liên tục và tương đối đồng nhất, được đánh giá là vùng Karst rộng nhất thế giới với diện tích trên 200.000 ha, là một mẫu điển hình của quá trình địa chất về thể loại Karst và hình thành hang động đang diễn biến toàn cầu không chỉ ở lĩnh vực đa dạng sinh học mà còn là một khu vực thắng cảnh hang động bậc nhất thế giới. Khu Phong Nha – Kẻ Bàng có một quần thể hơn 300 hang động lớn nhỏ phong phú, kỳ vỹ được mệnh danh là “Vương quốc hang động”, nơi tiềm ẩn nhiều điều kỳ lạ và hấp dẫn, là thiên đường cho các nhà khoa học hang động, các nhà thám hiểm và du lịch. Đến nay, 20 hang động với tổng chiều dài trên 70km đã được đoàn khảo sát Hoàng gia Anh phối hợp với Khoa Địa lý Đại học Quốc gia Hà Nội khảo sát có hệ thống, kỹ lưỡng và được đánh giá là một trong những cảnh quan đẹp nhất với các đặc trưng: có sông ngầm đẹp nhất, có cửa hang cao và rộng nhất, các bãi cát, bãi đá ngầm đẹp nhất, có hồ nước ngầm đẹp nhất, có hang khô rộng và đẹp nhất, có hệ thống thạch nhũ tráng lệ và kỳ ảo nhất, là hang nước dài nhất. Trong các hang thì Phong Nha thực sự nổi bật với chiều dài khảo sát gần 8km, chủ yếu với sông ngầm. Hang Vòm (dài trên 15km) được xếp vào danh sách hang động có sông ngầm dài nhất thế giới. Cùng với hệ thống hang động kỳ diệu, sông Troóc, sông Chày, sông Son trong khu vực Phong Nha – Kẻ Bàng với dòng nước 32
- trong xanh chảy giữa vùng núi đá có rừng tạo nên cảnh đẹp thơ mộng như bức tranh thủy mặc quyến rũ du khách. Rừng nguyên sinh Phong Nha – Kẻ Bàng có hàng chục đỉnh núi cao trên 1.000 m, hiểm trở chưa từng có vết chân người, là các điểm hấp dẫn thể thao leo núi và thám hiểm. Điển hình là các đỉnh Co Rilata cao 1.128 m, Co Preu cao 1.213 m. Xen kẽ giữa các đỉnh núi trên 1.000m là những thung lũng và các đỉnh núi cao từ 800 m đến 1000 m, thích hợp cho du lịch sinh thái và leo núi như Phu Sinh 965 m, Ma Ma 835m. Đặc biệt, đỉnh Mã Tác cao 721m có thung lũng với mặt bằng rộng 70 ha. Trong Vườn Quốc Gia Phong Nha – Kẻ Bàng còn tồn tại một khu rừng nhiệt đới nguyên sinh ít bị tác động với độ che phủ trên 96,2% và có tính đa dạng sinh học cao. Tại vùng này theo số liệu điều tra, bước đầu có nhiều loài thực vật đặc hữu của rừng núi đá vôi như Chò đãi, Chò nước, Trầm hương, Nghiến, Sắng, Ba kích và Sao Thực vật bậc cao có hơn 1.700 loài có mạch. Gần đây, các nhà khoa học phát hiện thêm nhiều loài thực vật quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng cao ngoài tự nhiên như Bách xanh đá, Lan hài đốm, Lan hài xanh, Lan hài xoắn và nhiều loài thực vật quý hiếm khác cũng được ghi nhận. Ngoài tài nguyên thực vật đa dạng, đối với động vật, đã xác định được 140 loài thú lớn, nổi bật nhất là hổ và bò tót, có loài bò rừng lớn nhất Việt Nam; 356 loài chim, có 35 loài được ghi trong Sách đỏ Việt Nam, 19 loài được liệt kê tong Sách đỏ thế giới; 150 loài bò sát và lưỡng cư, trong đó 4 loài bò sát mới được phát hiện như Thằn lằn tai, Tắc kè Phong Nha, Rắn lục Trường Sơn, Rắn mai gầm thanh, có 18 loài được liệt kê trong Sách đỏ Việt Nam và 6 loài dược đưa váo Sách đỏ thế giới, 261 loài bướm, 162 loài cá, trong đó có 4 loài đặc hữu Việt Nam 47 loài ếch nhái. Đặc biệt, rừng trên núi đá vôi là nơi phân bố nhiều loài Linh trưởng nhất Việt Nam, gồm 10 loài được ghi nhận, chiếm khoảng 50% tổng số loài thuộc bộ Linh trưởng ở Việt Nam, 7 loài Linh trưởng thuộc bộ Linh trưởng được liệt kê vào Sách đỏ Việt Nam và 3 loài phụ có tính đặc hữu hẹp ở Việt Nam. So với các khu bảo tồn và Vườn quốc gia khác ở Việt nam thì độ phong phú của các loài động vật ở phong Nha – Kẻ Bàng còn khá cao. Các loài quý hiếm, đặc biệt 33
- Linh trưởng có số lượng cao nhất trong nước. Hiện nay Chính phủ Việt Nam đang lập hồ sơ khoa học Di sản thiên nhiên thế giới Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng để đệ trình UNESCO xem xét tiếp tục công nhận Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng là Di sản thiên nhiên thế giới về tiêu chí da dạng sinh học. Trong những năm qua, Khu du lịch Phong Nha – Kẻ Bàng đã trở thành địa chỉ yêu thích của du khách. Số lượng khách du lịch đến tham quan Phong Nha – Kẻ Bàng ngày càng đông, nhất là từ khi Vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng được UNESCO công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới. VQG Phong Nha - Kẻ Bàng là một trong những khu vực ưu tiên cho bảo tồn đa dạng sinh học cấp quốc gia, quốc tế và khu vực. VQG Phong Nha – Kẻ Bàng có ý nghĩa quan trọng trong bảo tồn hệ sinh thái dãy Trường Sơn, đặc biệt là nằm gần về với khu bảo tồn đa dạng sinh học có diện tích 200.000 ha cho nên toàn bộ khu vực đã hợp thành một diện tích rộng lớn mang ý nghĩa quan trọng trong việc bảo tồn xuyên biên giới. VQG Phong Nha – Kẻ Bàng bao gồm các vùng sinh thái núi thấp và hầu hết các khu vực này đều tạo nên các thung lũng có hệ sinh thái quan trọng với sự đa dạng tổ thành thú lớn do đó đây là khu vực được ưu tiên nhất trong công tác bảo tồn. Hiện tại săn bắn là mối de dọa lớn nhất đến đa dạng sinh học ở Phong Nha – Kẻ Bàng. Săn bắn diễn ra khắp nơi trong VQG, mặc dù vậy phổ biến nhất vẫn là ở những vùng sinh cảnh nằm trong vòng bán kính khoảng một ngày đi bộ. Hầu hết các hoạt động săn bắn nhằm mục đích thương mại với hệ thống đường dây buôn bán động vật hoang dã được thiết lập chặt chẽ. Săn bắn các loài Linh trưởng diễn ra ở mức nguy hiểm đã dẫn đến quần thể của các loài này bị suy giảm mạnh. Ngoài ra, bẫy treo được sử dụng phổ bến do có hiệu quả cao đối với các loài động vật và các loài chim kiếm ăn trên mặt đất. Một số loài thú lớn có thể đang đứng trước nguy cơ tiệt chủng trong vùng do săn bắn quá mức. Phong Nha – Kẻ Bàng hiện không có ý nghĩa đối với bảo tồn Hổ (Panthera tigris), Voi (Elephas maximus) và các loài Bò hoang dã (Timmins et al. 1999). Lực lượng Ban quản lý VQG hiện không đủ mạnh để có thể thực thi hiệu quả 34
