Lịch sử tiếp biến văn hóa ở Việt Nam
Bạn đang xem tài liệu "Lịch sử tiếp biến văn hóa ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
lich_su_tiep_bien_van_hoa_o_viet_nam.pdf
Nội dung text: Lịch sử tiếp biến văn hóa ở Việt Nam
- NGÔN NGỮ - VĂN HỌC - VĂN HÓA Lý Tùng Hiếu Lịch sử tiếp biến văn hóa ở Việt Nam Lý Tùng Hiếu * Tóm tắt: Vận dụng cách tiếp cận liên ngành, đối chiếu, sàng lọc, sắp xếp các thành tựu nghiên cứu của một số ngành khoa học (khảo cổ học, sử học, ngôn ngữ học, văn hóa học, địa chất học, sinh học ), bài viết phác họa lại bốn chặng đường tiếp biến văn hóa từ thời tiền Việt - Mường đến thời cận đại ở Việt Nam. Từ cội nguồn đầu tiên là văn hóa Môn - Khmer chuyên về nương rẫy và săn câu lượm hái, cư dân tiền Việt - Mường đã tiếp biến văn hóa của người Tày cổ để phát triển nền nông nghiệp lúa nước trong thung lũng và đồng bằng châu thổ. Tiếp đó, họ tiếp biến văn hóa của người Hán, người Thái và chuyển biến thành hai tộc người cư trú liền kề, chia nhau chiếm lĩnh phần lớn địa bàn Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Khi người Việt tái lập nhà nước, mở rộng địa bàn vào Nam, văn hóa Việt đã tiếp biến với văn hóa Chăm, Hoa, Khmer. Khi tiếp xúc với văn hóa Pháp, văn hóa Việt lại biến đổi mạnh mẽ theo chiều hướng Âu hóa và hội nhập với phương Tây. Và văn hóa Việt Kinh biến đổi thì văn hóa Việt Nam biến đổi, vì người Việt Kinh là tộc người đa số, là chủ thể chính của văn hóa Việt Nam. Bốn chặng đường biến đổi lớn trong lịch sử đã làm cho văn hóa Việt và văn hóa Việt Nam tách khỏi cội nguồn của nó rất xa. Tuy nhiên, chính nhờ đó mà sức mạnh tinh thần và vật chất của văn hóa Việt Nam đã được đổi mới và được vun bồi những yếu tố cần thiết để cho nó có thể thích ứng với những bối cảnh và thách thức mới. Từ khóa: Tiếp cận liên ngành; văn hóa; Việt Nam; lịch sử; tiếp biến văn hóa. 1. Đặt vấn đề cách khác, chính nhờ sự giao lưu văn hóa Trong lịch sử nhân loại, hầu như không mà các nền văn hóa và các tộc người mới có tộc người nào tồn tại một cách hoàn toàn có thêm các nguồn lực ngoại sinh để tự điều biệt lập mà không giao lưu văn hóa với các chỉnh, cách tân, phát triển. Nếu tồn tại biệt cộng đồng người lân cận. Sự giao lưu văn lập, không giao lưu văn hóa với bên ngoài, hóa thường dẫn đến tiếp biến văn hóa, tức các nền văn hóa và các tộc người chẳng là sự tiếp thu, biến đổi những yếu tố văn những không thể phát triển mà còn có nguy hóa du nhập từ bên ngoài thành những yếu cơ suy thoái, vì các điều kiện địa lý tự nhiên tố văn hóa tộc người. Để được chấp nhận, của vùng cư trú tất yếu sẽ biến đổi, suy những yếu tố văn hóa mới du nhập không thoái sau một thời gian dài bị con người thể mâu thuẫn với văn hóa truyền thống của khai thác.(*) tộc người. Và trong khi tiếp biến văn hóa, Tuy nhiên, sự giao lưu và tiếp biến văn bản thân nền văn hóa tiếp nhận cũng sẽ biến đổi từng phần để thích ứng, dung hợp với (*) Tiến sĩ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và những yếu tố văn hóa mới. Đó là hai tác Nhân văn, Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh. dụng tích cực của sự giao lưu văn hóa. Nói ĐT: 0909530241. Email: lytunghieu@gmail.com. 53
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 1(98) - 2016 hóa cũng có mặt tiêu cực của nó. Vì có tác những câu trả lời được số đông chấp nhận. dụng làm biến đổi văn hóa tộc người, nên ở Trong bài này, vận dụng cách tiếp cận liên mức độ cao nhất, sự giao lưu và tiếp biến ngành, chúng tôi đối chiếu, sàng lọc, sắp văn hóa cũng có thể dẫn tới sự đồng hóa xếp các thành tựu nghiên cứu liên quan của văn hóa, làm tiêu vong nền văn hóa của tộc một số ngành khoa học (khảo cổ học, sử người. Nguy cơ này đặc biệt rõ ràng khi học, ngôn ngữ học, văn hóa học, địa chất những yếu tố văn hóa mới du