Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến năm 1884 (Phần 2)

pdf 90 trang hapham 230
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến năm 1884 (Phần 2)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdflich_su_viet_nam_tu_nguon_goc_den_nam_1884_phan_2.pdf

Nội dung text: Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến năm 1884 (Phần 2)

  1. Nhà Hồ - giai đoạn Thuộc Minh (1400-1428) I. Nhà Hồ (1400-1407) 1. Những hoạt động của Hồ Quý Ly 1400 Hồ Hán Thương 1401 Quý Ly lên làm vua, lấy lại họ Hồ của Tổ tiên, đổi tên nước là Đại Ngu (vì họ Hồ vốn dòng dõi nhà Ngu bên Trung Hoa). Chưa đầy một năm thì bắt chước nhà Trần, Hồ Quý Ly nhường ngôi cho con, lên làm Thái thượng hoàng. Tuy thế, Hồ Quý Ly vẫn nắm quyền trị nước. Con thứ của Quý Ly là Hồ Hán Thương lên làm vua. Hồ Hán Thương có mẹ là công chúa Huy Ninh, con của vua Trần Minh Tông. Vì thế, khi sai sứ sang cáo với nhà Minh, Quý Ly lấy cớ là nhà Trần đã tuyệt tự nên phải cho cháu ngoại lên thay, tạm giữ quyền điều hành quốc sự. Nhà Minh phong cho Hán Thương làm An Nam Quốc vương. Quý Ly thực hiện được nhiều công trình đáng kể dù thời gian nắm quyền của họ Hồ không bao nhiêu (7 năm). Trước hết phải kể đến việc cải cách dùng tiền giấy của . Cách dùng tiền giấy đã được Hồ Quý Ly cho áp dụng từ năm 1396. Song song với việc phát hành tiền giấy là hủy bỏ việc dùng tiền đồng. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có việc dùng tiền giấy. Sử liệu cho ta biết chi tiết về tiền giấy của như sau: Tờ mười đồng: có hình cây rêu biển Ba mươi đồng: sóng Một tiền: đám mây Hai tiền: rùa Ba tiền: lân Năm tiền: phượng Một quan: rồng Về việc giáo dục, có một số cải cách. Ngay sau khi lên ngôi được 5 tháng, Hồ Quý Ly đã cho tổ chức kỳ thi Thái học sinh, chọn được 20 người đỗ, trong đó có Nguyễn Trãi. Ba năm sau, nhà Hồ ấn định cách thức thi cử. Lệ thi tiến hành liền trong ba năm, vào tháng 8 hàng năm. Thí sinh đậu thi hương rồi thì được miễn lao dịch nhưng năm sau phải thi lại ở bộ Lễ, ai đỗ được bổ dụng. Qua năm thứ ba mới thi hội, nếu đậu, mới được gọi là Thái học sinh. Trong chương trình thi có môn toán và viết tập. Ngoài ra còn có thi Lại viên để tuyển người làm việc trong các lãnh vực sự vụ, hành chính. Quân nhân, phường chèo, người có tội không được dự thi. ở các châu phủ đều có quan giáo thụ trông coi việc học hành. Giới nhà giáo được quan tâm một cách thiết thực. Các quan làm giáo chức đều được cấp ruộng từ 10 mẫu trở lên. Mỗi cuối năm phải chọn kẻ học giỏi tiến vào triều để nhà vua sát hạch bổ sung. Chính sách khuyến học của nhà Hồ đã đưa đến kết quả đáng kể. Năm 1405 có đến 170