- các quy định và pháp luật về quản lý bảo vệ VQG. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến các hoạt động khai thác diễn ra phổ biến trong khu bảo tồn. Buôn bán gỗ trái phép được tổ chức thành các mạng lưới, điều này giải thích tại sao trung bình mỗi ngày có đến hàng trăm mét khối gỗ được khai thác trong vùng. Hoạt động khai thác gỗ tập trung vào một số loài có giá trị thương mại như Mun (Diospyros spp), Gáng Hương (Pterocarpus macrocarpus). Thông tin từ những người đi chặt gỗ cho thấy loài này đang ngày một khan hiếm, chỉ gặp chúng trong rừng sâu địa hình hiểm trở (J. Hardcastle pé. comm). Tỷ lệ mất rừng ở Phong Nha – Kẻ Bàng hiện tại ở mức thấp so với một số vùng khác trong khu vực, và diện tích rừng bị mất được giới hạn ở những nơi dễ tiếp cận thuộc vùng ngoại vi của VQG (Timmins et al. 1999). Tuy nhiên, trong tương lai việc phát triển cơ sở hạ tầng sẽ dẫn đến tỷ lệ mất rừng và sinh cảnh bị tác động trong vùng sẽ càng cao. Hai tuyến đường đã được quy hoạch sẽ chạy sát hoặc cắt ngang VQG. Một trong những tuyến đường trên sẽ gây nên sự tác động đến vùng cư trú của loài Voọc Hà Tĩnh (J. Hardcastle. 2000). Phát tiển du lịch sinh thái cũng là mối đe dọa đến đa dạng sinh học của khu bảo tồn. Công ty du lịch Quảng Bình đang nỗ lực tăng cường khai thác các giá trị tự nhiên của Phong Nha – Kẻ Bàng và số lượng du khách đến thăm ngày một tăng. Các nghiên cứu về du lịch sinh thái của dự án WWF LINC cho thấy bộc lộ những rủi ro tiềm năng của việc phát triển du lịch sinh thái không được kiểm soát của việc mở các tuyến phục vụ cho du lịch và dã ngoại vào rừng. VQG Phong Nha - Kẻ Bàng nằm cạnh Vùng Bảo tồn Đa dạng Sinh học Quốc gia Hin Namno của Lào và được nối với khu này bởi vùng núi đá vôi Kẻ Bàng tại huyện Minh Hóa. Cả ba vùng trên có sinh cảnh núi đá vôi tương tự nhau và việc bảo tồn đa dạng sinh học ở ba vùng trên có liên quan chặt chẽ với nhau. Hợp tác bảo tồn liên quốc gia là một ưu tiên cao cho vùng, chẳng hạn tài nguyên rừng của nước này có thể bị khai thác bởi công dân của nước khác. Kế hoạch giai đạn đầu hướng tới sự hợp tác trên đã được xây dựng bởi dự án WWK LINC. Trong khuôn khổ của kế hoạch dự án, một cuộc họp gữa lãnh đạo các tỉnh có liên quan và giám đốc các khu bảo vệ của hai nước đã được tổ chức trong năm 1998. 35
- Cảnh quan vùng núi đá vôi Phong Nha – Kẻ Bàng hùng vĩ ngoạn mục với hệ thống hang động dài rộng tạo cho khu vực này trở thành một vùng có đặc điểm địa chất nổi bật nhất Việt Nam. Trung tâm của vùng là Động Phong Nha, có dòng sông ngầm chảy qua. Cửa động rộng tới 30m và cao tới 18m, chiều dài của động có thể lên tới 1,5 km (Limber et al 1990). Ngoài ra Động Phong Nha, và 16 hang khác trong khu vực cũng đã được khảo sát với tổng chiều dài lên tới trên 60km (Nguyễn Ngọc Chính et al.eds.1998). Với việc đầu tư nâng cấp đường và những thuận lợi khác cho hoạt động du lịch, hệ thống hang động Phong Nha đang là điểm thu hút khách du lịch ngày một tăng. Hiện tại ước tính trung bình có 700 khách du lịch đến thăm Động Phong Nha mỗi ngày. Diện tích lớn VQG đã được đánh dấu quy hoạch cho phát triển du lịch trong tương lai có thể mang lại những tác động tiêu cực đến hệ sinh thái rừng trên núi đá vôi. Tuy vậy, có thể thấy rõ rằng tiềm năng cho sự phát triển thành công du lịch sinh thái đã mang lại lợi ích nhiều mặt cho VQG và người dân địa phương (J. Hardcastle per.comm). Khu vực Phong Nha - Kẻ Bàng là nơi sinh sống của cộng đồng người Rục và người Arem là các nhánh của dân tộc thiểu số Chứt. Cho đến những năm gần đây, cộng đồng dân tộc này vẫn sinh sống trong hang động và có cuộc sống hoang sơ. Hiện nay họ đã định cư thành các làng bản. Có rất ít thông tin, hiểu biết về tập tục sinh sống của những người dân này. 3.1.2 Các điểm du lịch và tính hấp dẫn của nó 3.1.2.1 Động Phong Nha Giấu mình trong núi đá vôi được che chở bởi những cánh rừng nhiệt đới, Phong Nha giờ đây đã trở nên nổi tiếng bởi sự hào phóng của tạo hóa đã ban tặng cho vùng đất này một hệ thống hang động thật lộng lẫy với con sông ngầm được xác định là dài nhất thế giới. Động nằm ở vùng đá vôi Kẻ Bàng, cách thị xã Đồng Hới 50km về phía Tây Bắc. Từ Đồng Hới, đi ô tô đến xã Sơn Trạch, sau đó đi thuyền trên sông Son, khoảng 30 phút thì đến động. Chỉ cách đây vài năm, đây còn là một con đường đất đỏ, mưa thì 36
- lầy lội, nắng thì bụi bẩn. Nơi mà một thời bom đạn chiến tranh đã không chừa một tấc đất, một nhành cây, một ngọn cỏ. Nhưng giờ đây chính con đường này đã thổi một luồng sinh khí mới cho bộ mặt của cả vùng núi hoang sơ này. Nếu như đấng tạo hóa đã tạo ra con người thì hình như chính tạo hóa lại chở che cho chúng. Trải qua bao cuộc chiến, Động Phong Nha vẫn còn đó, nguyên sơ như hàng triệu năm về trước. Những làng quê yên bình nằm xen kẽ giữa những lùm tre thấp thoáng mái nhà nâu đỏ bên hữu ngạn sông Son. Những O thôn nữ đứng gọi đò bên bến nước, những chiếc thuyền đưa khách ngược xuôi, chào hỏi nhau bằng ngôn ngữ của nhiều vùng làm sống động cả bến sông. Thuyền cập bến cũng là lúc du khách bắt đầu cuộc hành trình khám phá một mê hồn cung giữa chốn đời thường. Động Phong Nha có rất nhiều nhánh với chiều dài lên đến khoảng trên 20km, nhưng hiện nay người ta mới khám phá nhánh dài nhất là một phần của con sông ngầm có tên là Nậm Aki mà sông Son là phần lộ ra mặt đất, nó chui ngầm dưới đất ở vùng núi Pu-Pha-Đam cách đó hơn 20 km về