nhập đi cùng học, sinh học ) nhằm giải đáp những câu với chủ nhân của chúng là một số lượng di hỏi ấy. dân áp đảo, có tiềm lực văn hóa, kinh tế và 2. Các chặng đường tiếp biến văn hóa quân sự mạnh. Khi đó, sự giao lưu và tiếp Hiện nay, theo các kết quả nghiên cứu biến văn hóa cưỡng bức đối với nền văn khảo cổ học, nền văn hóa tiền sử cổ xưa hóa và các tộc người chủ thể văn hóa bản nhất trên đất nước Việt Nam là văn hóa Sơn địa là khó tránh. Vì vậy, để có thể giao lưu Vi, thuộc hậu kỳ đồ đá cũ, niên đại khoảng tiếp biến văn hóa mà không bị diệt vong 21.000 năm trước, phân bố ở miền núi, từ văn hóa, các nền văn hóa và các tộc người Lào Cai ở phía bắc đến Hà Tĩnh, Quảng cần phải có sức mạnh văn hóa nội tại, đồng Trị, Lâm Đồng ở phía nam; từ Sơn La ở thời phải có khả năng chọn lọc, chuyển hóa phía tây đến vùng sông Lục Nam ở phía những yếu tố văn hóa mới du nhập để bồi đông. Kế tiếp là văn hóa Hòa Bình thuộc sơ bổ cho sức mạnh văn hóa nội tại của mình. kỳ đồ đá mới, niên đại khoảng 10.000 năm Kết quả của các quan hệ giao lưu tiếp trước, được phát hiện ở Hòa Bình, Thanh biến văn hóa đó được phản ánh trong ngôn Hóa, Lai Châu, Sơn La, Nghệ An, Hà ngữ, trước hết là qua các từ ngữ vay mượn Giang, Ninh Bình, Quảng Bình, Quảng Trị, và sao phỏng từ các “ngôn ngữ cấp” để bổ trong đó tập trung nhất tại Hòa Bình và sung từ vựng cho “ngôn ngữ nhận”. Vì vậy, Thanh Hóa. Các bộ lạc chủ nhân của văn khảo sát quá trình tiếp xúc ngôn ngữ thông hóa Hòa Bình chưa biết làm đồ gốm nhưng qua các nhóm từ ngữ vay mượn và sao đã biết trồng rau củ, cây ăn trái và đặc biệt phỏng là một lĩnh vực nghiên cứu có thể là đã biết trồng lúa. Tiếp theo là văn hóa đem lại những thông tin, tri thức có giá trị Bắc Sơn thuộc sơ kỳ đồ đá mới, niên đại về lịch sử giao lưu tiếp biến văn hóa, lịch sử khoảng 8.000 năm trước, được phát hiện ở văn hóa, lịch sử tộc người. Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Lạng Sơn, Đối với văn hóa Việt Nam, kể từ khi Bắc Kạn, Ninh Bình, Quảng Bình Cư dân hình thành văn hóa Việt - Mường cho đến văn hóa Bắc Sơn đã biết làm nông nghiệp, ngày nay, quá trình giao lưu tiếp biến văn biết chế tác đồ gốm, và quần cư thành các hóa đã làm biến đổi sâu sắc văn hóa tộc công xã thị tộc mẫu hệ. Đến khoảng 6.000 người, làm hình thành những nền văn hóa năm trước, văn hóa Bắc Sơn đã phát triển mới và vùng văn hóa mới. Cội nguồn của xuống vùng ven biển. Các di chỉ Đa Bút nền văn hóa ấy ở đâu, và nền văn hóa ấy đã (Vĩnh Lộc, Thanh Hóa), Quỳnh Văn trải qua những chặng đường tiếp biến để (Quỳnh Lưu, Nghệ An), thuộc giai đoạn biến đổi văn hóa như thế nào? Đó là những văn hóa đá mới có gốm, niên đại khoảng vấn đề mà giới khoa học đã phải mất rất 6.000 năm trước, cho thấy chủ nhân của nhiều công sức mới có thể tạm đưa ra chúng là những người săn bắt, đánh cá, biết 54
- Lý Tùng Hiếu nặn gốm bằng tay và chưa dùng bàn xoay, lạc đã lấy nông nghiệp lúa nước làm hoạt biết thuần dưỡng bò, chó, bước đầu biết làm động kinh tế chủ yếu, và họ đã bắt đầu định nông nghiệp [4, tr.7 - 9]. Các nền văn hóa cư trong các xóm làng [4, tr.9]. Như vậy, ở cổ sơ này đều phân bố khá tập trung ở miền thời điểm hơn 4.000 năm trước, nền văn núi Tây Bắc - Bắc Trung Bộ và Việt Bắc - hoá nông nghiệp lúa nước đầu tiên ở Việt Đông Bắc, chứng tỏ đây chính là cái nôi Nam đã được khai sinh. Tuy nhiên, những văn hóa, nơi khởi tạo các tiền đề cho sự ra nông dân trồng lúa trong thời kỳ đầu chưa đời sau đó của các nền văn hóa thuộc thời thể chiếm lĩnh đồng bằng, vì theo tư liệu địa đại kim khí ở trung du và đồng bằng Bắc chất học, cách ngày nay từ 6.000 - 4.000 Bộ - Bắc Trung Bộ. Tuy nhiên, các nền văn năm đã diễn ra thời kỳ biển tiến Holocene hóa khảo cổ này có niên đại quá xa, khó có giữa, nước biển dâng cao hơn hiện nay 