Làng quê Việt Nam trong thơ lục bát của Nguyễn Duy

pdf 12 trang hapham 160
Bạn đang xem tài liệu "Làng quê Việt Nam trong thơ lục bát của Nguyễn Duy", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdflang_que_viet_nam_trong_tho_luc_bat_cua_nguyen_duy.pdf

Nội dung text: Làng quê Việt Nam trong thơ lục bát của Nguyễn Duy

  1. THÔNG TIN - TƯ LIỆU KHOA HỌC Nguyễn Văn Hùng Làng quê Việt Nam trong thơ lục bát của Nguyễn Duy Nguyễn Văn Hùng * Tóm tắt: Thơ của Nguyễn Duy đưa tâm hồn ta trở về với những giá trị văn hoá đã toả bóng hàng ngàn năm trong tâm hồn dân tộc. Cảm xúc trong thơ ông được bắt nguồn từ những điều bình dị nhất trong cuộc sống hàng ngày, được kết tinh bằng một tư duy sắc sảo, tình cảm chân thành, được thăng hoa bởi lớp ngôn từ, hình ảnh quen thuộc cùng lối kết cấu riêng, độc đáo. Ông đã tạo tác nhiều biểu trưng về làng quê với những hình ảnh thân thuộc, xúc động, chân thực từ cái nhìn sinh thái, điểm nhìn văn hóa tâm linh, cái nhìn nhân văn, bằng chất liệu dân gian truyền thống của thể thơ lục bát và ca dao, dân ca. Khám phá về làng quê Việt Nam trong thơ lục bát Nguyễn Duy, chúng ta như thêm yêu mảnh đất nơi ta sinh ra, thêm quý từng gương mặt lam lũ, chắt chiu những khoảnh khắc giản dị đời thường, và nhắc nhở nhau bảo tồn, giữ gìn nét văn hóa dân tộc. Từ khóa: Nguyễn Duy; thơ lục bát; bản sắc văn hóa; làng quê; Việt Nam. 1. Nguyễn Duy và hành trình trở về Hoàng Trung Thông, Trần Đăng Khoa, Lưu cội nguồn Quang Vũ, Xuân Quỳnh, Hoàng Cầm, Hữu Trong đời sống văn hóa người Việt Thỉnh đến những vần thơ lục bát sau này Nam, hình ảnh cây đa, bến nước, sân đình của Đồng Đức Bốn, Phạm Công Trứ, Nguyễn đã in sâu vào tâm khảm mỗi người như một Duy , tất cả đã vẽ nên bức tranh làng quê trong những hình ảnh gần gũi và thiêng đa thanh, đa sắc, đa tình, tạo tác các hằng số liêng nhất khi hướng về cội nguồn. Tự bao của “hồn quê” Việt Nam.(*) đời, những hình ảnh quen thuộc ấy cứ lặng Khi Nguyễn Duy đến với lục bát thì thi lẽ đi vào thơ ca, trở thành nguồn suối mát ca Việt Nam đã xuất hiện nhiều ngôi sao nuôi dưỡng, tắm gội và truyền cảm hứng sáng của thể thơ truyền thống này như: cho người nghệ sĩ thăng hoa trong những Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu, Tản Đà, sáng tác chuyên chở hồn dân tộc. Từ những Nguyễn Bính, Tố Hữu Đó là chưa kể câu ca dao, dân ca, những câu chuyện cổ những gương mặt xuất chúng cùng thời như tích, truyền thuyết, những áng thơ văn của Nguyễn Trọng Tạo, Đồng Đức Bốn, Bùi Trần Nhân Tông, Trần Quang Khải, Hồ Giáng, Phạm Công Trứ vốn là những tay Xuân Hương, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, chơi bậc thầy đang gảy lên “cây đàn bầu lục những bài Thơ Mới của Huy Cận, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử, Tế Hanh, những sáng (*) Tiến sĩ, Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế. tác thơ ca cách mạng của Hồng Nguyên, ĐT: 0983142845. Email: nguyenvanhungpx@gmail.com. 109
  2. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4(101) - 2016 bát” với đủ những ngón nghề điêu luyện. và suy tư về những hằng số văn hóa kết Thoát khỏi bóng râm của những cây đa cây kinh thành bản sắc dân tộc, trường tồn trong đề đang gần như phủ kín địa hạt lục bát đã quá trình giao lưu, tiếp biến, hội nhập văn khó, huống hồ đi tìm gương mặt riêng của hóa trong khu vực và trên thế giới. mình giữa muôn ngàn bóng dáng quen lại “Ta là ai? Ta cần thiết cho ai?”, câu hỏi càng gian nan vô cùng. Bằng cách thể hiện lớn luôn ám ảnh suốt một đời với người riêng, với một tình yêu bất diệt dành cho cầm bút. Trước Nguyễn Duy, biết bao thế những câu thơ “sáu nổi tám chìm” của tổ hệ nhà thơ cứ loay hoay đi tìm câu trả lời. tiên để lại, Nguyễn Duy đã tìm được cho Mỗi người mỗi cách, dù công khai hay ẩn mình một nẻo đi riêng, vừa quen thuộc vừa ngầm cũng đều có cho mình đáp án. Với lạ lẫm, vừa giản dị vừa thâm sâu. Nguyễn Duy, đó không đơn thuần là một Đường thơ Nguyễn Duy đã đi cùng với câu hỏi, mà là cuộc hành trình tự vấn, truy những thăng trầm của dân tộc, từ khi đất tìm cái tôi bản ngã, cái tôi không chỉ nhân nước còn trong những năm tháng chiến danh chính nó mà còn nhân danh cái ta tranh gian khổ và hào hùng, cho đến lúc cộng đồng. “Ta là dân”, là con người bình hoàn toàn độc lập và trở mình thay đổi cùng thường trong muôn vạn con người xung thời cuộc. Nhìn lại chặng đường sáng tác quanh ta, câu trả lời tưởng chừng như vô của ông, không khó để nhận ra những dấu cùng giản