  2. người thi đỗ và được bổ dụng vào bộ máy quan chức của nhà Hồ. Chế độ thuế má: Các thuyền buôn bán đều phải chịu thuế tùy theo hạng. Hạng nhất phải đóng 5 quan, hạng nhì 4 quan, hạng ba 3 quan. Nhà Hồ ban hành chính sách hạn điền, quy định số ruộng đất mà các vương hầu, quan lại cùng địa chủ được phép có. Không ai có quyền sỡ hữu trên 10 mẫu ruộng. Nếu quá con số ấy thì biến thành tài sản của nhà nước. Chế độ hạn nô cũng được ban hành, quy định mỗi hạng người chỉ có được một số nô tỳ nhất định. Thuế đinh căn cứ vào số ruộng. Ai có 2 mẫu 6 sào trở lên thì đóng 3 quan, ai có ít hơn số ấy thì đóng ít hơn, ai không có ruộng thì được miễn. Thuế ruộng được định như sau: tư điền đóng mỗi mẫu 5 thăng. Ruộng dâu cũng chia làm ba hạng để đóng thuế. Hộ tịch: Để tăng quân số hòng chống giữ với nhà Minh, nhà Hồ bắt tất cả mọi người từ hai tuổi trở lên đều phải ghi vào sổ hộ tịch. Nhờ thế quân số tăng thêm. Nhà Hồ lập ra bốn kho và trưng tập các thợ thủ công giỏi vào làm ở đấy. Nhà Hồ còn cải cách đóng chiến thuyền. Thuyền có sàn, trên sàn dùng để đi lại, dưới sàn là nơi để chèo chống. Cương vực của Đại Việt dưới thời nhà Hồ được mở rộng về phương Nam. Năm 1042. Hồ Hán Thương thân chinh đi đánh Champa. Vua Chăm dâng đất Chiêm Động để xin hàng. Hồ Quý Ly bắt vua Chăm phải nhường thêm đất Cổ Lũy, gộp lại thành bốn châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa (sau này ghép tên lại thành Thăng Hoa và Tư Nghĩa, tương ứng với vùng Quảng Nam, Đà Nẵng ngày nay). 2. Thất bại của nhà Hồ Trong lúc nhà Hồ đang ra sức xây dựng đất nước thì lại có một thế lực khác lại vận động để lật đổ nhà Hồ. Có người tên là Trần Thiêm Bình, tự xưng là con của vua Trần Nghệ Tông, vượt biên giới sang Trung Hoa, tố cáo với nhà Minh việc họ Hồ cướp ngôi nhà Trần. Nhà Minh nhân cớ ấy cũng muốn xuất thân đánh họ Hồ. Hồ Quý Ly biết tin nên tăng cường phòng thủ. Ông cho đắp thành Đa Bang (Ba Vì, Hà Nội), đóng cọc gỗ trong lòng sông Bạch Hạc và chia quân đi trấn giữ các nơi hiểm yếu. Năm 1406, nhà Minh sai tướng cùng 5.000 quân đưa Trần Thiêm Bình về nước. Hồ Quý Ly cho quân chận đánh quân Minh ở Chi Lăng, bắt được Thiêm Bình, đem giết đi rồi một mặt sai sứ sang nhà Minh biện bạch việc Thiêm Bình nói dối, xin theo lệ tiến công như cũ, một mặt cho tăng cường phòng thủ, mộ thêm lính, đóng cư ở phía Nam sông Nhị Hà dài đến hơn 700 dặm. Nhà Minh cử các danh tướng như Mộc Thạnh, Trương Phụ, Lý Bân đem hai đạo quân sang đánh nhà Hồ. Hai đạo quân ấy vượt biên giới tới đóng ở bờ Bắc sông Bạch Hạc. Biết rằng lòng dân còn luyến tiếc nhà Trần, tướng nhà Minh sai viết kịch kể tội nhà Hồ, tuyên truyền là quân Minh sang để lập nhà Trần lên làm vua. Hịch được khắc vào các tấm ván nhỏ và thả trôi sông. Quân Việt bắt được, lòng chiến đấu tan rã, vì thế quân Minh đi đến đâu thắng đến đấy. Hồ Quý Ly phải vào cố thủ trong thành Đa Bang (Ba Vì, Hà Nội), nhưng không bao lâu sau, Trương Phụ vào Mộc Thạnh phá được thành Đa Bang, Hồ Quý Ly phải chạy lên Hoàng Giang rồi về Nghệ An, đến cửa Kỳ La (Cửa Nhượng, Hà Tĩnh) thì bị quân Minh bắt được. Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương cùng gia quyến bị đưa về Kim Lăng