3m - thể kết nối được với các tộc người đương 4m và lan sâu vào đất liền. Điều đó giải đại ở Việt Nam. thích tại sao trên các đồng bằng châu thổ Cũng theo các kết quả nghiên cứu khảo thấp ở Việt Nam không có dấu tích của một cổ học, phối hợp với sinh học phân tử, vào nền văn hóa nào được tạo thành trong thời khoảng 8.000 năm đến 6.000 năm trước, kỳ biển tiến này, mặc dù trước đó cư dân việc thuần dưỡng các giống lúa hoang dại của văn hóa Bắc Sơn đã từng hiện diện ở thành các giống lúa nước gieo trồng đã diễn vùng ven biển. ra ở Đông Nam Á. Vùng thuần dưỡng là Nhưng đến khoảng 4.000 năm trước, văn một khu vực hình ô van trải dài từ bang hóa Phùng Nguyên, thuộc hậu kỳ đồ đá mới Assam ở Đông Bắc Ấn Độ đến bang Shan ở và sơ kỳ đồng thau, đã nở rộ trên khắp vùng Bắc Myanmar, các tỉnh ở Bắc Thái Lan, trung du và đồng bằng Bắc Bộ, với các di Bắc Lào, Bắc Bộ Việt Nam, Vân Nam, chỉ được phát hiện ở Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Quảng Tây và Quảng Đông ở Nam Trung Bắc Giang, Bắc Ninh, Hà Tây, Hà Nội, Hải Quốc. Từ khu vực ấy, nghề canh tác lúa Phòng. Chủ nhân của văn hóa Phùng nước đã lan sang Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Nguyên là những bộ lạc trồng lúa nước đã Quốc, Nhật Bản, Đông Nam Á Trên đạt đến trình độ cao trong kỹ thuật chế tác phương diện nhân học, vòng cung ô van ấy đồ đá và biết luyện đồng. Các bộ lạc này chính là vùng cư trú nguyên thuỷ của các theo chế độ công xã nguyên thủy, thường tộc người thuộc ngữ hệ Thái-Ka-đai. Và sống trên những khu đất cao, những đồi gò cho đến ngày nay, các tộc người tách ra từ gần sông nước, trồng lúa nước, nuôi trâu, tổ tiên Thái-Ka-đai ấy vẫn là những cư dân bò, heo, gà, làm đồ gốm bằng bàn xoay [4, trồng lúa nước xuất sắc nhất, đặc biệt là tr.9] Những phát hiện này chứng tỏ, nền trong môi trường các thung lũng, cao nông nghiệp lúa nước ra đời trên các thung nguyên nhiệt đới và cận nhiệt đới. lũng của tỉnh Hòa Bình đã theo đà biển Trên lãnh thổ Việt Nam, tư liệu khảo cổ thoái và theo các dòng sông để nhanh học cho biết trong giai đoạn văn hoá hậu kỳ chóng phát triển xuống đồng bằng châu thổ đá mới, được phát hiện ở Lạng Sơn, Hà ngay khi quá trình biển thoái bắt đầu ở thời Tây, Phú Thọ, Quảng Ninh, Hà Tĩnh, điểm 4.000 năm trước. Quảng Bình, Tây Nguyên và Nam Bộ, niên Nhưng chủ nhân của văn hóa Bắc Sơn và đại khoảng hơn 4.000 năm trước, nhiều bộ văn hóa Phùng Nguyên là tộc người nào? 55
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 1(98) - 2016 Như lịch sử về sau cho thấy, chủ nhân của Ngôn ngữ tiền Việt - Mường dần dần kỹ thuật canh tác lúa nước ở Hòa Bình và ở chuyển hóa thành ngôn ngữ Việt Mường đồng bằng Bắc Bộ trong những thời đoạn chung. Có lẽ ảnh hưởng của ngôn ngữ Tày ấy cũng như sau này. Không phải là cư dân Thái là một trong những nhân tố thúc đẩy Thái-Ka-đai, lại càng không phải là cư dân quá trình chuyển hóa đó”. Môn - Khmer vốn chỉ biết săn câu lượm hái Đến năm 1978, Hà Văn Tấn đã phối hợp và nương rẫy núi cao. Vậy, những cư dân với nhà dân tộc - ngôn ngữ học Phạm Đức đó là ai? Đó là một câu hỏi lớn của lịch sử Dương để đưa ra một giả thuyết chung, dựa mà nếu hóa giải được thì mới hóa giải được trên chứng lý của ngôn ngữ học, khảo cổ cội nguồn của tộc Việt và văn hóa Việt. Vì học và thư tịch cổ [12]. Theo giả thuyết của vậy, một số giả thuyết đã được nêu ra, Hà Văn Tấn, Phạm Đức Dương, tổ tiên ban nhưng do thiếu chứng lý, chẳng có mấy giả đầu của tộc Việt là cư dân tiền Việt - thuyết thật sự thuyết phục được các nhà Mường, một nhóm cư dân theo văn hóa khoa học. Môn - Khmer miền núi, chuyên về săn câu Phải đến giữa thập niên 1970, sau khi lượm hái và nương rẫy. Ngôn ngữ của họ là thống nhất đất nước, các nhà khoa học có tiếng tiền Việt - Mường, thuộc ngữ hệ Nam điều