dị ấy lại là cả một triết lí nhân chỉ làm nên căn cước Nguyễn Duy. Bước đi sinh sâu sắc gắn với quan niệm sống tích từ Đường làng, nhiệt huyết cùng Đường cực và quan niệm thơ sâu sắc của thi sĩ. nước, phiêu du cùng Đường xa và cuối Như con ong hút nhụy hoa dâng mật ngọt, cùng lặng lẽ tìm Đường về. Đó là cuộc hành con tằm rút ruột nhả tơ cho đời, như cây cối trình từ “xó bếp” (“Nơi ấy - mẹ ta nhễ nhại hấp thụ khí trời cho hoa thơm trái ngọt; mồ hôi/ Ta nướng khoai lùi sắn/ Vùng ta Nguyễn Duy ngụp lặn trong suối nguồn còn đun rạ đun rơm”) đến một thế giới khác thiên nhiên, hấp thụ truyền thống văn hóa chứa đầy bí ẩn và thật nhiều khoảng trống ở dân tộc, được nuôi dưỡng bằng bầu sữa ấm phía trước (Xó bếp); hành trình của “giọt nóng của mẹ, lời ru ngọt ngào của bà, bằng nước” lìa nguồn ra “biển cả” (Dòng sông tài năng, khát khao và sự trải nghiệm của Mẹ). Đó còn là hành trình của “dòng nước bản thân, ông đã làm đẹp cho đời, cho trôi đi giọt nước lại rơi về” (Sông Thao). Bỏ người bằng những vần thơ tràn đầy sức lại đằng sau tất cả những vinh quang và cay sống. Gắn lẽ sống đời mình vào nhân dân, đắng, những vay nợ trần gian, những cuộc nguyện hiến dâng máu thịt với số phận đất chơi hành hiệp và giấc mộng siêu nhân, nước, dân tộc, ông bắt đầu hành trình sáng bước chân nhà thơ liêu xiêu trên “lều quán tạo của mình từ điểm khởi đầu và cũng là lèo tèo ven đê”, dưới “cánh buồm mây tướp đích đến - cội nguồn văn hóa dân tộc. chiều quê”, để “ruỗng tênh hênh bịch rơi về 2. Làng quê Việt Nam từ góc nhìn cõi em” (Nơi ấy = dòng sông = Mẹ = em/vợ sinh thái = nhà = làng quê/quê hương, những nơi trú Nói tới làng quê, chúng ta thường nghĩ ngụ bình yên nhất). Trở về với những giá trị tới một sinh quyển gần gũi, gắn bó và quen cội nguồn, thơ Nguyễn Duy là sự khám phá thuộc: cây đa, bến nước, con đò, dòng sông, 110
  3. Nguyễn Văn Hùng cánh cò, nhịp chày giã gạo, tiếng chuông còn là thế giới đa sắc, đa tình, để mỗi khi chùa, trẻ mục đồng, tiếng sáo diều Tất cả nhớ về lại cồn cào, da diết, rưng rưng: tạo nên những giá trị độc đáo của văn hóa “Sóng xô lớp lớp lá cành/ Nhớ thăm thẳm làng quê Việt Nam tự ngàn đời nay. biển long lanh cá về/ Nhớ trưa xanh như Tiếng thơ của Nguyễn Duy đã đưa tâm tiếng ve/ Dòng sông đun biếc cho tre gội hồn ta trở về với những giá trị văn hoá đã đầu/ Nghe rừng í ới gọi nhau/ Nhớ ơi buổi toả bóng hàng ngàn năm trong tâm hồn dân sáng xanh màu mạ non/ Nhạt lưng cơm nhớ tộc. Cảm xúc trong thơ ông được bắt nguồn mảnh vườn/ Xanh lam rau muống xanh rờn từ những điều bình dị nhất trong cuộc sống mồng tơi” (Người con trai). hàng ngày, được kết tinh bằng một tư duy Thơ lục bát Nguyễn Duy tràn ngập mùi sắc sảo, tình cảm chân thành, được thăng hương đặc trưng của làng quê Việt Nam, hoa bởi lớp ngôn từ, hình ảnh quen thuộc theo cách nói của Thạch Lam đó chính là cùng lối kết cấu riêng, độc đáo. Như một “mùi riêng của đất, của quê hương này” họa sĩ tài hoa, ông đã vẽ nên bức tranh quê (Hai đứa trẻ): “Hương bồ kết cứ đi về đêm Việt Nam với những nét đặc trưng tiêu biểu đêm” (Thơ tặng người xa xứ), “Đêm nằm nhất của một làng quê Việt Nam cổ truyền. ngủ dưới gốc cau/ Gió mang hương xuống Chúng ta thấy xuất hiện hàng loạt hình ảnh hầm sâu với người” (Hương cau trong đất), biểu trưng về làng quê trong thơ lục bát “Hương đồng cứ dập dờn trong mây” (Khúc Nguyễn Duy: những gốc đa, mái đình, bến dân ca). Không chỉ cảm nhận ở mùi hương, nước, bờ đê, hàng cau, cánh diều, dòng hình ảnh làng quê còn gọi về qua âm thanh sông, những cánh đồng thơm hương lúa quen thuộc: tiếng trống chèo, tiếng ếch nhái mới, có cánh cò bay lả bay la, là tiếng (Mỗi), “Ve kêu trắng xác ngày hè” (Giấc chuông chùa khắc khoải màu thời gian, là mộng trắng), tiếng chuông chiều (Kính thưa hương bồ kết, hương cau thoang thoảng Thị Kính), tiếng đàn bầu sâu lắng: “Bồng trong lòng đất bềnh mạn nhặt mạn khoan/ Thời gian có Không khó để bắt gặp trong thơ lục bát tiếng không gian có hình” (Đàn bầu); và Nguyễn Duy hình ảnh làng quê êm đềm, đặc biệt là tiếng ru ngọt ngào, da diết của diệu vợi, thi vị. Hướng ánh mắt về phía xa bà, của mẹ: “Con cò bay lả bay la” (Lời ru xa là: “Đồng chiêm phả nắng lên không/ cò biển), “Bồng bồng cái ngủ trên tay” (Lời Cánh cò dẫn gió qua thung lúa vàng/ Gió ru mùa thu), “Ngủ ngoan con nhé con nâng tiếng hát chói chang/ Long lanh lưỡi ngoan” (Lời ru trong bão) hái liếm ngang chân trời” (Tiếng hát mùa Làng quê yên bình, chắt chiu từng giọt gặt), và quờ tay thật gần lại chạm vào: nắng, cơn mưa, không phụ công người vun “Bưởi nhà ai chín sau vườn/ Gió bâng quơ trồng, cây cối xanh tươi cho những thức thả làn hương giữa trời/ Cu cườm thong thả quà quê mộc mạc, đơn sơ (sung chát, đào bay đôi/ Về đâu hỡi lục bình trôi lững lờ” chua, hồng chín, bát nước chè xanh), và (Xuồng đầy). nặng ân tình: “Bát sành lần lượt chuyền tay/ Không chỉ cảm nhận bằng hình ảnh thơ Nước ngô mẹ lại rót đầy cho con/ Ai chưa mộng, làng quê trong kí ức Nguyễn Duy uống nước ngô non/ Là chưa được thấm cái 111