  3. (Trung Hoa, 1407). Trong số người bị bắt, có con trưởng của Hồ Quý Ly là Hồ Nguyên Trừng, một nhà sáng chế ra súng thần công và là tác giả của tác phẩm “Nam Ông Mộc Lục”, viết về 31 nhân vật nổi tiếng trong lịch sử của Đại Việt. Sau này, nhờ Hồ Nguyên Trừng dâng lên cho Hoàng đế nhà Minh cách thức chế súng thần công, mà cha con Hồ Quý Ly được thả và sinh sống tại Trung Hoa cho đến chết. Triều Hồ đã thất bại dù có nhiều cải cách tiến bộ. Những cải cách của Hồ Quý Ly đụng chạm đến hầu hết các giai tầng xã hội, nhất là tầng lớp quý tộc với các phép hạn điền, hạn nô. Vì thế phản ứng của tầng lớp này rất quyết liệt. Những biện pháp kinh tế của Hồ Quý Ly lại chưa có thời gian để trở thành hiện thực nên chưa lôi kéo được quần chúng nhân dân. Bên cạnh đó, việc cướp ngôi nhà Trần đã làm bất bình giới nho sĩ từng thấm nhuần tư tưởng trung quân ái quốc. Do đó nhà Hồ đã không động viên được sự đoàn kết toàn dân, cuộc chiến chống Minh vì thế thất bại. 3. Thành nhà Hồ Nhà Hồ tuy nắm quyền trong thời gian ngắn ngủi nhưng đã kịp để lại một công trình kiến trúc quan trọng. Đó là thành nhà Hồ. Tòa thành này được Hồ Quý Ly cho xây từ trước khi đoạt ngôi nhà Trần vào năm 1397. Vào năm ấy, Hồ Quý Ly sai Thượng thư Lại bộ là Đỗ Tỉnh đến động An Tôn (Thanh Hóa) khảo sát thực địa rồi xây thành và cung điện. Thành xây trên địa phận ấy nên được gọi là thành An Tôn. Ngày nay, thành nhà Hồ thuộc hai xã Vinh Long và Vinh Tiến, huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa. Thành xây xong, Hồ Quý Ly cho đổi trấn Thanh Hóa thành trấn Thanh Đô và bức vua Trần Thuận Tông bỏ Thăng Long dời đô về đấy (1397). Năm sau, Hồ Quý Ly ép vua phải nhường ngôi cho con là Trần án, mới ba tuổi. Trần án lên ngôi tại thành An Tôn. Từ đấy thành An Tôn được xem như kinh đô mới và được đổi tên là Tây Đô. Vào năm 1400, sau khi phế Trần án, lên làm vua, Hồ Quý Ly cũng đóng đô ở đấy. Tây Đô được đổi tên thành Quốc Đô. Cũng từ đây Hồ Quý Ly điều hành đất nước, đưa ra những chương trình cải cách của mình. Các khoa thi năm Canh Thìn (1400), năm ất Dậu (1400) đều được tổ chức tại đây. Cũng từ đây, Hồ Hán Thương cầm đầu đại binh xuất phát từ cửa chính Nam lên đường tấn công Champa, lấy được hai đất Chiêm Động và Cổ Lũy (1402). Cuộc chiến kháng Minh của nhà Hồ thất bại, quân Minh vào chiếm lấy Quốc Đô, đổi tên Quốc Đô thành phủ Thanh Hóa. Đến sau khi Lê Lợi chiến thắng quân Minh, lên ngôi vua, đóng đô tại Đông Kinh (Thăng Long), thành Thanh Hóa được trở lại tên cũ của thời nhà Trần là Tây Đô. Vào thờ nhà Nguyễn, nhiều địa danh tỉnh, huyện, thành, l?sở được thay đổi để phù hợp với chế độ chính trị của triều Nguyễn. Thành Thăng Long được đổi thành tỉnh Hà Nội, thành Tây Đô lấy tên của làng ở phía cửa Tây của thành là Tây Nhai. Đến đời Minh Mạng (1820-1840) lại đổi thành Tây Giai. Tên thành nhà Hồ mới xuất hiện sau này, từ khi triều đại nhà Hồ được xem là triều đại chính thống trong lịch sử. Theo mô tả của các sách sử cũ thì trong thành nhà Hồ đã từng có nhiều công trình kiến trúc như điện Hoàng Nguyên, cung Diên Thọ, cung Phù Cực, Thái Miếu Nhưng hiện nay không còn một dấu tích gì đáng kể. Chỉ còn tồn tại bức tường thành đồ sộ, chu vi dài