phía Nam. Trước cửa động, cảnh núi non sông nước càng thêm quyến rũ, thiên nhiên hùng vĩ với vô vàn hình ảnh kỳ thú hiện ra như khêu gợi trí tưởng tượng của con người. Người ta đã khéo đặt tên cho cảnh đẹp nơi đây là Động Phong Nha (Động Răng Gió). Tương truyền hơn một trăm năm về trước, vua Hàm Nghi đã ẩn mình ở đây cùng một số cận thần ra chiếu Cần Vương kêu gọi chống Pháp. Cũng trong thời kỳ chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, một đơn vị của Binh đoàn Trường Sơn 559 đã đóng quân ở trong động để làm nhiệm vụ vận tải, thông đường. Vào mùa nước lớn, nước sông Son dâng cao che khuất cửa hang, thuyền du lịch không vào đây được. Cửa động rộng khoảng 30m, cao 18m, có nhũ đá lô nhô. Bơi thuyền qua cửa hang, động rộng như một cái bát úp trên mặt nước. Nước sông trong veo và phẳng lặng như mặt gương, càng vào sâu ánh sáng càng nhạt dần rồi mất hẳn. Xen lẫn với tiếng mái chèo như có tiếng chiêng “bi tùng bi” vẳng lên, người bản địa cho rằng đó là âm nhạc trong tiệc rượu của Thần Núi vọng ra tất cả hợp thành tiếng nhạc, lúc âm u như tiếng chiêng, lúc bập bùng như tiếng trống. Động chính của 37
- động Phong Nha gồm 14 buồng nối liền bởi một hành lang nước dài đến 1.500m. Từ buồng thứ 14 ta có thể theo những hành lang hẹp khác đi vào sâu hơn nữa đến những buồng cũng to rộng không kém nhưng có phần nguy hiểm hơn, nơi mà quá trình phong hóa đá vôi vẫn còn tiếp tục. Thuyền ngược dòng độ 800 m thì đến chỗ cạn gọi là Hang nước cạn: nước biến đi nhường chỗ cho đá cát. Nhũ đá từ trên rủ xuống, măng đá từ dưới nhô lên tua tủa như cây rừng với những hình dáng kỳ lạ kích thích trí tưởng tượng. Phong Nha không giống như những điểm du lịch khác ở Việt Nam, động nằm trong khu rừng nguyên sinh Kẻ Bàng dường như còn nguyên sơ và tinh khôi. Trong con mắt của các vị khách du lịch, những cư dân nơi đây mang một phong cách rất riêng. Họ cư xử thân thiện và tình cảm mang tính cách của người nông dân thuần khiết hơn là nhìn nhận du khách như là một cơ hội để tìm kiếm một nguồn tài chính. Điều này càng làm cho Phong Nha thêm hấp dẫn khách du lịch. Tháng 4 – 1997, một hội thảo khoa học về di tích danh thắng Phong Nha – Xuân Sơn được tổ chức tại Quảng Bình. Kết quả nghiên cứu khảo sát cho biết Phong Nha có 7 cái nhất: 1.Hang nước dài nhất 2.Cửa hang cao và rộng nhất 3.Bãi cát và đá rộng đẹp nhất 4.Hồ ngầm đẹp nhất 5.Thạch nhũ tráng lệ và kỳ ảo nhất 6.Dòng sông ngầm dài nhất (13.969m) 7.Hang khô rộng và đẹp nhất. 3.1.2.2 Động Tiên Sơn Trong Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng nổi tiếng này, ngoài động nước Phong Nha tuyệt đẹp, được mệnh danh là Phong Nha đệ nhất kỳ quan hay Phong Nha đệ nhất thắng cảnh, còn có động khô Tiên Sơn nằm lưng chừng núi, chếch về phía Tây trên trần động Phong Nha, được mệnh danh là Tiên Sơn chốn bồng lai tiên cảnh hay Tiên Sơn chốn tiên cung. 38
- Động Tiên sơn hay động khô là một động đẹp nổi tiếng ở khu vực Phong Nha – Kẻ Bàng. Cửa vào động Tiên Sơn nằm cách cửa động Phong Nha khoảng 1.000 m, ở độ cao so với mực nước biển khoảng 200 m. Động Tiên Sơn có chiều dài 980 m. Từ cửa động đi vào khoảng 400 m có một vực sâu chừng 10 m, và sau đó là động đá ngầm tiếp tục dài gần 500 m, khá nguy hiểm nên du khách chưa được phép đến khu vực này mà chỉ tham quan tới khoảng cách 400 m tính từ cửa động. Động này được phát hiện năm 1935, ban đầu, cư dân địa phương gọi động này là động Tiên do vẻ đẹp kỳ bí thần tiên cửa nó. Sau này động Tiên Sơn được gọi là động Khô để phân biệt với động Phong Nha là động nước. Động Tiên Sơn là nơi có cảnh thạch nhũ và măng đá kỳ vĩ huyền ảo như trong động Phong Nha nhưng lại có nét riêng là các âm thanh phát ra từ phiến đá và cột đá khi được gõ vào vang vọng như tiếng cồng chiêng và tiếng trống. Theo các nhà khoa học thuộc Hội hang động Hoàng gia Anh, động Tiên Sơn được hình thành cách đây hàng chục triệu năm, khi một dòng nước chảy qua quả núi đá vôi đục rỗng, bào mòn núi đá vôi Kẻ Bàng. Sau đó, do kiến tạo địa chất khối núi này hoặc đã được nâng lên, hoặc đã bị hạ xuống khiến các khối đá đổ sụp ngăn chặn dòng chảy làm nên động Tiên Sơn ở phía trên. Còn có phần sông ngầm chảy qua tạo ra hang động Phong Nha. Dù động Phong Nha và động Tiên Sơn nằm liền kề nhau nhưng giữa hang động này lại không thông nhau. Cư dân địa phương đã nhặt được một số hiện vật có thể là di chỉ của người xưa ở trên bãi đất bằng phẳng trước cửa. Gọi Tiên Sơn là động khô vì nó không ăn thông với Phong Nha, mà treo ở độ cao 200 mét trên trần động Phong Nha. Động Tiên Sơn là cặp song sinh với động Phong Nha, cũng là tuyệt tác của thạch nhũ. Nếu Phong Nha đẹp như thủy cung của vua Thủy Tề thì Tiên Sơn đẹp như tiên giới của Ngọc Hoàng thượng đế và động Tiên Sơn này đã gắn liền với một truyền thuyết mà không phải mấy ai cũng biết đến. Đó là câu chuyện về tình yêu giữa người con trai dũng cảm của trần gian với nàng tiên giữ thanh bảo kiếm của nhà Trời. Chàng trai đã một phen liều mình vượt núi cao vực thẳm đi tìm các tiên nữ để mượn bảo kiếm về trừ diệt loài thủy quái đang làm hại dân lành. Thừa lúc các nàng tiên bỏ xiêm y trên bờ để xuống suối tắm, chàng lén lấy được bảo kiếm, nhờ đó diệt được yêu quái trừ hại cho dân. Khi trở lại nơi ở của 39