  4. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4(101) - 2016 ngon của đồng/ Cây ngô đứng nắng vẹo tong tong mùa màng/ Làng ta lại lóp ngóp hông/ Cho con bát nước mát lòng mẹ ơi” làng/ Lòng ta lại ếch nhái hoang cả lòng” (Bát nước ngô). (Dân ơi). Và xót xa nhất có lẽ là hình ảnh Trước Nguyễn Duy, chúng ta cũng có cánh cò nhỏ bé, trơ trọi trước bao hiểm thể bắt gặp hình ảnh làng quê êm đềm, thi nguy rình rập trong mùa nước nổi: “Rắn vị qua những bức tranh thủy mặc tuyệt đẹp bầy ngóc cổ ngọn cây/ Để con cò rã cánh được phóng bút bởi các nhà Thơ Mới: bay mút mùa” (Mùa nước nổi). Những hình “Dưới gốc đa già trong vũng bong/ Nằm ảnh chân thực đến từng chi tiết, đầy sức mát đàn trâu ngẫm nghĩ nhai/ Ve ve rung gợi, sức cảm ấy chỉ có thể được viết nên từ cánh ruồi say nắng/ Gà gáy trong thôn cảm giác của chính người trong cuộc đã những tiếng dài” (Tiếng sáo diều, Bàng Bá từng rét run vì cái lạnh thấu xương thịt, Lân), “Có chiếc thuyền nằm trên cát mịn / từng đơn độc giữa bốn bề thủy tinh, từng Có đàn trâu trắng lội qua sông/ Có cô thợ chới với trong vòng xoáy nước lũ, từng thót nhuộm về ăn Tết/ Sương nắng đường xa mình lội dưới bùn sâu, từng cồn cào đói rám má hồng” (Không đề, Nguyễn Bính), cơm khi mùa màng trôi mất “Đàn chim sẻ nép mình qua kẽ sậy/ Tia Cũng viết về cảnh sắc làng quê, Nguyễn nắng hồng đốt cháy hạt sương trong/ Con Duy đã thêm vào khí quyển sinh thái ấy trâu đen chúi mũi đứng bên đồng/ Cứ liếm những gam màu mới, ở đó vừa có nét thi vị, mãi ánh vàng trên cỏ biếc” (Nắng xuân, lãng mạn, lại vừa có chất chân thực dữ dội, Đoàn Văn Cừ). khiến người đọc không chỉ cảm nhận, Tuy nhiên, khác với thế hệ tiền bối, làng thưởng thức, mà còn phải thổn thức, khắc quê trong thơ lục bát Nguyễn Duy không khoải như sống với cảm giác của chính chỉ êm đềm, bình yên, tĩnh lặng mà ở đó có người trong cuộc. Đó cũng chính là lí do cả giông bão, dữ dội. Nhìn vào những bức khiến Nguyễn Duy và thơ ông có sức mạnh tranh quê ấy, chúng ta không thể nhắm mắt truyền được sự đồng cảm nơi người đọc, mơ màng chiêm ngưỡng, mà cứ bồn chồn, gọi về trong kí ức của những người con đất khắc khoải, như có sóng, có bão ở trong Việt Nam sự thấu hiểu, sẻ chia, dù có ai đó lòng. Sinh ra và lớn lên trên vùng đất chiêm chưa từng một ngày hít thở bầu không khí trũng, nỗi ám ảnh lớn nhất của Nguyễn Duy làng quê ấy. đó là làng quê trong mùa mưa bão. Khi 3. Làng quê Việt Nam từ điểm nhìn đang ở Trường Sơn, nhà thơ đắng lòng nghĩ văn hóa tâm linh về hình ảnh quê nhà giữa mùa lũ lụt: “Lúa Bức tranh làng quê trong thơ lục bát chìm xuống cỏ dềnh lên/ Rác bùn gạch Nguyễn Duy không chỉ được cảm nhận ngấn ngang nhiên trên tường/ Bèo đi ngang bằng cảnh sắc muôn màu muôn vẻ của ngược giữa đường/ Lụt ăn theo bão lẽ thiên nhiên, mà còn được thể hiện qua tín thường xưa nay” (Lời ru trong bão). Rồi ngưỡng văn hóa bản địa (tín ngưỡng thờ thời gian định cư trong Sài Gòn, nghe tin Mẫu), lễ hội (hội Chùa Hương), văn hóa dự báo thời tiết, thi sĩ giật mình thảng thốt Phật giáo, vốn được lưu giữ từ lâu trong đời như chính mình đang đứng giữa tâm bão: sống tâm linh người Việt Nam. Từ điểm “Năm nay lại lụt trắng đồng/ Quê ta lại tỏng nhìn văn hóa, triết học nhân sinh, nhà thơ 112
  5. Nguyễn Văn Hùng đã tìm về với những giá trị văn hóa nguồn bất kì lĩnh vực và thời đại nào, và Nguyễn cội của dân tộc, và dĩ nhiên bằng một tâm Duy không phải là một ngoại lệ. thế, tinh thần, cách nhìn mới. Trong thơ lục bát của Nguyễn Duy, Tín ngưỡng thờ Mẫu là hình thức tín chúng ta bắt gặp hình ảnh của những ngôi ngưỡng dân gian khá tiêu biểu, mang đậm đền thờ Mẫu giữa khung cảnh yên bình đặc đà bản sắc văn hóa Việt Nam, một hiện trưng của làng quê Bắc Bộ: “Phiêu bồng dạt tượng văn hóa tín ngưỡng tâm linh độc đáo ngã ba Bông/ Đền Hàn đền Thị đền Sòng trong hệ thống tín ngưỡng dân gian đa thần đền quê” (Đi lễ), “Đền đài tỉnh giấc rêu của người Việt Nam. Việc tôn thờ Nữ thần, phong/ Nhong nhong thiên hạ lên đồng thờ Mẫu với những thuộc tính thiêng liêng sướng chưa” (Lên đồng). Cùng với việc tạo như sinh sôi, bảo trợ, sáng tạo là một hiện dựng những ngôi đền thiêng, trong thực tượng có từ lâu đời và khá phổ biến, tạo nên hành tín ngưỡng người Việt Nam, lên đồng nguyên lý Mẹ ăn sâu trong tâm trí và biểu là một hình thức khá độc đáo. Trong tâm hiện thành các chuẩn mực ứng xử trong văn thức của người dân quê Nguyễn Duy, đó hóa Việt Nam. Xung quanh tín ngưỡng thờ không phải là một tà giáo hay mê tín quàng Mẫu nảy sinh và tích hợp nhiều giá trị văn xiên, mà ở đó, con người, đặc biệt là người hóa mang đậm sắc thái dân tộc độc đáo. phụ nữ nhập cuộc, mê đắm trong cõi siêu Văn học Việt Nam trong quá trình hình nghiệm, huyền diệu, mong tìm thấy sự thành và phát triển đã biểu hiện nguyên lí thanh thoát, được gột rửa mọi tục lụy cõi tính Mẫu rất rõ nét. Từ các câu chuyện trần, xoa dịu bớt bao nhọc nhằn, tủi nhục truyền thuyết, huyền thoại trong văn học trong cuộc đời, và sâu xa hơn, là sự “cầu dân gian đến các thể loại văn học hiện đại, may”, cầu tình cầu duyên cho những số nguyên lí ấy đã ăn sâu vào tâm thức, tư duy phận long đong, lận đận: “Này em phận của các nghệ sĩ dân gian cũng như các nhà mỏng duyên dày/ Lưa thưa mộng mị mưa văn hiện đại. Mặc dù có thể có những biểu đầy hư không” (Lên đồng), “Phím dây từng hiện đậm nhạt khác nhau, nhưng các nhà bậc lên trời/ Rủ nhau quên tóc rối bời cỏ văn hiện đại đã tìm thấy trong văn hóa dân rơm” (Cung văn). Cùng với trạng thái nhập tộc nói chung và trong tín ngưỡng thờ Mẫu đồng thần bí, Nguyễn Duy cho thấy sự trải nói riêng một nguồn sống bất tận nuôi nghiệm cũng như tri thức sâu rộng của dưỡng sức sáng tạo trong các tác phẩm của mình trong việc miêu tả tiếng đàn, lời hát mình. Vì vậy, trong ý thức và cả trong vô chầu văn, phác họa chân thực nét nghệ thức sáng tạo, văn hóa dân tộc trở thành thuật tạo hình độc đáo qua kiến trúc đền “chất liệu” sống để nhà văn có thể khai phá, Mẫu cùng với trang phục, vừa mang cội luận giải các vấn đề vận mệnh dân tộc, số nguồn lễ nghi vừa mang tính nghệ thuật phận của văn hóa cùng những bước đi của truyền thống dân tộc: “Xanh xanh đỏ đỏ cộng đồng, khơi gợi cội nguồn sức mạnh phừng phừng/ Tứng từng tưng tửng từng nối kết quá khứ và hiện tại. Có thể nói, văn tưng đã đời” (Cung văn). hóa tâm linh làng xã trở thành mạch nguồn Lễ hội là đặc trưng quan trọng trong văn cảm hứng nuôi dưỡng tâm hồn, tiếp thêm hóa làng xã, thể hiện sinh động nét sinh sức mạnh trong các sáng tạo của nghệ sĩ ở hoạt, tôn giáo, nghệ thuật của cộng đồng. 113
  6. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4(101) - 2016 Xuất phát từ sự ước mong và cả nhu cầu tồn sao đo được thánh thần em ơi” (Hàng mã). tại và phát triển của cuộc sống, từ sự bình Người ta đến với đức Phật không hoàn toàn yên cho mỗi cá nhân, gia đình và cộng bằng cái vô ưu vô lo, không thể giũ bỏ hoàn đồng, sự bội thu cho mùa màng, sự sinh sôi, toàn bụi trần, bởi cuộc sống còn quá nhiều nảy nở của con người, cùng với ước vọng nỗi nhọc nhằn, lo toan: “Cô em cầu cạnh gì thoát khỏi những bất hạnh, kiếp nạn mà đây/ Cầu cho giá gạo hằng ngày đừng lên” tinh thần của lễ hội được giữ gìn, phát huy (Nguyện cầu). Rõ ràng, thơ lục bát của và mở rộng. Hình ảnh lễ hội Chùa Hương Nguyễn Duy dù viết về mảng màu nào của trong thơ lục bát Nguyễn Duy ở một cuộc sống, kể cả những tín điều linh thiêng, phương diện nào đó cũng mang những ý kì bí nhất đều rất đời, rất người, rất phàm nghĩa, ước nguyện cao cả và linh thiêng ấy: tục. Nhờ vậy cái nhìn về văn hóa và con “Dấn thân vào tận cõi thiền/ Còn mơ Đụn người trong thơ Nguyễn Duy trở nên đa Gạo, Đụn Tiền cho ai/ Hạc vàng về với diện, nhiều chiều, sâu sắc, thấm thía và Như Lai/ Nỗi lo trần thế theo ngoài chân nhân bản hơn. mây” (Đoán mộng). Trên tất cả, lên chùa đi Khám phá, giải mã hằng số văn hóa dân lễ là cách thức tìm nơi trú ngụ bình yên, có tộc từ tín ngưỡng thờ Mẫu và văn hóa dân thể quên đi những đắng cay, tục lụy cõi gian làng xã, Nguyễn Duy đã thực sự sáng trần, để trở về với cõi Phật thanh sạch: tạo cho mình một lối đi mới mẻ, độc đáo và “Biết là chả có Phật đâu/ Vẫn lòng thanh hấp dẫn ở thể thơ lục bát. Bằng sự cần mẫn, sạch lại sau lễ chùa/ Người về khăn áo gió vốn sống, tri thức, trên hết là lòng ngưỡng đưa/ Phất phơ hồn vía ngày xưa vẫn còn” vọng với nền văn hóa mang đậm màu sắc (Giã từ). bản địa, nhà thơ đã khơi gợi cho người đọc Đời sống văn hóa