  4. tới hơn 3 km, cao trung bình 5-6m. Thành nhà Hồ được xây với một bình đồ gần vuông. Chiều dài (Bắc và Nam) có 90m, chiều rộng (Đông và Tây) hơn 700m. Bốn mặt thành đều còn tương đối đủ. Mặt ngoài ốp đá, phía trong là tường đất đắp thoải xuống để quân lính di chuyển dễ dàng. Nét đặc sắc của các bức tường thành này là phần ốp bằng những khối đá xanh ở bên ngoài. Các khối đá được đẽo vuông vức, phần nhiều có chiều dài là 1,4m, rộng 0,7m và dày 1m. Riêng ở cửa Tây có những khối đá rất to, dài đến 5,1m, cao và dày 1,2m, nặng hơn 15 tấn. Các khối đá được xếp theo hình chữ công chồng lên nhau, tạo nên độ dốc thẳng đứng ở mặt ngoài, gây trở ngại đến mức tối đa cho kẻ địch muốn vượt thành. Đá được lấy ở dãy núi đá cách thành về phía Nam chừng vài cây số. Đá được chế tác, đẽo gọt tại đây rồi mới được vận chuyển về thành. Người xưa đã vận chuyển và chồng những khối đá to lớn và nặng nề ấy như thế nào? Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy những hòn bi bằng đá ở quanh thành và đưa ra giả thuyết là người xưa có thể sử dụng các hòn bi đá này để di chuyển đá. Khối đá được đặt trên các hòn bi đá, người vận chuyển dùng đòn bẩy để bẩy cho đá trượt trên các hòn bi ấy. Sau khi đã trượt qua một số hòn, người ta lại đem bi đặt đón phía trước cho khối đá tiếp tục trượt qua. Và cứ thế, khối đá nhích lần lần đến nơi. Ngoài ra còn có giả thuyết cho là đá được vận chuyển bằng những chiếc cộ, tức là loại xe bốn bánh bằng gỗ, bên trên có sàn để hàng hóa. Còn việc xếp chồng các khối đá lên nhau theo hình chữ công lại được phối hợp với việc đắp tường đất bên trong. Tường đất được đắp thành những con đường thoai thoải để bẩy đá lên được dễ dàng, sau đó các khối đá được xếp, lớp sau chồng lên lớp trước. Công việc này rất nặng nhọc và đã gây ra tai nạn. Người ta đã tìm thấy một bộ xương người ở một chỗ tường đá lở. Hẳn là người xấu số ấy bị đè giữa hai khối mà đồng đội không thể nào lấy thây ra được vì khối đá quá nặng. Trước kia, trên mặt thành có phần gạch xây lên bên trên mặt đá theo lệnh của Hồ Hán Thương (1401), nhưng ngày nay không còn nữa. Nhiều đoạn mặt thành bị phá lấy đá, chiều cao chỉ còn 0,5m. Có đoạn mất hẳn. Thành có bốn cửa Đông, Tây, Nam, Bắc. Mỗi cửa đều ở vị trí chính giữa các mặt thành và được xây thành vòm cuốn bằng đá khối, kích thước rất lớn. Riêng cửa Nam là cửa chính, lại có đến ba vòm cuốn, vòm giữa to hơn hai vòm hai bên. Cửa Nam là cửa lớn nhất, rộng 38m, coa hơn 10m, xây nhô ra ngoài tường thành 4m. Cả ba vòm cuốn đều rộng 5,8m. Vòm cửa giữa cao 8,5m, hai vòm bên cao 7,8m. Phía trên cửa Nam có lát đá bằng phẳng, nguyên là nền của lầu cửa, nơi vua ngự để duyệt binh hoặc chủ trì các nghi lễ. Các cửa Đông, Tây và Bắc rộng 5,8m, sâu khoảng hơn 13m, cao 5,4m. Mỗi vòm cuốn đều có hai cánh cửa gỗ nặng, dầy và chắc. Dấu vết của các cánh cửa ấy là những lỗ đục vào đá và những lỗ cối lắp ngưỡng cửa. Có thể giải thích cách xây các vòm cuốn như sau: Trước hết, đất được đắp thành hình vòm cửa, sau đó đá mới được xếp lên. Đá ghép vòm được đẽo theo hình múi bưởi. Các chất kết dính được miết vào các khe hở. Xây xong, phần đất bên trong được moi ra để lộ vòm cuốn. Thành được bao quanh bốn mặt bởi một con hào rộng đến 50m, nhưng ngày nay nhiều