- các tiên nữ để trả kiếm thiêng, thấy tiên nữ nọ ngồi khóc mà không dám bay về Trời vì tội để mất kiếm, chàng trai đã thổ lộ hết sự tình. Nghe xong, nàng tiên cảm phục mà đem lòng yêu chàng, thạch động này từ đó trở thành nơi hò hẹn của hai người. Thiên đình biết chuyện, bèn triệu tiên nữ về Trời để trừng phạt. Từ khi về Trời tiên nữ ngày đêm u buồn sâu thẳm vì nhớ chàng trai, còn chàng trai cũng đêm ngày khắc khoải mong gặp tiên nữ. tình cảm của họ đã làm động lòng Trời, Ngọc Hoàng bèn sai các vị tiên tạo ra cho thạch động nơi đây có vẻ đẹp giống như thiên đình và cho phép tiên nữ xuống trần kết duyên với chàng trai, mang theo cả bảo kiếm để hai người chăm lo cuộc sống muôn dân. Cho nên nói Tiên Sơn đẹp như tiên giới là vậy. Phong Nha và Tiên Sơn là một cặp động song sinh, một chỉnh thể thống nhất của tạo hóa ban tặng. Chính vì sự kỳ vĩ của Tiên Sơn lại làm cho du khách ngỡ ngàng bối rối bởi không biết so sánh động nào đẹp hơn. 3.1.2.3 Dòng sông Son Tại trung tâm đón tiếp khách du lịch của di tích Phong Nha – Kẻ Bàng, du khách xuống thuyền máy đi theo sông Son vào động Phong Nha. Sông Son rộng khoảng 35 – 40 mét, nước xanh ngắt trong thấu đáy, nhìn rõ cả những đàn cá đang bơi. Nước thì xanh như màu xanh đồng, nhưng lại gọi là sông Son vì vào mùa mưa, nước bào mòn đất đá ở các triền núi đổ xuống làm cho nước sông đỏ như màu gạch son. Sông Son chảy từ động Phong Nha và nối vào sông Gianh. Dòng sông Son thơ mộng uốn lượn quanh những dãy núi đá vôi Kẻ Bàng làm tô điểm thêm nét độc đáo mỗi khi du khách đến thăm Di sản Động Phong Nha và sông Son gắn với bao huyền thoại nhưng huyền thoại về sự chung thủy trong tình yêu luôn để lại nhiều kỷ niệm trong lòng du khách. Thủa ấy ở vùng rừng núi trùng điệp này có một ông lão làm nghề săn bắn chỉ sinh được một cô con gái. Vừa độ trăng tròn cô đã là một tuyệt sắc giai nhân và có tài thổi sáo. Mỗi khi tiếng sáo cất lên khiến vạn vật như im lặng để lắng nghe. Có rất nhiều chàng trai tuấn tú tài hoa giàu có đến hỏi cưới nàng nhưng đều bị nàng từ chối vì nàng đã có chồng sắp cưới. Đó là con trai của Ngọc Hoàng. Chuyện kể rằng vào một đêm hè cô gái ngồi thổi sáo ở trên một mô đá nhô ra 40
- giữa con suối bỗng nhiên có ngôi sao băng rạch một đường sáng xuất hiện một chàng trai tuấn tú dũng mãnh cưỡi con tuấn mã kiêu hùng. Chàng trai ngỏ lời cầu hôn và cô gái đã đồng ý. Hai người đang dạo chơi thì phụ mẫu chàng trai gọi về Ngọc Điện. Trước khi ra về chàng trai trao cho cô một chiếc nhẫn và nói nếu có chuyện nguy cấp đe dọa đến tính mạng thì hãy nhìn vào mặt nhẫn gọi lên ba tiếng “Về với em” thì chàng trai sẽ đến cứu nàng. Trong thời gian chàng trai về Ngọc Điện thì cô gái ở nhà đã bị một tên lãnh chúa sau nhiều lần cầu hôn không được đã bắt cóc cô về làm vợ. Hắn giam cô ở tầng cao nhất trong tòa lâu đài của hắn và xin cô trao tình yêu nhưng cô không cho vì cô đã có chồng sắp cưới. Trong tình thế nguy nan cô nhớ ra chiếc nhẫn thì không tìm thấy đâu để giữ trọn tình yêu chung thủy với chồng sắp cưới cô đã không tiếc thân mình nhào mình ra cửa sổ, bay như con thiên nga xuống lòng hồ. Ngay lập tức tòa lâu đài đã bị nhấn chìm, sức nước đột phá bờ hồ thành một dòng chảy thông ra biển. Dòng nước chảy đến đâu thì ở đó ít lâu sau mọc lên những làng quê trù phú. Có một vị đạo sĩ trên đường đi tìm thuốc “Trường sinh bất lão” đã dừng lại nơi này một thời gian vì mến cảnh sinh tình. Nghe được câu chuyện này vì cảm động trước tấm lòng “Son sắt thủy chung” của cô gái với người mình yêu nên vị đạo sĩ bèn đặt tên cho dòng sông này là sông Son. Nhưng có một câu chuyện ly kỳ khác, có lẽ ra đời từ thời khai thiên lập địa, cũng giải thích về tên của dòng sông Son. Chuyện kể ngày xưa, có vị tiên sư đại pháp người Trời thường xuống du ngoạn cảnh hạ giới thấy yêu mến nơi này bèn ở lại rồi dạy dân cách làm ăn. Một năm kia xảy ra đại hạn, muôn vật khô héo; để cứu dân, vị tiên sư đại pháp lén về trời khơi trộm nguồn nước từ thiên cung chảy xuống nơi là dòng sông Son bây giờ. Dòng nước tươi mát cỏ cây, cứu sống muôn loài nhưng vị đại sư bị triệu về Trời chịu hình phạt. Dân làng cảm kích tấm lòng son của vị đại sư nên đặt tên cho sông này là sông Son. 3.1.2.4 Bến phà Xuân Sơn Khách thập phương đến tham quan Di sản thiên nhiên thế giới Phong Nha – Kẻ Bàng ở Quảng Bình, ai cũng trầm trồ thán phục phong cảnh non xanh nước biếc và 41
- hang động kỳ vĩ của xứ sở đẹp tựa thần tiên. Ngồi trên du thuyền vào cửa động, nhìn về bờ Nam sông Son, nếu để ý thì sẽ thấy một bến phà cũ, tuy cây cối rậm rạp nhưng vẫn trông rõ dòng chữ khắc trên vách đá: “Bến phà Nguyễn Văn Trỗi”. Đây chính là bến B của phà Xuân Sơn, được vinh dự mang tên người anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi, cũng là nơi đã in dấu giày của hàng vạn chiến sĩ vào Nam ra Bắc thời đánh Mỹ. Gần vị trí cầu Xuân Sơn trên đường Hồ Chí Minh hiện nay là bến phà Xuân Sơn, Một địa danh bị đánh phá ác liệt được ví như “túi bom” của vùng chảo lửa. Năm 1966, do yêu cầu chi viện cho chiến trường miền Nam, cùng với việc mở đường 20 Quyết Thắng nối Đông – Tây Trường Sơn, phà Xuân Sơn trọng tải 18 tấn do ty Giao thông Quảng Bình phụ trách. Đến tháng 12-1966 thì đại đội 16 của Binh trạm 14 thuộc Đoàn 559 đảm nhiệm bến phà này. Đại đội có 125 người, lực lượng chủ yếu là bộ đội công binh và thanh niên xung phong, phương tiện gồm ca nô và cầu phao, chủ yếu hoạt động từ 7 giờ tối hôm trước đến 4 giờ sáng hôm sau. Ban ngày tránh máy bay địch, tháo dỡ phà cho ca nô kéo máy vào trú ẩn trong động Phong Nha. Vũ khí đạn dược có khi cũng tập kết cất giữ luôn trong đó. Nhận thấy phà Xuân Sơn trên quốc lộ 1A có vị trí chiến lược quan trọng, giặc Mỹ đã tập trung đánh phá rất ác liệt cả ngày lẫn đêm nhằm nung chảy cái yết hầu của vùng “cán xoong”, hòng cắt đứt mạch máu giao thông của ta. Bao đồng đội đã hy sinh, bao chuyến hàng đã bị cháy nhưng ý chí của cán bộ, chiến sĩ Đại đội 16 vẫn vững vàng. Năm 1967, Binh trạm quyết định mở thêm bến phà B mang tên Nguyễn Văn Trỗi, nhằm noi theo tấm gương anh hùng bất khuất trước kẻ thù của anh. Đảng ủy,Chi bộ lựa chọn những người ưu tú, gan dạ và dũng cảm, dám hy sinh để trực tiếp và chiến đấu trên bến phà này. Bến phà B cách bến phà A chừng 4km về phía thượng. Không quân Mỹ tìm mọi cách để ném bom hủy diệt bến phà A và B. Riêng tại bến phà Nguyễn Văn Trỗi, ngoài bom tấn bom tạ chúng còn thả nhiều thủy lô cùng các loại bom nổ chậm tinh vi và nguy hiểm khác. Đơn vị thành lập “Đội cảm tử” thường xuyên rà phá bom nổ chậm để thông phà, thông xe. Không ít đồng chí đã anh 42