tâm linh người Việt niềm tin vào sức sống vô cùng mãnh liệt Nam được Nguyễn Duy tái hiện một cách của văn hóa dân gian. Thơ lục bát Nguyễn sinh động và độc đáo. Sinh động bởi lẽ tác Duy rõ ràng đã phần nào chạm vào cội giả đã lột tả được tinh thần và đời sống tâm nguồn bản sắc dân tộc Việt Nam qua văn linh của người Việt Nam được gửi gắm hóa làng rất độc đáo. trong các tín ngưỡng bản địa, lễ hội dân 4. Làng quê Việt Nam từ cái nhìn gian, và độc đáo do thi sĩ đã không nhìn ở nhân văn một chiều thuận mà luôn đặt vấn đề trong Cùng với cảnh sắc thiên nhiên, qua sáng cái nhìn “diễu nhại”, pha chút sự hài hước, tác của Nguyễn Duy - thi sĩ đồng quê này, xót xa. Chưa bao giờ đời sống văn hóa, tín ta còn bắt gặp những vẻ đẹp tâm hồn sâu ngưỡng dân gian trước những biến động kín của con người Việt Nam qua hình ảnh của cuộc sống lại không thôi ám ảnh nhà của những người bà, người mẹ, người chị, thơ. Vùng đất linh thiêng ấy không còn giữ người em, người cha Họ là hiện thân cho được nét hồn nhiên, thuần khiết, mà đâu đó những gì tinh tuý nhất của làng quê Việt cái phàm tục, xô bồ đã bắt đầu len lỏi nơi Nam. Với tâm hồn ngát hương, họ chính là cửa thiền: “Từng đôi anh trước chị sau/ nơi lưu giữ và thắp sáng vẻ đẹp, hồn cốt Từng bầy xe cúp lùa nhau trên đường” (Đi văn hoá Việt Nam. “Thơ Nguyễn Duy đưa chùa), “Lăm lăm cái thước phàm trần/ Làm ta về một thế giới quen thuộc. Nguyễn Duy 114
  7. Nguyễn Văn Hùng đặc biệt thấm thía cái cao đẹp của những thân cò khi quãng vắng/ Eo sèo mặt nước con người, những cuộc đời cần cù gian khổ, buổi đò đông” (Thương vợ). Hồng Nguyên không tuổi không tên. Đọc thơ Nguyễn Duy khắc khoải nhớ về: “Ít nhiều người vợ trẻ/ thấy anh hay cảm xúc, suy nghĩ trước Mòn chân bên cối gạo canh khuya” (Nhớ). những chuyện lớn, chuyện nhỏ quanh mình. Phùng Cung xót xa, thương cảm khi nhìn Cái điều ở người khác có thể chỉ là chuyện thấy những giọt “mồ hôi xương” đọng trên thoảng qua thì ở anh, nó lắng sâu và dường lưng áo vợ: “Em vất vả/ Tối ngày tất cả/ như đọng lại” [8]. Lưng áo em/ Ngoanh vôi trắng xóa/ Cái Trong lịch sử văn học dân tộc, hình trắng này/ Vắt tận trong xương (Mồ hôi tượng người phụ nữ luôn được các nhà văn xương). Còn Nguyễn Duy với hình ảnh đặc biệt chú ý miêu tả một cách đầy ám gợi. “Gót chân ăn vẹt bậc thềm/ Quanh năm tất Có thể viện nhiều lí do để giải thích cho bật đi tìm ngày xuân” (Mời vợ uống rượu) vấn đề ấy, song phải nhìn nhận từ thực tế thì góp vào lịch sử văn học một hình ảnh rằng, người phụ nữ nói chung và người phụ đầy sức gợi về người phụ nữ Việt Nam. nữ nông thôn nói riêng luôn là nạn nhân Sự đói nghèo, lam lũ, khó nhọc của đáng thương trong cơn lốc lịch sử. Thân người dân quê ông được thể hiện xúc động phận của họ được ví như cánh cò nhỏ bé, qua chính hình ảnh của những người thân mong manh trong cơn giông bão của cuộc nhà thơ. Đó là người cha quanh năm tảo đời. Nguyễn Duy đã trăn trở, suy tư và viết tần, tay cầy, tay cuốc vẫn luôn bị cái nghèo, nên những vần thơ đầy sức gợi và vô cùng cái đói truyền kiếp đeo đẳng: “Cha ta cầm xúc động về người mẹ, người vợ của mình. cuốc trên tay/ Nhà ta xơ xác hơn ngày xa Đó là hình ảnh người mẹ kham khổ, thiếu xưa/ Lưng còng bạc nắng thâm mưa/ Bụng thốn, nhọc nhằn mưu sinh: “Mẹ ta không có nhăn lép kẹp như chưa có gì (Về làng). Và yếm đào/ Nón mê thay nón quai thao đội cả những người em suốt đời bán mặt cho đầu/ Rối ren tay bí tay bầu/ Váy nhuộm bùn đất bán lưng cho trời vẫn không đi hết nỗi áo nhuộm nâu bốn mùa (Ngồi buồn nhớ mẹ nhọc nhằn, kham khổ: “Lũ em ta vác cuốc ta xưa). Đó còn là hình ảnh người vợ tảo cào/ Giục nhau bước thấp bước cao ra tần, lam lũ, hi sinh vì mộng văn chương của đồng/ Mồ hôi đã chảy ròng ròng/ Máu và thi sĩ: “Thất tha thất thểu văn chương/ Kẽo nước mắt sao không có gì” (Về làng). cà kẽo kẹt tai ương đường dài/ Yêu cùng ai Hình ảnh người mẹ, người cha, lũ em ghét giùm ai/ Để cơm áo vẹo hai vai em như hiện thân của quê hương nghèo khó, gầy” (Xin đừng buồn em nhé). lam lũ, là phần lắng sâu nhất, da diết nhất, Cùng với Tú Xương, Hồng Nguyên, xót xa nhất của quê hương còn đọng lại Phùng Cung và nhiều nhà thơ khác, Nguyễn trong tâm trí nhà thơ mỗi khi nhớ về. Duy đã khắc họa hình tượng người vợ chân Nguyễn Duy viết về nỗi nhọc nhằn của thực, và đầy sức ám ảnh. Tú Xương dựng người dân quê, của người thân ông như nó tượng đài người vợ của mình với dáng tảo vốn tồn tại tự bao đời nay. Thật xót xa, tần lo miếng cơm, manh áo cho chồng cho nghẹn ngào làm sao khi sau bao năm bôn ba con: “Quanh năm buôn bán ở mom sông/ trở về, làng quê vẫn vậy, vẫn còn đói Nuôi đủ năm con với một chồng/ Lặn lội nghèo, khổ cực, xác xơ. Từ cảnh sắc “Gốc 115