  5. chỗ đã bị lấp. Đường qua hào chạy thẳng vào bốn cửa thành được xây cống gạch. Hiện nay ở cửa Tây còn loại cống gạch này. Thành còn có một vòng tre gai bao quanh về phía Tây và phía Bắc, còn phía Nam và Đông có một lũy đất cách vòng hào khoảng 1km. Lũy khá lớn, chạy suốt hai phía mặt thành. Tất cả tạo thành một hệ thống tuyến phòng ngự tiền duyên, bảo vệ cho thành. Thành nhà Hồ được nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn hóa vào đợt đầu tiên, năm 1962. Thành được quy định làm hai khu vực: Khu vực bất khả xâm phạm là toàn bộ bức thành. Tuy đã được quy định bằng văn bản, nhưng khu tích này vẫn bị xâm phạm. Cần thiết phải có biện pháp bảo vệ di sản văn hóa này tích cực hơn. II. Giai đoạn thuộc Minh (1407-1427) Quân Minh chiếm được Đại Việt rồi chia ra làm 17 phủ và đặt chính sách cai trị. Con cháu nhà Trần nổi lên (Giản Định Đế, Trần Quý Khoách) chống cự nhưng không thành công. Cuộc đô hộ của nhà Minh có ngắn ngủi nhưng cũng để lại những hậu quả tai hại cho Đại Việt. Ta có thể đơn cử: Sau khi thắng được nhà Hồ, quân Minh đã bắt rất nhiều phụ nữ, trẻ em, thầy thuốc, thợ giỏi về Trung Quốc. Chúng phá nhiều công trình văn hóa như chuông Quy Điền, vạc Phổ Minh Cùng với việc trên, quân Minh đem rất nhiều sách vở của Đại Việt về Kim Lăng và thiêu hủy. Một số trong những sách của ta bị thất truyền cho đến ngày nay có thể kể: Hình Thư của Lý Thái Tông, Hình Luật của Trần Thái Tông, Khóa Hư Lục của Trần Thái Tông, Binh Gia Yếu Lược và Vạn Kiếp Bí truyền của Trần Hưng Đạo, Tiểu ẩn Thi của Chu An Lạc, Đạo Tập của Trần Quang Khải, Băng Hồ Ngọc Hán tập của Trần Nguyên Đán, Đại Việt Sử Ký (30 quyển) của Lê Văn Hưu, Nhị Khê thi tập của Nguyễn Phi Khanh, Phi Sa tập của Hàn Thuyên. III. Cuộc kháng chiến chống Minh (1418-1427) Đầu năm 1416 tại Lũng Nhai thuộc vùng rừng núi Lam Sơn (huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa), Lê Lợi và 18 người cùng chí hướng làm lễ ăn thề nguyện cùng sống chết để đánh đuổi quân Minh do Mã Kỳ cầm đầu tiến đánh Lam Sơn. Sau khi phục binh đánh thắng trận đầu, nghĩa quân hãy còn yếu sức, chưa quá 2000 người, không chống cự nổi. Bình Định Vương phải bỏ cả vợ con cho địch bắt, cùng nghĩa quân rút lên núi Chí Linh. Khi quân Minh rút đi, nghĩa quân lại trở về Lam Sơn, xây dựng căn cứ, lực lượng chỉ còn khoảng 100 người. Tháng 4 năm 1419, Lê Lợi đem quân đánh chiếm đồn Nga Lạc (Nga Sơn, Thanh Hóa). Quân Minh đem lực lượng đến đánh nghĩa quân phải rút lên núi Chí Linh lần thứ hai và bị quân Minh vây chặt. Trong tình hình nguy cấp đó, Lê Lai đã tình nguyệt mặc ngự bào, giả làm Lê Lợi cưỡi voi xông trận để bị giặc bắt. Giết xong Lê Lai, tưởng là đã trừ được Lê