kiện thâm nhập vào địa bàn rừng núi Á. Cho đến ngày nay, nhóm Katuic tách ra Trung Lào và vùng núi Trường Sơn, nghiên từ Proto Việt-Katu, cư trú ở vùng núi Trung cứu văn hóa và ngôn ngữ của các tộc người Lào và vùng núi Trường Sơn của Việt Nam, Môn - Khmer và Việt - Mường ở đó, giới gồm Brũ, Ta’ioh, Katu, vẫn còn giữ truyền khoa học xã hội Việt Nam mới có được thống văn hóa đó. Khi di thực từ vùng núi những câu trả lời thuyết phục hơn. Năm trung tâm Đông Dương đến vùng Tây Bắc 1976, nhà khảo cổ học Hà Văn Tấn đã đưa và miền núi Bắc Trung Bộ Việt Nam, cư ra giả thiết đầu tiên [11] theo đó cư dân văn dân tiền Việt - Mường đã tiếp xúc với nhóm hóa Phùng Nguyên có thể là kết quả hợp cư dân Tày cổ, cư trú ở vùng núi và trung nhất một số bộ lạc tiền Việt - Mường với du quanh vịnh Hà Nội (đồng bằng Bắc Bộ các bộ lạc Tày cổ: “Tiếng Chứt ở Tây ngày nay). Quá trình này bắt đầu từ 2.000 Quảng Bình và tiếng Poọng ở Tây Nghệ năm trước Công nguyên, tương ứng với giai Tĩnh là những đảo ngôn ngữ còn lại từ một đoạn mở đầu của thời đại Hùng Vương khối tiền Việt - Mường ngày xưa phân bố trong truyền thuyết của tộc Việt. Từ xuất rất rộng ở miền khu Bốn cũ và có thể cả phát điểm là văn hóa mưu sinh dựa vào săn một phần vùng Tây Trường Sơn. Cư dân câu lượm hái và nương rẫy, cư dân tiền Việt tiền Việt - Mường này có khả năng là chủ - Mường đã tiếp biến văn hóa của người nhân của những di tích hậu kỳ đá mới hay Tày cổ để phát triển nền nông nghiệp lúa sơ kỳ kim khí có nét gần gũi với văn hóa nước trong thung lũng và đồng bằng châu Phùng Nguyên. Chính một số bộ lạc tiền thổ. Quá trình tiếp biến đó dẫn đến kết quả Việt - Mường này đã thiên di ra phía bắc là hình thành cư dân Việt - Mường. Ngôn khi đồng bằng Bắc Bộ còn ngập nước. Tại ngữ của họ là tiếng Việt - Mường chung. vùng trung du ven đồng bằng, các bộ lạc Trung tâm của khu vực tiếp xúc giữa này đã tiếp xúc với các bộ lạc Tày cổ bấy người tiền Việt - Mường với người Tày cổ giờ phân bố rất rộng quanh vịnh Hà Nội. có thể là địa bàn tỉnh Hòa Bình, nơi hiện có 56
- Lý Tùng Hiếu 501.956 người Mường cư trú trên tổng dân những thành tựu tiếp biến từ văn hóa Tày số toàn tỉnh 785.217 người, bên cạnh cổ mà dứt khoát phải sáng tạo thêm những 207.557 người Việt, 23.089 người Tày. Đó kỹ thuật, phương tiện mới để chinh phục cũng có thể là địa bàn tỉnh Phú Thọ, đất tổ đồng bằng, như truyền thuyết Sơn Tinh - của người Việt, nơi hiện có 1.108.991 Thủy Tinh của người Việt đã thể hiện. người Việt cư trú trên tổng dân số toàn tỉnh Trên cơ sở vừa tiếp biến vừa sáng tạo, cư 1.316.389 người, bên cạnh 184.141 người dân Việt - Mường đã lần lượt phát triển các Mường, 3.526 người Tày (2009). Trong nền văn hóa nối tiếp nhau liên tục trên địa ngôn ngữ và văn hóa của người Mường, bàn trung du và đồng bằng Bắc Bộ - Bắc người Việt hôm nay, vẫn còn những dấu ấn Trung Bộ: văn hóa Phùng Nguyên được nối đậm đà của cả ngôn ngữ, văn hóa Môn - tiếp bởi văn hóa Đồng Đậu thuộc trung kỳ Khmer và Tày - Thái. Trong đó yếu tố Môn thời đại đồng thau, niên đại khoảng 3.070 - Khmer là nền tảng ban đầu, mà Phạm Đức năm trước; văn hóa Gò Mun thuộc hậu kỳ Dương gọi là “cơ tầng”; còn yếu tố Tày - thời đại đồng thau, niên đại khoảng 3.045 Thái là sự bổ sung nội dung và sự định năm trước; và văn hóa Đông Sơn thuộc thời dạng lại hình thức về sau, mà Phạm Đức đại đồ sắt, niên đại khoảng 2.820 năm trước Dương gọi là “cơ chế”. cho đến đầu Công nguyên. Trong văn hóa Nhờ tích hợp được cả hai truyền thống Đông Sơn, kỹ thuật và nghệ thuật chế tác nông nghiệp núi cao và nông nghiệp thung đồ đồng đã đạt đến mức hoàn hảo, và đã có lũng của hai cộng đồng tổ tiên, cư dân Việt nghề luyện sắt với những hiện vật bằng sắt - Mường rất thuận lợi trong việc đổi mới như cuốc, mai, thuổng, mũi tên [4, tr.10]. văn hóa mưu sinh của mình để đến thời Thời kỳ văn hóa Đông Sơn là thời kỳ điểm hơn 4.000 năm trước, khi quá trình văn hóa Việt - Mường đạt tới những đỉnh bồi tụ đồng bằng bắt đầu thì họ đã nhanh cao rực rỡ về phát triển nông nghiệp lúa chóng đem cây lúa đến gieo trồng trên nước trên đồng bằng châu thổ, về luyện kim những dải phù sa, xác lập nền văn minh đồng - sắt, về tổ chức cộng đồng làng - sông Hồng, văn minh nông nghiệp lúa nước, về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, về ý nước. Đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ thức tộc người. Vào khoảng thế kỷ thứ VII thuộc vùng nhiệt đới gió mùa, là vùng đất trước Công nguyên, trên cơ sở nền nông màu mỡ, được hình thành do sự bồi đắp phù nghiệp lúa nước và kỹ thuật kim khí đồng - sa của các hệ thống sông Hồng, sông Mã, sắt phát triển, cư dân Việt - Mường đã xây sông Cả. Trong đó, lớn nhất là lượng phù sa dựng nên nhà nước Văn Lang, nhà nước của sông Hồng, vừa bồi đắp cho châu thổ, đầu tiên ở Đông Nam Á, tọa lạc trên địa vừa giúp cho cư dân Việt ở vùng duyên hải bàn trung du và đồng bằng Bắc Bộ - Bắc có thể liên tục quai đê lấn biển để mở rộng Trung Bộ và vùng cao Đông Bắc lên đến đất đai. Điều kiện tự nhiên như vậy rất thích một phần tỉnh Quảng Tây của Trung Quốc hợp để phát triển nông nghiệp lúa nước, ngày nay. Năm 258 trước Công nguyên, nhưng cũng đặt ra những thách thức lớn cho nhà nước này được tiếp nối bằng nhà nước những người khai phá, đó là giông bão và Âu Lạc do An Dương Vương Thục Phán lũ lụt trên diện rộng. Cho nên, cư dân Việt - thành lập. Nhờ các thành tựu kỹ thuật kim Mường không thể đơn giản dùng mãi khí đồng - sắt, cư dân Việt - Mường đã có 57
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 1(98) - 2016 thể mưu sinh, xây dựng nhà nước và bảo vệ thành tiếng Việt, tiếng Mường. Ngôn ngữ lãnh thổ tộc người hiệu quả hơn. Truyền đã chia tách thì bộ phận Việt - Mường ở thuyết thần Kim Quy của người Việt cho trung du và đồng bằng Bắc Bộ - Bắc Trung thấy mũi tên đồng và nỏ liên châu của nhà Bộ cũng tự chia tách thành người Việt. nước Âu Lạc đã gây trở ngại cho Triệu Đà Trong khi đó, bộ phận Việt - Mường ở như thế nào khi ông ta triển khai kế hoạch miền núi từ Hòa Bình đến Thanh Hóa chịu mở rộng địa bàn, thành lập quốc gia riêng ở ảnh hưởng của văn hóa Hán ít hơn, và từ phương Nam nhân cơ hội nhà Tần sụp đổ. thế kỷ thứ VII lại chịu ảnh hưởng của văn Nhưng đến năm 208 trước Công nguyên, hóa Thái (từ thế kỷ thứ VII đến thế kỷ XIV, Âu Lạc đã bị sát nhập vào Nam Việt, và người Thái đã di dân vào Tây Bắc và miền đến năm 111 trước Công nguyên thì Nam núi Bắc Trung Bộ), nên chuyển biến thành Việt bị sát nhập vào đế quốc Hán, mở đầu người Mường. Khi người Việt giành lại độc thời kỳ Bắc thuộc trong lịch sử Việt Nam. lập và tái lập nhà nước, địa bàn của họ chỉ Trong thời kỳ Bắc thuộc (111 TCN - 938 giới hạn ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ - SCN), vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ Bắc Trung Bộ, và họ phải mất nhiều công - Bắc Trung Bộ là nơi cư dân Việt - Mường sức để có thể thiết lập mối liên minh với tiếp xúc thường xuyên và tiếp biến mạnh Mường và Tày là những tộc người cận cư mẽ văn hóa Hán. Tích Quang, Nhâm Diên có cùng cội nguồn văn hóa. truyền bá phong tục hôn nhân. Sĩ Nhiếp mở Từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ XIX, do nhu trường dạy học Quá trình đồng hóa cưỡng cầu xây dựng và củng cố chế độ phong bức này đi đôi với quá trình đồng hóa tự kiến, Nho giáo và văn hóa Hán đã ngày nhiên của di dân người Hán ở Giao Chỉ Bộ càng thâm nhiễm vào văn hóa Việt, đặc - Giao Châu. Từ đó, cư dân Việt - Mường biệt là trong các tầng lớp quan lại và nho bắt đầu tiếp thu tam giáo. Tuy xu hướng sĩ. Trong thời kỳ này, ý