  8. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4(101) - 2016 cây hòn đá cũ càng/ Trâu bò đủng đỉnh như (Vợ ốm); người cha đói nghèo, khổ cực ngàn năm nay”, “Đường làng cây cỏ lưa trăm bề, nhưng vẫn lạc quan, yêu đời trong thưa/ Thanh bình từ ấy sao chưa có gì”, nụ cười móm mém, chất phác của một lão cảnh lao động sinh hoạt thôn quê “Vẫn nông thấu trải lẽ đời: “Không răng cha đồng cạn vẫn đồng sâu/ Chồng cày vợ cấy vẫn cười khì/ Người còn là quý sá chi bạc con trâu đi bừa”, đến gia cảnh “Mẹ ta vo vàng” (Về làng). gạo thổi cơm/ Ba ông táo sứt lửa rơm khói Chính nét chất phác, giản dị, nhân hậu mù” (Về làng) đều gợi lên sự ngưng đọng, ấy khiến không ít lần thi sĩ phải tự vấn bất biến, sự tồn tại dai dẳng của sự nghèo lương tâm, trăn trở, sám hối về những “món nàn, đơn điệu như căn bệnh truyền kiếp từ nợ” (nợ đời, nợ người) suốt một đời không bao đời nay ở làng quê nông thôn Việt bao giờ trả hết: “Ta đi mơ mộng trên đời/ Nam. Đó chính là điều làm nên sự khác biệt Để cha cuốc đất một đời chưa xong” (Về của Nguyễn Duy so với các nhà thơ trước làng), “Nợ người khóe mắt rưng rưng/ Nợ và cùng thời ông khi viết về làng quê. Ông sông giọt nước nợ rừng bóng cây/ Nợ em vẫn say mê chiêm ngưỡng về nét đẹp cảnh lận đận tháng ngày/ Ánh trăng ngọn gió áng sắc làng quê, vẫn mơ mộng trong những tín mây nợ trời” (Nợ đời). ngưỡng văn hóa truyền thống, nhưng có lẽ Với Nguyễn Duy, viết về sự lam lũ, nhọc phần sâu lắng nhất, ám ảnh nhất, gợi nhiều nhằn cũng là hành trình đi tìm cái đẹp, một ngẫm suy nhất, lại không phải là thiên cái đẹp ẩn ngầm, phải thật tinh tế, chân nhiên hay bản sắc văn hóa cổ truyền mà đó thành, sâu sắc mới có thể “ngộ” và “nhận” là phần nhọc nhằn, lam lũ và kham khổ ra. Và thi sĩ gọi là hành trình “đãi cát tìm nhất của con người quê hương ông. vàng” từ “muối mặn mồ hôi” (Đãi cát tìm Viết về những vất vả, lam lũ của làng vàng). Đó là quan niệm tìm cái đẹp trong quê, nhưng những vần thơ lục bát của gian khổ, tìm trái tim vàng trong vẻ ngoài Nguyễn Duy không đem lại cảm giác bi khắc khổ, xác xơ, và tìm một tâm hồn bất quan, chán nản, mà ngược lại, chúng ta diệt trong những khoảnh khắc đời thường thấy đằng sau sự lam lũ, kham khổ kia là của cuộc sống. Với ông, cái đẹp trân quý sức sống mãnh liệt, là tâm hồn nhân hậu và nhất trong cuộc đời là cái đẹp vươn lên từ tính cách đẹp đẽ của người dân quê nghèo. gian khó, nhọc nhằn, từ đau thương mất Người mẹ lam lũ, nhọc nhằn là vậy, vẫn mát, từ mồ hôi, nước mắt và máu xương. rạng ngời vẻ đẹp tâm hồn - vẻ đẹp của đức Chính điều này cũng tạo nên sự khác biệt hi sinh, của lòng bao dung độ lượng: giữa Nguyễn Duy và các nhà thơ của dòng “Nhìn về quê mẹ xa xăm/ Lòng ta chỗ ướt thơ đồng quê trước đó. Với Nguyễn Bính, mẹ nằm đêm mưa/ Ngồi buồn nhớ mẹ ta Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ, cái đẹp của làng xưa/ Miệng nhai cơm búm lưỡi lừa cá quê đã được thi vị hoá, lãng mạn hóa, xương” (Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa); người không hề có dấu vết của chân lấm tay bùn, vợ tảo tần, kham khổ là thế, nhưng trái tim của muối mặn mồ hôi, của nhọc nhằn lam lại chứa đầy tấm lòng vị tha, yêu chồng lũ. Nguyễn Duy có cái nhìn đa diện, đa thương con: “Nghìn tay nghìn việc không chiều, phức tạp hơn về đời sống và con tên/ Mình em làm cõi bình yên nhẹ nhàng” người nơi thôn quê. Ông đem theo cả bùn 116
  9. Nguyễn Văn Hùng đất lấm láp, cả gương mặt lấm lem của khi vẻ đẹp ấy tỏa bóng, in dấu trên mỗi nông thôn Việt Nam vào thơ, nhưng từ phía làng, mỗi xóm, mỗi gương mặt người dân bùn lầy nước đọng ấy vẫn ánh lên những vẻ quê Việt Nam. đẹp đơn sơ nhưng kỳ diệu, chân chất nhưng 5. Làng quê Việt Nam từ nguồn chất rạng ngời. liệu dân gian Và có lẽ không hình ảnh nào tượng Nguyễn Duy là nhà thơ có những khám trưng sâu sắc cho vẻ đẹp ấy hơn hình ảnh phá độc đáo, sáng tạo về hình thức thể hiện. cây tre - loài cây mọc lên từ mảnh đất khô Thế giới nghệ thuật thơ của ông vừa tuân cằn đá sỏi, với “thân gầy guộc, lá mong theo những quy định “bất di bất dịch” của manh”. Loài cây đặc trưng của mỗi làng thơ lục bát truyền thống nhưng cũng có quê Việt Nam này mang sức sống diệu kì: nhiều thể nghiệm, đổi mới sáng tạo để bắt “Ở đâu tre cũng xanh tươi/ Cho dù đất sỏi kịp sự đổi