  6. Lợi, quân Minh rút đi. Nghĩa quân chuyển về Lư Sơn (phía Tây huyện Quang Hóa) để xây dựng căn cứ khác. Năm 1420, sau khi đánh thắng quân Minh một trận lớn ở Thi Lang, Bình Định Vương cho đóng bản doanh tại Lỗi Giang (tên của một đoạn sông Mã). Tại đây, Nguyễn Trãi đã đến yết kiến Lê Lợi và dâng tập Bình Ngô sách (bản chiến lược đánh đuổi quân Minh). Lê Lợi phong Nguyễn Trãi làm tham mưu. Cuối năm 1422, quân Minh tiến đánh nghĩa quân ở Quan Gia (có nơi ghi là Quan Du). Lê Lợi phải rút quân về Chí Linh lần thứ ba. Nghĩa quân thiếu lương thực, Lê Lợi phải giết cả con ngựa đang cưỡi để nuôi quân. Trước tình thế khó khăn đó, để củng cố lực lượng, Lê Lợi xin hòa với quân Minh. Đề nghị ấy được quân Minh chấp nhận vì đã đánh nhau với nghĩa quân mãi mà vẫn không tiêu diệt được (tháng 5.1423). Lui về phía Nam Qua năm 1424, sau nhiều lần mua chuộc dụ dỗ nghĩa quân bất thành, quân Minh chuẩn bị dùng võ lực đàn áp. Theo lời bàn của Nguyễn Chích, Bình Định Vương tiến vào Nghệ An để xây dựng căn cứ mới. Tháng 10 năm 1424, Lê Lợi cho quân đi đánh chiếm đồn Đa Căng (Thanh Hóa). Nghĩa quân đánh tan quân Minh ở Bồ Liệp và Trịnh Sơn (Nghệ An). Đầu năm 1425 tướng nhà Minh là Trần Trí huy động lực lượng ở Nghệ An chặn đánh nghĩa quân làm chủ cả vùng Nghệ An. Bình Định Vương một mặt sai Đinh Lễ đem quân đánh Diễn Châu rồi tiến ra vây thành Tây Đô, một mặt sai Trần Nguyên Hãn, Lê Nỗ đem quân vào Nam giải phóng hai châu Tân Bình, Thuận Hóa, uy thế của Bình Định Vương ngày càng lớn, dân chúng gia nhập nghĩa quân càng nhiều. Các tướng gọi ông là Đại Thiên Hành Hóa (thay trời làm mọi việc).
  7. Nhà Hậu Lê (1428-1527) I. Chính trị - xã hội đại việt dưới đời các vua 1. Lê Thái Tổ (1385 - 1433) Lê Lợi sau khi thắng quân Minh, lên ngôi vua lấy hiệu là Lê Thái Tổ, lấy lại quốc hiệu là Đại Việt. Thời gian làm vua của ông ngắn ngủi, chỉ có sáu năm. Tuy thế, ông vẫn thực hiện được một số việc, đặt nền tảng cai trị các vua kế vị. Để tránh chiến tranh, Lê Thái Tổ sai sứ sang cầu phong nhà Minh và thuận theo yêu sách của nhà Minh là cứ ba năm lại công hai người vàng gọi là “Đại thân kim nhân” để thay thế cho Liễu Thăng và Lương Minh, đã bị giết trong cuộc chiến vừa qua. Để bộ máy nhà nước thích ứng với tình hình đất nước trong thời kỳ xây dựng, vua Lê Thái Tổ buộc các quan lại từ tứ phẩm trở xuống đều phải thi lại khoa Minh Kinh. Khoa thi này còn dành cho các người ẩn dật ra thi để vua chọn nhân tài. Những tăng sĩ, đạo sĩ của Phật giáo và Lão giáo đều ohải thi lại kinh điển của tôn giáo mình, nếu đậu mới cho tiếp tục việc tu hành, còn rớt thì phải hoàn tục làm ăn sinh sống như người thường. Vua cho lập trường Quốc Tử Giám tại Kinh đô để cho con cháu các quan lại và cả con cái thường dân vào học. Vua chia nước ra làm 5 đạo. Mỗi đạo có quan Hành khiển giữ sổ sách về quân và dân. Các xã hơn 100 người thì gọi là đại xã có ba xã quan trông coi. Xã có hơn 50 người được gọi là trung xã, có hai xã quan. Còn tiểu xã thì có 10 người trở lên và chỉ có một xã quan. Quân đội cũng được vua phiên chế lại. Trong công cuộc kháng chiến chống