thức đối kháng bất chống Hán hóa và Việt hóa các ảnh hưởng khuất và thường trực trước nguy cơ xâm văn hóa Trung Hoa rất mạnh, nhưng theo lăng từ phong kiến Trung Hoa giảm đi thời gian, những biến đổi sâu sắc về văn tương đối, và do nhu cầu thiết lập ý thức hóa vẫn xảy ra, khiến cho văn hóa Việt - hệ chính thống và củng cố thể chế quốc Mường ở vùng này dần dần cởi bỏ nốt các gia, xu hướng du nhập văn hóa Trung Hoa đặc trưng văn hóa Môn - Khmer, khoác lên ngày càng mạnh dần lên. Trong các triều những đặc trưng của văn hóa Hán. Do các Lý - Trần (1009 - 1400), Phật giáo vẫn còn lỵ sở hành chính, trung tâm giáo dục của ảnh hưởng sâu đậm, kết hợp với Nho giáo Giao Chỉ Bộ - Giao Châu đều bố trí ở đồng và Đạo giáo thành tam giáo đồng quy. bằng Bắc Bộ, nên những biến đổi này diễn Trong thời Hậu Lê (1428 - 1527) và sơ ra ở Bắc Bộ nhanh hơn ở Bắc Trung Bộ, ở Nguyễn (1802 - 1883), Nho giáo được độc trung du và đồng bằng nhanh hơn ở miền tôn, trở thành ý thức hệ chính thống và tôn núi. Do những biến đổi về văn hóa đó, từ giáo chính thống của các tầng lớp trên khoảng thế kỷ VI đến thế kỷ XII, tiếng Việt trong xã hội. cổ đã hình thành thanh điệu [3, tr.23 - 31], Cũng trong thời kỳ tự chủ, từ thế kỷ XI và từ khoảng thế kỷ VIII đến thế kỷ X, đến thế kỷ XVII, lãnh thổ Đại Việt dần dần tiếng Việt - Mường chung đã tự phân ly mở rộng đến Bình Định (1471) và Bình 58
- Lý Tùng Hiếu Thuận (1693). Di dân người Việt đến định biết, thứ văn tự gọi là chữ Quốc ngữ mà cư trên vùng đồng bằng Trung và Nam ngày nay chúng ta vô cùng quý trọng, vào Trung Bộ hầu hết đều có nguồn gốc từ Bắc cuối thế kỷ XIX đã từng được giới giáo sĩ Trung Bộ. Từ đó, vùng văn hóa Trung và và thực dân sử dụng làm công cụ phục vụ Nam Trung Bộ đã hình thành trên cơ sở kế mục tiêu truyền giáo và mưu đồ nô dịch. thừa các đặc điểm của văn hóa Bắc Trung Chính vì thế nên nó không thể nào phổ biến Bộ và tiếp biến các đặc điểm của văn hóa được trong nhân dân và giới sĩ phu yêu Chăm. Ảnh hưởng của văn hóa Chăm đối nước, mặc dù thực dân Pháp rất tích cực với văn hóa Việt ở Trung và Nam Trung Bộ thực hiện chủ trương bãi bỏ chữ Hán và nền đặc biệt rõ rệt ở ba nhóm hoạt động văn hóa Hán học ở ba miền, thiết lập các trường là văn hóa mưu sinh, văn hóa tín ngưỡng - Pháp - Việt. Tình hình đó kéo dài suốt 40 phong tục - lễ hội và văn học, nghệ thuật. năm kể từ khi tờ báo có sử dụng chữ Quốc Một số ảnh hưởng của văn hóa Chăm cũng ngữ đầu tiên là tờ Gia Định Báo ra đời năm đã ngược đường ra Bắc, khiến cho văn hóa 1865. Nhưng từ đầu thế kỷ XX, với phong Việt trong thời tự chủ có thêm các yếu tố trào Duy Tân - Đông Du (1905 - 1908) và Chăm. Từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XVIII, các trào lưu văn học, nghệ thuật sau đó, văn khi lãnh thổ Đại Việt tiếp tục mở rộng đến hóa Việt Nam đã chủ động hội nhập với hết vùng đất Nam Bộ ngày nay, thì di dân văn hóa phương Tây để hiện đại hóa, tự người Việt đến định cư trên vùng đồng cường, thoát ly khỏi vòng ảnh hưởng của bằng Nam Bộ hầu hết đều có nguồn gốc từ văn hóa Trung Hoa. Trong quá trình giao vùng “Ngũ Quảng”, tức Quảng Bình - lưu văn hóa với phương Tây, cư dân Việt Quảng Trị - Quảng Đức - Quảng Nam - đã tiếp thu những yếu tố đáp ứng các nhu Quảng Ngãi, mà đông đảo nhất là bộ phận cầu vật chất và tinh thần để bổ sung vào người Việt cư ngụ ở Nam Trung Bộ, liền kề hành trang văn hóa, và những yếu tố ấy đều với Nam Bộ. Từ đó, văn hóa Việt ở Trung được Việt hóa ở những mức độ khác nhau và Nam Trung Bộ đã mở rộng địa bàn đến trong quá trình du nhập. Tiêu biểu là những Nam Bộ, tiếp biến thêm một số đặc điểm sản phẩm văn hóa gốc phương Tây hoặc có của văn hóa Hoa, văn hóa Khmer để hình ảnh hưởng của phương Tây như chữ Quốc thành vùng văn hóa Nam Bộ. ngữ, trường học kiểu phương