- dũng hy sinh trên khúc sông này, máu của các chiến sĩ Đại đội 16 hòa vào dòng sông Son đỏ thắm. Du khách đã vào tham quan “Phong Nha đệ nhất động” một lần hoặc nhiều lần, được thưởng ngoạn bao kỳ quan do thiên nhiên ban tặng, xin hãy một lần dừng chân ngắm bến phà B. Đây chính là kỳ quan được tạc bằng trí thông minh, óc sáng tạo, lòng dũng cảm của chiến sĩ và bằng sương máu của biết bao đồng đội đã ngã xuống vì huyết mạch giao thông, vì miền Nam ruột thịt. 40 năm đã trôi qua, cảnh vật còn đó, bến phà còn đây, dòng sông Son bình dị vẫn đong đầy bao kỷ niệm khó quên. Không những Di sản thên nhiên thế giới, Phong Nha còn chứa đựng trong đó bao huyền thoại lịch sử mà ta chưa khám phá hết. 3.2.1.5 Thung lũng sinh tồn Thung lũng Sinh Tồn thuộc địa phận Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng tỉnh Quảng Bình, cách động Phong Nha 15km về hướng tây nam là một thung lũng khá bằng phẳng, mọc đầy cỏ tranh và tre nứa, nơi đa dạng về sinh học và sinh thái nhân văn. Thung lũng Sinh Tồn có tên địa phương là thung Tre bởi ở đây mọc rất nhiều tre, nứa. Thung lũng được bao quanh bởi hệ thống núi đá vôi hùng vĩ. Với diện tích chỉ 2000 ha, nhưng nơi đây hội tụ nhiều dạng địa hình, từ núi đá vôi, địa hình phi karst (karst là hiện tượng phong hóa đặc trưng của những miền núi đá vôi bị nước chảy xói mòn), đất bằng, hang động đến suối ngầm, rừng nguyên sinh. Đây là nơi có địa chất, địa mạo và hệ động, thực vật được thiên nhiên bảo tồn một cách hoàn hảo. Với những giá trị to lớn như vậy, thung lũng Sinh Tồn thực sự trở thành Bảo tàng sống của Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng. Đến với thung lũng Sinh Tồn, du khách được khám phá vương quốc của các loài chim. Rất nhiều loài chim quý hiếm có tên trong sách Đỏ của Việt Nam và thế giới như gà lôi lam, niệc hung, hồng hoàng Ngoài ra, thung lũng này còn có nhiều loài thực vật quý hiếm như quần thể cây dầu rái đã được Trung tâm nghiên cứu khoa học 43
- và Cứu hộ Phong Nha -Kẻ Bàng phát hiện vào năm 2008; các loài nấm đặc biệt là nấm mối - một loại thức ăn rất ngon và bổ dưỡng. Với tiềm năng đa dạng sinh học và cảnh quan môi trường trong lành, thung lũng Sinh Tồn thích hợp để khai thác và phát triển loại hình du lịch sinh thái, khám phá thiên nhiên kết hợp với nghỉ dưỡng. 3.1.2.6 Khu tái hòa nhập Linh trƣởng Phong Nha-Kẻ Bàng là nơi có cộng đồng linh trưởng phong phú bậc nhất Đông Nam Á Khu này có diện tích 20 ha được bao bọc bởi hàng rào bằng lưới là nơi nuôi giữ linh trưởng trong môi trường bán hoang dã có rừng nguyên sinh. Khu nuôi thả linh trưởng là khu sinh thái, nghiên cứu khoa học, tuyên truyền nâng cao nhận thức cho nhân dân trong việc bảo vệ động vật quý hiếm. 3.1.2.7 Hang Tám cô Hang Tám cô nằm ở Km 16+500 trên đường 20 - Quyết Thắng, Quảng Bình. Nơi đây ngày 14/11/1972 bom B52 của gặc Mỹ đã giải thảm nhằm phá vỡ tuyến giao thông huyết mạch chi viện cho miền Nam. 13 chiến sĩ có 5 là bộ đội và 8 Thanh niên xung phong (trong đó có 4 nữ) đóng chốt giữ vững tuyến đường trên, ẩn nấp trong một hang gần đó. Bom nổ rung chuyển đất trời. Một tảng đá lớn như trái núi nhỏ lấp cửa hang. Đồng đội của các chiến sĩ đã tìm mọi cách phá đá, cứu người nhưng không có kết quả. Các chiến sĩ đã hy sinh. Để ghi nhớ sự hy sinh anh dũng đó, nhân dân gọi đó là hang Tám cô. Hiện nay ở đây đã có bia tưởng niệm. 3.1.2.8 Suối nƣớc Moọc Các cột nước mọc lên từ sâu trong lòng đất khiến suối nước này được người dân địa phương gọi là "Nước Moọc". Hàng chục dòng suối nhỏ trong vắt đan hòa vào 44
- nhau giữa khu rừng nguyên sinh xanh mát của Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng vẽ nên cảnh quan tuyệt thú. Bảy cây cầu gỗ bắc ngang qua các dòng suối do Tổ chức Hợp tác kỹ thuật Đức (GTZ) xây dựng vào giữa năm 2008. Từ đó khu vực suối Nước Moọc đã trở thành điểm du lịch sinh thái dài gần 2km. 3.1.3 Các loại hình du lịch VQG Phong Nha – Kẻ Bàng với đặc thù là khu bảo tồn thiên nhiên do vậy tại vườn có thể phát triển các loại hình du lịch sau: + Du lịch tham quan, khám phá hang động bằng xuồng. + Du lịch sinh thái, khám phá hệ động thực vật. + Du lịch leo núi mạo hiểm. + Du lịch tìm hiểu văn hóa lịch sử. + Du lịch tham gia vào các hoạt động vui chơi giải trí, cắm trại. 3.1.4 Các tour du lịch Việc hình thành các điểm du lịch là điều kiện để hình thành các tour du lịch. Hiện nay tại VQG Phong Nha – Kẻ Bàng đã hình thành các tour du lịch: Đường tới Phong Nha – Kẻ Bàng: Đường bộ : Từ Hà Nội chạy dọc Quốc lộ 1A về phía Nam, từ thị trấn Hoàn Lão đi thẳng theo hướng Tây 30 km. Tàu hỏa : Rời ga Đồng Hới và đi khoảng 45 km theo đường Hồ Chí Minh Các tour du lịch : 1. Tour tham quan hang động : Thời gian từ 3 -4 giờ Lộ trình : Từ trung tâm du lịch Văn hoá và sinh thái ở Phong Nha đi thuyền ngược dòng sông Son tới động Phong Nha và động Tiên Sơn, tận hưởng cảnh quan núi đá vôi ngoạn mục và hệ thống sông ngầm dài nhất thế giới. Phương tiện : thuyền 2. Tour du lịch sinh thái – lịch sử 45