thay của thơ ca đương đại. Đồng đá vôi bạc màu”. Cái gì đã làm nên màu thời việc xây dựng hệ thống những biểu xanh, đem đến sức sống bền bỉ đến như tượng, hình ảnh có tính đặc trưng cho làng vậy? Đó là những đức tính vốn sẵn có trong quê Việt Nam, thơ lục bát Nguyễn Duy còn mỗi loài tre nhỏ bé: (siêng năng, cần cù, thể hiện một giọng điệu riêng, một giai điệu chịu thương chịu khó): “Rễ siêng không ngôn ngữ riêng - vừa dân gian vừa hiện đại. ngại đất nghèo/ Tre bao nhiêu rễ bấy nhiêu Điều đó phần nào cho chúng ta thấy ở nhà cần cù”. Đó là sự lạc quan, không ngại khó thơ này tài năng bẩm sinh, được sinh ra, ngại khổ, không chịu khuất mình, sống hiên được nuôi dưỡng bằng những giá trị cội ngang, phóng khoáng: “Vươn mình trong nguồn có ý nghĩa nhân văn sâu sắc - văn gió tre đu/ Cây kham khổ vẫn hát ru lá hoá làng quê. cành/ Yêu nhiều nắng nỏ trời xanh/ Tre Cũng như lục bát của Tản Đà, Huy Cận, xanh không đứng khuất mình bóng râm”. Nguyễn Bính, Tố Hữu, Bùi Giáng thơ Đó là sự gắn bó, đùm bọc, đoàn kết, thương lục bát của Nguyễn Duy cũng đậm đà chất yêu lẫn nhau trước bão tố của thiên nhiên ca dao. Cũng được nuôi dưỡng từ mạch và cuộc đời: “Bão bùng thân bọc lấy thân/ nguồn mát trong ấy, nếu lục bát của Tản Tay ôm tay níu tre gần nhau thêm”. Đó là Đà chắt lọc cái ỡm ờ tình tứ; lục bát của sự hồi sinh, hóa thân và đức tính hi sinh vô Huy Cận mang âm điệu trầm lắng, sang bờ bến: “Chẳng may thân gãy cành rơi/ Vẫn trọng; lục bát của Nguyễn Bính thừa nguyên cái gốc truyền đời cho măng / hưởng cái tự nhiên, mộc mạc, duyên dáng; Lưng trần phơi nắng phơi sương/ Có manh lục bát của Tố Hữu chứa chan giọng tâm áo cộc tre nhường cho con” (Tre Việt Nam). tình, điệu nói; lục bát của Bùi Giáng mang Đức tính, cốt cách của tre biểu trưng cho vẻ cái hồn nhiên, thâm thúy, thì lục bát của đẹp tâm hồn, tính cách người Việt Nam từ Nguyễn Duy đậm chất ca dao bởi lối “tập ngàn đời nay. Tre đã xanh, cứ xanh và ca dao” độc đáo. Qua cách dùng nguyên muôn đời bất diệt. Cũng như vẻ đẹp tâm vẹn cả câu ca dao làm đề tựa hoặc trộn lẫn hồn, căn tính dân tộc, sức sống Việt Nam trong thơ, hay mượn ý với một tâm thế và vẫn trường tồn sau bao gian nan, thử thách. tinh thần mới, Nguyễn Duy đã sáng tạo Và giản dị, gần gũi, thân thuộc làm sao, nên những câu thơ sáu tám vừa quen thuộc 117
  10. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4(101) - 2016 vừa lạ lẫm, vừa truyền thống vừa hiện đại, cánh cò bay la đà/ Cũ sao được sắc mây sa/ vừa nghiêm ngặt vừa phá cách. Cũ sao được khúc dân ca quê mình” (Khúc Ca dao xuất hiện khá nhiều trong thơ lục dân ca). Việc sử dụng ca dao trong thơ bát của Nguyễn Duy, đặc biệt là mảng thơ Nguyễn Duy không hề là cách trang trí, làm viết về làng quê. Ca dao được dùng làm đề duyên, mà ẩn sau đó là những góc nhìn mới từ, để dẫn dắt, định hướng người đọc vào ý mẻ, những triết lí đơn sơ mà sâu sắc về lẽ đồ nghệ thuật của tác giả hoặc tư tưởng của đời, về kiếp người: “Cái cò sung chát bài thơ: “Đàn bầu ai gảy thì nghe/ Làm thân đào chua/ Câu ca mẹ hát gió đưa về trời/ Ta con gái chớ nghe đàn bầu” (Đàn bầu). Ca đi trọn kiếp con người/ Cũng không đi hết dao đề từ còn gợi nguồn cảm hứng sáng tạo mấy lời mẹ ru” (Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa). cho thi sĩ: “Ra đường võng giá nghênh Ở đó, người thơ của làng quê gửi gắm ngang/ Về nhà hỏi vợ cám rang đâu mày” những suy tư, trăn trở về cuộc sống của (Cõi về). Có khi, đó còn là cách dẫn dụ tinh người dân quê nghèo: “Chiến tranh như trận tế vào văn bản, tạo sự phấn khích, tò mò, cháy làng/ Bà con ta trắng khăn tang trên khơi gợi trí tưởng tượng, đối thoại với cách đầu/ Vẫn đồng cạn vẫn đồng sâu/ Chồng nghĩ, cách ứng xử dân gian: “Con ơi mẹ cày vợ cấy con trâu đi bừa” (Về làng), cùng dặn câu này/ Sông sâu chớ lội đò đầy chớ cái nhìn đầy sự nếm trải về số phận của thơ đi” (Xuồng đầy). ca: “Thơ ơi ta bảo thơ này/ Để ta đi cấy đi Bên cạnh làm đề từ để dẫn dụ người đọc cày nuôi em (Bao cấp thơ). vào văn bản, ca dao xuất hiện xen giữa Nguyễn Duy không chỉ tận dụng chất những câu thơ của tác giả, còn giúp soi liệu nội dung ca dao mà còn kế thừa hình sáng thêm nội dung tư tưởng của bài thơ; thức kết cấu như bài ca dao, khéo đến nỗi bộc lộ tình cảm, tâm trạng: “Nhìn về quê chúng ta rất khó phân định đó là thơ của mẹ xa xăm/ Lòng ta chỗ ướt mẹ nằm đêm ông hay là sáng tác của người nghệ sĩ dân mưa/ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa/ Miệng nhai gian: “Ai làm ra