Tây, nhà in, Từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, báo chí, tiểu thuyết, thơ mới, Âu phục, áo văn hóa Việt đã tiếp xúc với văn hóa Pháp dài Có thể nói, “xác” của chúng từ phương và biến đổi mạnh mẽ theo chiều hướng Âu Tây lại, nhưng chúng đã được cải biến để hóa cả về vật chất, tinh thần. Trong thời kỳ dung hợp với văn hóa truyền thống của Việt này, Nho giáo được nhà Nguyễn đưa lên địa Nam và được sử dụng vì lợi ích phát triển vị độc tôn nhưng ngày một suy tàn, trở của Việt Nam, cho nên “hồn” của chúng là thành lực cản phát triển và là một nguyên của Việt Nam, và chúng được người Việt nhân khiến cho đất nước mất độc lập về tay Nam vui lòng đón nhận. Kể từ chặng đường Pháp. Giai đoạn đầu thời Pháp thuộc, dân ta này, văn hóa Việt và văn hóa Việt Nam đã chống Âu hóa và cố gắng Việt Nam hóa chuyển sang quỹ đạo hiện đại hóa, hội nhập ảnh hưởng của phương Tây. Chúng ta đều với văn hóa phương Tây và thế giới. 59
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 1(98) - 2016 3. Dấu ấn của tiếp biến văn hóa trong với ngữ âm và từ vựng, tiếng Việt và tiếng tiếng Việt, tiếng Mường Mường vẫn bị rơi rụng các phụ tố tạo từ của Tất cả những chặng đường giao lưu tiếp thời Môn - Khmer. Riêng tiếng Việt còn biến văn hóa đó đều đã để lại dấu ấn sâu sắc vay mượn nhiều cách diễn đạt của tiếng trong ngôn ngữ. Quá trình tiếp xúc ngôn Hán, nhiều kết từ gốc Hán (càng, do, tại, ngữ đi đôi với quá trình giao lưu tiếp biến tuy, tuy nhiên, và, vì ) hình thành các phụ văn hóa với các nền văn hóa bản địa và tố tạo từ gốc Hán Việt (vôi hóa, amper kế, ngoại lai, đã làm cho tiếng Việt, tiếng siêu phẳng, vi sóng ) và đến thời cận đại Mường và các ngôn ngữ tộc người khác ở thì vay mượn nhiều cách diễn đạt của tiếng Việt Nam biến đổi rất sâu xa. Pháp, hình thành các thể loại thơ, văn hiện Ngày nay, về mặt ngữ âm, tiếng Việt, đại với cấu trúc cú pháp và phong cách tiếng Mường đã biến đổi các phụ âm cuối, chức năng phức tạp. hình thành thanh điệu và rơi rụng các âm 4. Kết luận tiết phụ của thời Môn - Khmer. Riêng tiếng Như vậy, từ cội nguồn đầu tiên là văn Việt hiện đại còn rơi rụng các tổ hợp phụ hóa Môn - Khmer chuyên về nương rẫy và âm đầu (bl, tl), và tiếp nhận nhiều phụ âm săn câu lượm hái, cư dân tiền Việt - Mường đầu đơn và kép: p, br, bl, cl, st, (đèn pin, đã tiếp biến văn hóa của người Tày cổ để brôm, blu-dông, clor, Sta-lin ); nhiều phụ phát triển nền nông nghiệp lúa nước trong âm cuối: -r, -l (clor, pa-ra-bol ); nhiều vần: thung lũng và đồng bằng châu thổ. Tiếp đó, oong, ooc, ec (cái xoong, quần soọc, séc ) họ tiếp biến văn hóa của người Hán, người gốc Pháp. Thái và chuyển biến thành hai tộc người cư Về từ vựng, tiếng Việt, tiếng Mường đã trú liền kề, chia nhau chiếm lĩnh phần lớn tiếp nhận vô số từ ngữ gốc Tày, gốc Hán. địa bàn Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ ngày nay. Riêng tiếng Việt hiện đại (đặc biệt là Khi người Việt tái lập nhà nước, mở rộng phương ngữ ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ), địa bàn vào Nam, văn hóa Việt đã tiếp biến còn tiếp nhận rất nhiều từ ngữ gốc Chăm, với văn hóa Chăm, Hoa, Khmer. Khi tiếp gốc Hoa, gốc Khmer, gốc Pháp, với những xúc với văn hóa Pháp, văn hóa Việt lại biến biến thể khác nhau ở những phương ngữ đổi mạnh mẽ theo chiều hướng Âu hóa và khác nhau. Đến mức lớp từ ngữ gốc Môn - hội nhập với phương Tây. Và văn hóa Việt Khmer trong tiếng Việt trở thành thiểu số biến đổi thì văn hóa Việt Nam biến đổi, vì và cũng đã bị biến đổi rất xa cả về thanh, người Việt là tộc người đa số, là chủ thể âm và nghĩa. Đổi lại, tiếng Việt cũng trở chính của văn hóa Việt Nam. Bốn chặng nên phong phú và có khả năng dung hợp rất đường biến đổi lớn trong lịch sử đã làm cho cao giống như văn hóa Việt. Đối với các từ văn hóa Việt và văn hóa Việt Nam tách ngữ ngoại lai, người Việt có thói quen Việt khỏi cội nguồn của nó rất xa. Tuy nhiên, hóa chúng, và những từ ngữ vay mượn chính nhờ đó mà sức mạnh tinh thần và vật được sử dụng lâu đời cũng được người Việt chất của văn hóa Việt Nam đã được đổi mới cảm nhận như là “từ thuần Việt”. và được vun bồi những yếu tố cần thiết để Về ngữ pháp, mặc dù đây là bộ phận bền cho nó có thể thích ứng với những bối cảnh vững nhất của một ngôn ngữ, ít thay đổi so và thách thức mới. Có thể nói, sở dĩ tộc 60