- Thời gian : 5 – 6 giờ, 60 km Lộ trình : Bắt đầu từ trung tâm du lịch Văn hóa và Sinh thái, thăm bến phà Xuân Sơn, lái xe dọc đường 20 Quyết Thắng, dừng chân ở khu tái hòa nhập Linh trưởng. Tận hưởng cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp Thác Gió, thăm khu tưởng niệm Tám Thanh Niên Xung phong. Tiếp tục hành trình tới suối nước Moọc. Phương tiện : Xe ô tô hoặc xe máy. Tour du lịch mạo hiểm Thời gian : 1 ngày; phương tiện : xe đạp địa hình + đi bộ Lộ trình: Tuyến đường 20 - cây gùa đường kính 5m - thung lũng Sinh Tồn là tuyến chinh phục dãy núi đá cao trên 300m, với địa hình hiểm trở phát triển trên núi đá vôi và xuyên rừng rậm hoang dã. Những vách núi đá vôi ở đây có độ dốc trên 45 độ. Muốn vượt qua vách núi cheo leo hiểm trở này, du khách phải chịu được áp lực của độ cao trên sườn núi đá vôi sắc nhọn. Lên tới đỉnh sẽ tiếp cận bề mặt đỉnh với những cánh rừng nhiệt đới hoang sơ rậm rạp. Ngay trên đỉnh núi có một cây gùa gốc đường kính tới 12 người ôm mới xuể (to 5m). Sau khi ngắm rừng núi thỏa thích từ độ cao trên 300m, khách du lịch sẽ đi xuyên rừng hơn 4km để khám phá vẻ đẹp hoang sơ và tiếp tục thử thách mình trên địa hình núi đá vôi hiểm trở, sắc nhọn và những vách đá cheo leo. Qua hết đoạn đường núi đá sẽ tới thung lũng Sinh Tồn. 4.Tour du lịch nghỉ tại nhà dân Thời gian: 1 -3 ngày trong ngôi làng nhỏ, thuộc vùng đệm của Vườn quốc gia. Trải nghiệm cuộc sống hàng ngày của những người dân bằng cách sống trong ngôi nhà của họ làm việc với họ trong vườn, ngoài đồng và vui chơi với những đứa trẻ hiếu kỳ. Đây thực sự là một trải nghiệm ấm áp tình người. 3.1.5 Tổ chức quản lý du lịch của VQG Phong Nha – Kẻ Bàng Ngày 28 tháng 11 năm 2003 Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình ra Quyết định số 65/2003/QĐ-UB về việc tổ chức lại bộ máy Ban quản lý Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng. Ban quản lý Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng có chức năng và nhiệm vụ trọng tâm sau : 46
- - Quản lý, bảo vệ, xây dựng và khai thác khu Vườn quốc gia theo Luật Di sản văn hóa và theo "Quy chế quản lý rừng" được Thủ tướng Chính phủ ban hành tại Quyết định số 186/2006/QĐ-TTg ngày 14 tháng 8 năm 2006. - Tổ chức bán vé, thu phí trong khu vực Vườn; quản lý và sử dụng phí theo quy định của Trung ương và của tỉnh. - Tổ chức hướng dẫn các hoạt động du lịch văn hóa, sinh thái; các hoạt động bảo tồn môi trường, bảo vệ đa dạng sinh học và cảnh quan. - Quản lý tài sản, tài chính và cán bộ, viên chức theo phân cấp của UBND tỉnh. Sơ đồ cơ cấu tổ chức Ban quản lý VQG Phong Nha – Kẻ Bàng Gám đốc VQG Phong Nha Kẻ Bàng Phòng Phòng Trung Trung Hạt Hành Kế tâm tâm phát kiểm chính- hoạch – Nghiên triển du lâm Tổ chức Tài cứu lịch chính Khoa học – Cứu hộ 1. Phòng hành chính - Tổ chức Tham mưu công tác tổ chức, cán bộ, lao động tiền lương, hành chính, quản trị, tổng hợp. 2. Phòng kế hoạch – Tài chính Tham mưu xây dựng kế hoạch hoạt động của Vườn quốc gia, thực hiện công tác quản lý, sử dụng tài chính, tài sản. 47
- 3. Trung tâm nghiên cứu Khoa học và Cứu hộ Chức năng: Nghiên cứu khoa học – kỹ thuật; Cứu hộ động, thực vật hoang dã; Giáo dục môi trường. Nhiệm vụ: Lập đề án nghiên cứu khoa học hàng năm và dài hạn về đa dạng sinh học, kinh tế xã hội, địa chất, du lịch sinh thái trình Giám đốc VQG và các cấp có thẩm quyền phê duyệt. Theo dõi đánh giá tình hình diễn biến tài nguyên rừng, kinh tế xã hội vùng đệm và các tác động lên VQG; đề xuất các giải pháp thích hợp cho việc quản lý bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên trình Giám đốc VQG - Nghiên cứu, xây dựng quy trình cứu hộ và phát triển các loài động thực vật hoang dã. Lập kế hoạch tổ chức thực hiện cứu hộ các loài động thực vật được các cơ quan chức năng bàn giao. 4. Trung tâm phát triển Du lịch Chức năng: - Tổ chức các hoạt động dịch vụ du lịch văn hóa và sinh thái trong VQG. - Thực hiện tư vấn, hướng dẫn và giám sát các cá nhân, tổ chức thực hiện hoạt động du lịch, kinh doanh buôn bán trong phạm vi đơn vị quản lý. Nhiệm vụ: - Tổ chức các hoạt động đưa, đón, hướng dẫn du khách tham quan. Thông qua các hoạt động du lịch để tuyên truyền, quảng bá các giá trị của Di sản cho du khách. - Tổ chức bán vé, thu phí và lệ phí tham quan trong khu vực quản lý của VQG. Quản lý, sử dụng nguồn thu theo đúng các quy định quản lý tài chính của nhà nước. - Tổ chức khai thác các dịch vụ khác để phục vụ, thu hút du khách tham quan 5. Hạt kiểm lâm Chức năng: Quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, quản lý lâm sản trong phạm vi hoạt động được phân công, tham mưu, giúp Ban quản lý VQG về quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Nhiệm vụ: - Tổ chức bảo vệ tài nguyên rừng, chống chặt phá rừng; phòng cháy, chữa cháy 48
- rừng, phòng, trừ sâu bệnh hại rừng trong VQG. - Kiểm tra, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về rừng theo quy định của pháp luật. 3.2 Thực trạng hoạt động DLBV tại VQG Phong Nha - Kẻ Bàng 3.2.1 Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch, dịch vụ du lịch tại VQG 3.2.1.1 Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch Quảng Bình được nhắc đến nhiều bởi có Di sản thiên nhiên thế giới Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng. Chưa kể, tháng 4 năm 2009, đoàn thám hiểm hang động Hoàng gia Anh công bố việc phát hiện, khám phá một phần hang vòm lớn nhất thế giới được đặt tên là Sơn Đoòng ở VQG Phong Nha – Kẻ Bàng. Theo thống kê trong 3 năm liền: 2004, 2005, 2006 sau khi được UNESCO công nhận, lượng du khách đến tham quan VQG Phong Nha – Kẻ Bàng đã gia tăng nhanh chóng. Sân bay Đồng Hới đã được xây dựng và đưa vào hoạt động từ ngày 18/5/2008 để đáp ứng nhu cầu khách