lung liếng sông/ Để đưa tu cơm búm lưỡi lừa cá xương” (Ngồi buồn hú sổ chồng sang ngang/ Ai sinh ra thói tình nhớ mẹ ta xưa). Nó cũng giúp chuyên chở tang/ Để ai hóa gió lang bang quên nhà” những triết lí nhân sinh sâu sắc: “Được yêu (Vải thiều), “Bao giờ cho tới mùa thu/ Trái như thể ca dao/ Đủ phờ phạc đất đủ lao đao bòng trái bưởi đánh đu giữa rằm/ Bao giờ trời/ Tây Tàu cũng thế thì thôi/ Y chang cay cho tới tháng năm/ Mẹ ra trải chiếu ta nằm đắng ngọt bùi khổ đau/ Không trầu mà cũng đếm sao” (Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa), hay chẳng cau/ Làm sao cho thắm môi nhau thì “Đố em bán gió cho trời/ Đố em mua chịu làm” (Được yêu như thể ca dao). nỗi đau” (Thách thức) Nhiều bài thơ còn bàng bạc chất ca dao, Nhà thơ sử dụng hình thức kết cấu sóng dân ca như là cách thi sĩ tìm về suối nguồn đôi tương đồng rất phổ biến trong ca dao: văn hóa, để nuôi dưỡng tâm hồn con người, “Nợ nần chưa trả đã vay/ Chim muông trả khẳng định giá trị văn hóa truyền thống bất vía, cỏ cây trả hồn/ Trả cho mơ chút thiên diệt của dân tộc: “Con cò bay lả bay la/ đường/ Trả cho nhau chút xót thương luân Theo câu quan họ bay ra chiến trường / hồi” (Xin đừng buồn em nhé). Có khi cả lối Nghìn năm trên dải đất này/ Cũ sao được kết cấu đối lập, tương phản mà ca dao hay 118
  11. Nguyễn Văn Hùng dùng: “Lòng thì ngọt, vỏ thì cay/ Má thì cứ hóa dân tộc, lắng mình nghe tiếng vọng của đỏ hây hây chết người” (Cam), “Vợ cười tổ tiên, đó cũng là cách nuôi dưỡng và gột chưa uống đã say/ Ngọt bùi thì nổi, đắng rửa tâm hồn mỗi người. Chân thực và thi vị, cay thì chìm” (Mời vợ uống rượu), “Kính say mê và xúc động, thơ lục bát của thưa Thị Kính láng giềng/ Ái ân thì ít oan Nguyễn Duy đã gói trọn hồn quê hương ở khiên lại nhiều” (Kính thưa Thị Kính) những phần lung linh, đẹp đẽ nhất, và cả Nguyễn Duy cũng thường đưa vào thơ những phần lam lũ, nhọc nhằn nhất. Lắng mình những cặp đại từ nhân xưng như lời nghe và nghiệm suy từ tiếng thơ ấy, chúng ăn tiếng nói hàng ngày của dân gian: “Thôi ta như thêm yêu mảnh đất nơi ta sinh ra, ta về với mình thôi/ Chân trời đành để chim thêm quý từng gương mặt lam lũ, chắt chiu trời nó bay” (Đường xa), “Giá như em đã những khoảnh khắc giản dị đời thường, và có chồng/ Để bòng bong khỏi rối lòng nhắc nhở nhau bảo tồn, giữ gìn nét văn hóa người dưng” (Lạng Sơn). dân tộc, cảm thông và sẻ chia với những Do nhiều bài thơ sử dụng ca dao hoặc người xung quanh ta. Đó chính là những giá mượn ý, mượn hình ca dao, người đọc buộc trị dài lâu, vững bền mà Nguyễn Duy và thơ lòng phải tìm hiểu và nối kết tinh thần, ý lục bát của ông mang lại cho người đọc. nghĩa của hai hay nhiều văn bản với nhau. Đó là một trong những “kênh”, “mã” vô Tài liệu tham khảo cùng quan trọng để xâm nhập vào chủ đề, [1] Thơ Nguyễn Duy (2010), Nxb Hội Nhà tư tưởng của thơ lục bát Nguyễn Duy. Việc văn, Hà Nội. nối kết các văn bản hay “giải mã” các “tiền [2] Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu văn bản” sẽ là cách thi sĩ tái lập nghĩa trong trong thơ trữ tình, Nxb Văn học, Hà Nội. văn bản hiện tồn, đồng thời truy tìm sự vận [3] Vũ Ngọc Khánh (2007), Nghiên cứu văn động của cuộc sống, kinh nghiệm thẩm mĩ, hóa cổ truyền Việt Nam, Nxb Giáo dục, của những giá trị văn hóa và tinh thần dân Hà Nội. tộc trong tính liên tục của thời đại và nhân [4] Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức (2006), loại. Đó cũng là cách nhà thơ làm sống lại Thơ ca Việt Nam, hình thức và thể loại, giá trị truyền thống trong những vần thơ Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. mang hơi hướng hiện đại, để những giá trị [5] Phan Diễm Phương (1999), Lục bát và này còn mãi lan tỏa trong đời sống tinh thần song thất lục bát, Nxb Khoa học xã hội, người Việt hôm nay và cả mai sau. Hà Nội. 6. Kết luận [6] Chu Văn Sơn (2007), Thơ, điệu hồn và Thế giới thơ lục bát Nguyễn Duy đầy ắp cấu trúc, Nxb Giáo dục, Hà Nội. cảnh sắc thiên nhiên, và chân dung người [7] Hoài Thanh (1972), “Đọc một số bài thơ dân quê với những số phận, tính cách, tâm của Nguyễn Duy”, Báo Văn nghệ, số 442 hồn độc đáo. Ông đã tạo nên nhiều biểu ngày 14 tháng 4. trưng về làng quê với những hình ảnh quen [8] Trần Quốc Vượng (2003), Văn hóa Việt thuộc, giản dị và vô cùng thiêng liêng. Nam, tìm tòi và suy ngẫm, Nxb Văn học, Khám phá thơ của Nguyễn Duy là thêm Hà Nội. một lần ta được trở về với cội nguồn văn [9] 119
  12. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4(101) - 2016 120