Minh, số quân của Bình Định Vương lên đến 25 vạn. Đến nay vua cho 15 vạn về lại nông thôn làm ăn. Số còn lại thì chia làm năm phiên, một phiên ở lại làm lính còn bốn phiên kia cũng cho về làm ruộng và cứ thế thay phiên nhau. 2. Lê Thái Tông (1423 - 1442) Lê Thái Tông lên nối ngôi vua khi mới có 11 tuổi, có quan phụ chính và là công thần Lê Sát quyết định hết mọi việc. Nhưng khi lớn lên, thấy Lê Sát quá chuyên quyền, vua Lê Thái Tông bèn giết đi và thân chính. Vua chỉnh đốn lại việc thi cử, định lệ là cứ 5 năm thì một lần thi hương, 6 năm một lần thi hội. Từ năm 1442 vua cho khắc tên các tiến sĩ vào bia đá. Từ đấy Đại Việt có tục lệ này. Giữa năm 1442, sau chuyến đi duyệt quan ở Chí Linh và ghé thăm Nguyễn Trãi tại Côn Sơn, vua mất thình lình tại hành cung ở Lệ chi viên (Hà Bắc), bên cạnh Nguyễn Thị Lộ, người thiếp của Nguyễn Trãi. Triều đình đổ cho Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ giết vua và cho tru di tam tộc dòng họ của Nguyễn Trãi. 3. Lê Nhân Tông (1441 - 1459)
  8. Lê Nhân Tông lên làm vua khi mới hai tuổi nên bà Thái Hậu làm nhiếp chính, nhưng đến năm 1459 thì vua bị người anh là Nghi Dân giết đi để cướp ngôi. Nghi Dân ở ngôi 8 tháng lại bị triều đình giết. Người con thứ tư của vua Lê Thái Tông được tôn lên làm vua. Đó là Lê Thánh Tông. 4. Lê Thánh Tông (1442 - 1497) Lê Thánh Tông là một vị minh quân vào hàng bậc nhất của lịch sử Việt Nam. Triều đại của nhà vua đã để lại dấu ấn rõ rệt cho nền văn hóa dân tộc. Các thành tựu có được dưới triều của nhà vua không chỉ thể hiện ở một số lĩnh vực, mà trái lại rất toàn diện, tổng hợp cả về chính trị, kinh tế, quân sự lẫn văn hóa, xã hội. Về cấu trúc hành chính, cơ cấu chính quyền được nhà vua cải tổ từ trung ương xuống đến tận xã. Cơ chế sáu bộ, sáu khoa (Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công) đã được lập ra từ thời Nghi Dân, được giữ lại và đồng thời thêm sáu bậc (lực tự). Các sĩ phu Nho giáo được tham chính rộng rãi. Họ được tuyển qua con đường thi cử. Các quan lại có cuộc sống vật chất tương đối bảo đảm, được cấp ruộng đất và tuế bổng. Cả nước được chia làm 12 đạo, là Thanh Hóa, Nghệ An, Thuận Hóa, Thiên Trường, Nam Sách, Quốc Oai, Bắc Giang, An Ban, Hưng Hóa, Tuyên Quang,Thái Nguyên và Lạng Sơn. Về sau có thêm đạo Quảng Nam. Vua Lê Thánh Tông cho vẽ bản đồ toàn quốc, được gọi là Hồng Đức bản đồ. Đây là bản đồ toàn quốc đầu tiên của đất nước, được hình thành bằng cách tập họp tất cả bản đồ các đạo mà thành. Đồng thời, một bộ sách quan trọng về lịch sử của nước nhà được biên soạn. Đó là bộ “Đại Việt sử ký toàn thư” của Ngô Sĩ Liên. Tác phẩm này dựa trên cơ sở của cuốn “Đại Việt sử ký” của Lê Văn Hưu, viết từ thời Hồng Bàng cho đến đời vua Lê Thái Tổ. Bộ sử này hiện vẫn còn được bảo tồn, chứ không thất truyền như bộ “Đại Việt sử ký” của Lê Văn Hưu. Lê Thánh Tông chăm lo đến nền nông nghiệp và các công trình thủy lợi. Con đê lấn biển còn dấu vết ở Hà Nam Ninh là hậu thân của con đê được đắp dưới đời của nhà vua, nên được