du lịch, với tuyến bay nối với sân bay quốc tế Nội Bài ở Hà Nội từ ngày 01/9/2008 và sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất ở thành phố Hồ Chí Minh từ ngày 01/7/2009. Việc Phong Nha – Kẻ Bàng được công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới như một cách quảng cáo tự nhiên, là một động lực cho phát triển du lịch, đặc biệt là thu hút khách du lịch quốc tế. Tỉnh Quảng Bình cũng đã cấp phép cho một số dự án du lịch lớn như: khu biệt thự nghỉ dưỡng sông Son, khu nghỉ mát Đá Nhảy, khu nghỉ mát 4 sao Sun Spa để tăng chất lượng phục vụ khách du lịch. Phong Nha – Kẻ Bàng cùng với các Di sản thế giới khác tại miền Trung như : Cố đô Huế, Phố cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn, Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên, cũng là một tuyến điểm quan trọng trong chương trình quốc gia về du lịch mang tên Con đường Di sản miền Trung do Tổng cục Du lịch khởi xướng và phát động. Tuy nhiên do công tác quảng bá, cung ứng dịch vụ, tiện ích cho khách du lịch đến thăm Vườn quốc gia này còn yếu kém nên khách đến tham quan Phong Nha – Kẻ Bàng bắt đầu chững lại và giảm dần, chủ yếu là khách nội địa, trong đó lượng khách đến lần thứ hai chỉ chiếm 10%. Việc bố trí đèn chiếu sáng trong các hang động vẫn chưa được thực hiện một 49
- cách khoa học, không làm nổi bật nét đẹp huyền ảo tự nhiên của thạch nhũ. Bên trong hang động vẫn chưa bố trí hợp lý nhà vệ sinh dành cho du khách tham quan. Các dịch vụ khác đi kèm ở Vườn quốc gia cũng như vùng phụ cận hầu như không có, chưa có sự đầu tư lớn trong quảng bá, các hoạt động đơn điệu chủ yếu là bán vé tham quan. Trong khi theo các nhà tư vấn du lịch, rất nhiều dịch vụ khác có thể khai thác như cáp treo, trượt nước, bơi thuyền 3.2.1.2 Hiện trạng khai thác cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch Hệ thống các cơ sở lƣu trú Cơ sở hạ tầng hiện có của khu trung tâm VQG gồm 40 phòng khép kín, có thể phục vụ cho 80 – 90 khách nghỉ, một nhà hàng phục vụ cho 100 – 200 người ăn; Hội trường đào tạo phục vụ 60 – 80 người. Ngoài ra Vườn có hệ thống nhà nghỉ, khách sạn, nhà hàng của doanh nghiệp tư nhân xây dựng nhằm khai thác có hiệu quả cao trong hoạt động du lịch của địa phương. Dọc theo tuyến đường đi vào khu du lịch VQG Phong Nha – Kẻ Bàng hệ thống nhà nghỉ, khách sạn được mọc lên có quy mô lớn nhằm phục vụ cho khách du lịch hài lòng khi đến với Phong Nha – Kẻ Bàng, hệ thống sân bãi chơi thể thao, sân khấu phục vụ cho các buổi giao lưu. Quanh vùng đệm đã có một số nhà nghỉ. Tuy nhiên nhà nghỉ ở đây còn thô sơ, chất lượng phục vụ, dịch vụ chưa cao. Hệ thống các nhà hàng Trong bất kỳ một chuyến du lịch nào thì ngoài việc để lưu trú thì ăn uống cũng là một nhân tố quan trọng không thể thiếu. Hoạt động du lịch sinh thái lại càng có yêu cầu cao trong ẩm thực, du khách muốn thưởng thức những món ăn truyền thống đậm đà hương vị thiên nhiên và văn hóa địa phương. Do vậy mà hầu hết các cơ sở lưu trú của Vườn đều có những món ăn được chế biến từ những sản phẩm của người dân vừa làm nông nghiệp vừa làm ngư nghiệp bên sông, suối; món nộm hoa chuối rừng, măng luộc, được hái từ những trại rừng, những hoa quả đặc trưng do người dân nơi đây trồng được và những món ăn đặc trưng của vùng miền đó là món Cháo Hàu (Quảng Ninh), Cháo Canh (Ba Đồn), Bánh Đúc, Bánh Xèo (Quảng Hòa, Quảng Trạch) Tuy nhiên số lượng nhà hàng lớn còn quá ít, các 50
- món ăn đặc trưng của vùng miền chưa được chú ý nhiều để giới thiệu đặc sản cho du khách. Hơn nữa nhà ăn của khu trung tâm chỉ đáp ứng phục vụ cho các cuộc hội nghị, tập huấn hội họp với số lượng lớn hoặc các đoàn khách nghỉ đông. Các đoàn khách đến ít, hoặc khách báo ăn muộn đều không được phục vụ, rất ít dịch vụ ăn sáng. Nhìn chung hệ thống các nhà hàng ở VQG Phong Nha – Kẻ Bàng và quanh vùng còn rất nhỏ chưa đáp ứng nhu cầu của khách du lịch. Các phƣơng tiện vận chuyển Các phương tiện vận chuyển tham quan như: thuyền là của người dân, qua đó khoảng 1.000 người dân khu vực Xuân Sơn đã sống bằng nghề du lịch (dịch vụ thuyền tham quan, hướng dẫn viên, nhiếp ảnh ). Khu vực VQG Phong Nha – Kẻ Bàng hiện có 248 thuyền, tạo việc làm cho 500 cư dân địa phương, với mỗi thuyền bao gồm 2 người được huấn luyện các kỹ năng an toàn và hướng dẫn du khách và có thu nhập khoảng 70.000 đồng mỗi ngày. Giá vé vào động Phong Nha 30.000 đồng, động Tiên Sơn 20.000 đồng, vé thuê thuyền cả tuyến đi về cho đoàn từ 1 – 14 người là 150.000 đồng. 3.2.1.4 Hiện trạng khách du lịch VQG Phong Nha – Kẻ Bàng đã được vinh dự đón nhiều đoàn khách lớn là các lãnh đạo nguyên thủ của Đảng, Nhà nước, các chuyên gia nghiên cứu địa chất địa mạo trên thế giới, qua các lần phục vụ được đánh giá khá tốt. Đặc biệt là lễ công bố các khám phá mang giá trị tầm vóc trên thế giới như khám phá các hang động đẹp chỉ có duy nhất tại Phong Nha – Kẻ Bàng và các loại động thực vật quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng trên thế giới xuất hiện tại VQG Phong Nha – Kẻ Bàng đã góp phần quảng cáo VQG Phong Nha – Kẻ Bàng là một trong những điểm tham quan chính của du lịch Quảng Bình. Bên cạnh đó thông qua các phương tiện thông tin đại chúng hình ảnh của VQG Phong Nha – Kẻ Bàng được quảng bá rất nhiều. Khách du lịch muốn đến VQG Phong Nha – Kẻ Bàng để hòa mình vào tiểu vũ trụ màu xanh, một nơi yên tĩnh. Chính vì vậy, lượng khách du lịch hàng năm đã tăng lên khá nhanh nhất là hai năm gần đây và dự kiến trong các năm tiếp theo sẽ không giảm mà lại có xu hướng tăng đều. Hiện nay khách du lịch đến VQG Phong Nha – Kẻ Bàng đa phần là đến 51