- Lý Tùng Hiếu người Việt có được một sức sống bền bỉ và [3] Haudricourt, A.G. (1954), “De l'origine mãnh liệt trong cuộc đấu tranh sinh tồn với des tons en vietnamien”, Journal asiatique, tự nhiên và xã hội suốt ngần ấy thời gian, là année 1954, bản dịch tiếng Việt của Hoàng nhờ có nội lực tự thân và nhờ có sự tiếp sức Tuệ (1991), “Về nguồn gốc các thanh của của các nền văn hóa cùng nguồn cội hoặc tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 1. tương đồng về cấu trúc, nội dung của các [4] Đỗ Đức Hùng, Nguyễn Đức Nhuệ, Trần tộc người anh em. Thị Vinh, Trương Thị Yến (2001), Việt Nhờ có nội lực văn hóa mạnh, tích hợp Nam những sự kiện lịch sử (từ khởi thuỷ từ các tộc người cộng cư, tộc người Việt đã đến 1858), Nxb Giáo dục, Hà Nội. chủ động tiếp thu, cải biến các yếu tố văn [5] Lý Tùng Hiếu (2014), “Hình thức tổ chức hóa ngoại sinh để làm giàu hành trang, vốn cộng đồng của các nhóm ngôn ngữ tộc liếng văn hóa của mình, để phát triển và bảo người Môn - Khmer ở Việt Nam”, Tạp chí vệ quốc gia dân tộc. Đó cũng là một quy Khảo cổ học, số 4. luật cụ thể của tiếp biến văn hóa ở Việt [6] Lý Tùng Hiếu (2014), “Dấu vết hệ thống Nam như Vũ Khiêu khẳng định: “Dù được thâm nhập vào Việt Nam do thuyết phục phụ tố Nam Á trong tiếng Việt”, Tạp chí hay cưỡng bức, thì văn hóa của kẻ xâm Ngôn ngữ, số 10, số 11. lược cũng chỉ có thể tồn tại, khi nó tuân [7] Lý Tùng Hiếu (2015), “Những ảnh hưởng theo quy luật phát triển bên trong của nền của văn hóa Chăm đối với văn hóa Việt và văn hóa Việt Nam, được Việt Nam hóa và dấu ấn trong ngôn ngữ”, Tạp chí Phát mang sắc thái riêng của dân tộc Việt Nam. triển Khoa học và Công nghệ, Chuyên san Đó là vì Việt Nam đã vốn có một nền văn Khoa học Xã hội và Nhân văn, t.17, số hóa lâu đời tạo nên được những giá trị tinh X3-2014. thần và một hệ tư tưởng vững chắc. Tình [8] Lý Tùng Hiếu (2015), “Ảnh hưởng của Nho hình này đã khiến cho những giá trị văn hóa giáo trong văn hóa Việt Nam”, Tạp chí Khoa được du nhập từ ngoài vào đều phải thông học xã hội Việt Nam, số 4 (89). qua sự lựa chọn của người Việt Nam. [9] Lý Tùng Hiếu (2015), “Các vùng văn hóa Những gì không thích hợp thì sẽ bị đẩy ra. Việt Nam”, Giáo trình đại học, Trường Những gì thích hợp thì được chấp thuận và Đại học Văn hóa Tp. Hồ Chí Minh. cải tạo lại. Thái độ đó là yếu tố cơ bản tạo [10] Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Mạc thành sức mạnh lớn lao thể hiện sức sống Đường (Chủ biên) (2001), Lịch sử Việt bất diệt của bản sắc dân tộc Việt Nam qua Nam, t.1, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh. mọi thử thách” [10, tr.146 - 147]. [11] Hà Văn Tấn (1976), “Nguồn gốc văn hóa Tài liệu tham khảo Phùng Nguyên và vấn đề tiền Việt - Mường [1] Phạm Đức Dương (2007), Việt Nam - (một giả thiết công tác mới)”, Báo cáo tại Đông Nam Á ngôn ngữ và văn hóa, Nxb hội nghị khoa học khoa Sử, Trường Đại Giáo dục, Hà Nội. học Tổng hợp Hà Nội, ngày 21 tháng 6. [2] Phan Ngọc, Phạm Đức Dương (1983), [12] Hà Văn Tấn, Phạm Đức Dương (1978), Tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông Nam Á, Viện “Về ngôn ngữ tiền Việt - Mường”, Tạp chí Đông Nam Á, Hà Nội. Dân tộc học, số 1. 61
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 1(98) - 2016 62