- tham quan thắng cảnh, các điểm du lịch đã có từ lâu. Còn các điểm du lịch mới ở dạng tiềm năng chưa được khai thác đúng mức. Các điểm du lịch ở đây chủ yếu hoạt động theo mùa vụ và tính mùa vụ ảnh hưởng nhiều đến lượng khách du lịch tham quan. Bảng 1: Lƣợng khách du lịch đến VQG Phong Nha Kẻ Bàng qua một số năm Đơn vị tính : lượt khách Năm 2007 2008 2009 % Tổng Số khách % Tổng % Tổng Chỉ tiêu Số khách Số khách số khách số khách số khách Tổng số 240.500 100 262.265 100 311.630 100 khách Nội địa 230.158 95,7 250.919 95,7 297.682 95,5 Quốc tế 10.342 4,3 11.346 4,3 13.948 4,5 (Nguồn : Số liệu thống kê của Trung tâm phát triển DL, VQG Phong Nha Kẻ Bàng) 52
- Biểu đồ : So sánh số lƣợng khách đến thăm VQG Phong Nha Kẻ Bàng qua một số năm Đơn vị : lượt khỏch Đánh giá về lượng khách đến VQG Phong Nha Kẻ Bàng : Nhìn vào biểu đồ chúng ta thấy rằng lượng khách đến với VQG Phong Nha Kẻ Bàng đều tăng qua các năm. Năm 2007 VQG đón tiếp 240.500 lượt khách trong đó khách nội địa chiếm 230.158 lượt, khách nước ngoài chiếm 10.342 lượt. Đến năm 2008 tổ chức đón tiếp 262.265 lượt khách đến tham quan tăng 9,05% so với năm 2007, trong đó khách nội địa chiếm 250.919 lượt, khách nước ngoài chiếm 11.346 lượt. Năm 2009 VQG Phong Nha – Kẻ Bàng đón tiếp được 311.630 lượt khách đến tham quan, tăng 18,9% so với năm 2008 trong đó khách nội địa chiếm 297.682 lượt, khách nước ngoài chiếm13.948 lượt. Như vậy thì từ năm 2007 đến năm 2009 lượng khách đến với VQG Phong Nha Kẻ Bàng tăng lên 71.130 lượt khách và tương ứng là tăng 30% trong đó khách quốc tế tăng lên 3.650 lượt khách và tương ứng là tăng 35%, khách nội địa tăng lên 67.480 lượt khách và tương ứng là tăng 29%. Với kết quả này chúng ta thấy rằng khách du lịch quốc tế có tốc độ tăng nhanh hơn so với khách nội địa do khách quốc tế ngày càng quan tâm đến VQG Phong Nha – Kẻ Bàng và đến 53
- ngày một đông hơn. Điều này góp phần làm tăng doanh thu từ hoạt động du lịch của VQG lên rất nhiều. Thành phần khách tham quan đa dạng phong phú: Khách trong nước: Khách du lịch là học sinh trong các trường Phổ thông, sinh viên trong các trường Đại học trong cả nước chiếm số lượng lớn khách đến Vườn. Loại khách này thường đi tập trung theo đoàn từ 30 đến 50 người. Thời gian tham quan vào dịp nghỉ hè, nghỉ lễ hoặc thời gian đi thực tế tham quan học tập của trường. Khách du lịch chuyên đề, nghiên cứu khoa học, là những nhà khoa học nghiên cứu về các lĩnh vực trong VQG như hang động, hệ động thực vật đi theo nhóm nhỏ khoảng từ 3 đến 10 người, đi vào thời gian bất kỳ trong năm và lưu trú lâu. Cán bộ công nhân viên của các cơ quan, các tổ chức các ngành, các địa phương thường tổ chức đi theo đoàn đến tham quan hoặc nghỉ dưỡng. Khách du lịch tự do thường đi từ 2 đến 10 người với phương tiện là ô tô nhỏ hoặc xe máy. Khách nước ngoài: Khách du lịch chuyên đề: gồm các chuyên gia nghiên cứu khoa học về hang động, động thực vật, địa chất, công tác bảo tồn, công tác phát triển đời sống cộng đồng Thời gian lưu trú có thể từ 1 tháng đến 1 năm hoặc đến vài năm. Khách du lịch thuần túy tìm hiểu thiên nhiên, thăm hang động, tìm hiểu văn hóa địa phương Đối tượng khách này chỉ lưu trú trong thời gian ngắn từ 1 đến 3 ngày. Nhận xét tổng hợp 30 phiếu khảo sát do cá nhân em thực hiện về khách du lịch đến VQG Phong Nha - Kẻ Bàng ngày 27/4/2010 : - Lứa tuổi : + 45 : 5 khách = 16,7% - Giới tính : Nam : 17 khách = 56,7% Nữ : 13 khách = 43,3% - Quốc tịch : Việt Nam : 26 khách = 86,7% 54
- Quốc tịch khác : 4 khách = 13,3% - Lần đầu đến VQG Phong Nha – Kẻ Bàng : 25 khách = 83,3% - Loại hình du lịch ưa thích : + Du lịch sinh thái : 22 khách = 73,3% + Du lịch văn hóa : 6 khách = 20% + Du lịch mạo hiểm : 2 khách = 6,7% - Điểm đến ưa thích : + Động Phong Nha : 18 khách = 60% + Động Tiên Sơn : 11 khách = 36,7% + Nơi khác : 1 khách = 3,3% - Đánh giá chất lượng nhà hàng, khách sạn ở VQG : + Rất tốt : 2 khách = 6,7% + Tốt : 23 khách = 76,7% + Trung bình : 5 khách = 16,6% + Kém : 0 khách = 0% Nhìn chung du khách đến VQG Phong Nha – Kẻ Bàng đa phần là đến lần đầu, ưa thích loại hình du lịch sinh thái và hầu hết không phàn nàn gì về chất lượng phục vụ của các khách sạn, nhà hàng hay đội ngũ hướng dẫn viên ở đây. Bảng 2: Doanh thu du lịch của VQG Phong Nha – Kẻ Bàng qua một số năm Năm 2007 2008 2009 Số tiền (VND) 9.408.307.300 10.452.629.400 12.219.133.800 (Nguồn: Số liệu thống kê của Trung tâm phát triển DL VQG Phong Nha Kẻ Bàng) 55
- Biểu đồ so sánh Doanh thu du lịch của VQG Phong Nha – Kẻ Bàng qua một số Năm: Đơn vị: đồng N¨m 2007, N¨m 2008, 9408307300 10452629400 N¨m 2009, 12219133800 Đánh giá về doanh thu du lịch của VQG Phong Nha – Kẻ Bàng trong 3 năm: 2007, 2008, 2009: Doanh thu từ du lịch của VQG ngày càng tăng, do lượng khách tham quan tăng lên. Năm 2007 VQG đón tiếp 240500 lượt khách với doanh thu đạt 9.408.307.300 đồng. Thì đến năm 2008 Tổ chức đón tiếp 262.265 lượt khách đến tham quan với doanh thu đạt 10.452.629.400 đồng (đạt 95,02% kế hoạch, tăng 11,1% so với năm 2007). Cho đến năm 2009 VQG Phong Nha Kẻ Bàng đón tiếp được 311.630 lượt khách đến thăm quan với doanh thu đạt 12.219.133.800 đồng, tăng 16,9% so với năm 2008. Có được những con số như vậy là do năm 2003 VQG được UNESCO công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới đã góp phần quảng bá hình ảnh của VQG Phong Nha – Kẻ Bàng đến với các nước trên thế giới. Đồng thời Ban quản lý đã chủ động thực hiện các chương trình khuyến mãi, ưu đãi đối với các Công ty Du lịch lữ hành, giảm giá vé đối với cựu thanh niên xung phong và đẩy mạnh công tác giới thiệu , quảng bá hình ảnh VQG Phong Nha – Kẻ Bàng trong và ngoài nước qua trang thông 56