gọi là Lê Hồng Đức. Năm 1471, Lê Thánh Tông đích thân cầm quân đi đánh Champa, lấy thêm đất cho đến núi Thạch Bi, đặt ra đạo Quảng Nam. Nhà vua còn sai quân đi đánh, buộc Lão qua và Bồn Man phải quy phục (1479). ở biên giới phía Bắc, Lê Thánh Tông cho phòng giữ chắc chắn. Năm 1483, nhà vua cho soạn một bộ luật mới, đó là bộ “Lê Triều hình luật”, vẫn thường được gọi là “Luật Hồng Đức” bao gồm nhiều lĩnh vực về luật hình, luật hôn nhân, luật hành chính, luật dân sự, luật tố tụng Bộ luật có mặt tiến bộ đáng chú ý là quan tâm đến người nghèo, đối xử tương đối công bằng với phụ nữ hơn so với thời trước. Năm 1494, Lê Thánh Tông lập ra hội Tao Đàn gồm có vua và 25 văn thần. Nhà vua xưng là Tao Đàn Nguyên soái, cùng nhau xướng họa. Hội Tao Đàn chứng tỏ sinh hoạt văn hóa thanh cao của thời ấy. Những bài thơ xướng họa giữa các tao nhân mặc khách ấy được tập hợp thành tập “Quyành Uyển cửu ca”, gồm 300 bài ca tụng thiên nhiên, cuộc sống, con người, tình thương. Hội Tao Đàn ngưng hoạt động vào năm 1497, lúc người Nguyên Soái mất. Bản thân nhà vua cũng sáng tác nhiều thơ văn. Đó là có “Hồng Đức quốc âm thi tập”, “Thập giới cô hồn quốc ngữ văn”, viết bằng chữ Nôm, “Liệt truyện tạp chí”, “Chinh Tây kỷ hành”, “Minh Lương cẩm tú”, “Văn minh cổ xúy”, “Xuân Vân thi tập” viết bằng chữ Hán. Triều đại Lê Thánh Tông kéo dài 38 năm với hai niên hiệu là Quang Thuận (1460 -
  9. 1496) và Hồng Đức (1469 -1497). Đây là giai đoạn cường thịnh của nước Đại Việt. Các vua sau Lê Thánh Tông, trừ Lê Hiển Tông là người hiền lành, biết lo cho dân, còn lại thì sống xa xỉ, bạo ngược và lơi lỏng việc triều đình. Vì thế họ Mạc mới nổi lên được. II. Kinh tế Vào buổi đầu của triều đại mình, nhà Lê đã khôi phục được nền kinh tế và cải thiện được đời sống nhân dân. Vua Lê Thái Tổ định ra phép “quân điền” vào năm 1429. Chính sách này về sau được vua Lê Thánh Tông hoàn chỉnh vào năm 1477. Theo chính sách này, công điền công thổ được đem chia cho mọi người, từ quan lại thần cho đến người già yếu cô quả đều có phần ruộng làm cho khoảng cách giữa người giàu và nghèo không chênh lệch lắm. Phép quân điền này duy trì và phát triển vào các đời sau. Những ruộng bỏ hoang được nhập vào ruộng công làng xã để chia cho nông dân. Về sau, việc chia ruộng được thực hiện sáu năm một lần. Các cơ quan phụ trách các vấn đề liên quan đến nông nghiệp được đặt ra: * Khuyến nông: Cơ quan này chiêu tập các nông dân xiêu tán tha phương cầu thực, đưa họ trở về quê quán làm ăn. * Đồn điền: Đưa nông dân đến đất mới ở khai hoang * Hà đê: Săn sóc hệ thống đê điều. Sinh hoạt thương mại sầm uất. Thăng Long với 36 phố phường được hình thành. Nhiều làng thủ công chuyên nghiệp xuất hiện như gốm Bát Tràng, đúc đồng Đại Bái. Các chợ được nhà nước khuyến khích thành lập, hễ chỗ nào có dân là có chợ. Việc buôn bán với nước ngoài tại Vân Đồn tuy có hạn chế nhưng vẫn phát triển. Các mỏ đồng, vàng bắt đầu được khai thác. III. Phát triển văn hóa 1. Tư tưởng Nhà Lê lấy thuyết Nho giáo của Chu Tử làm mẫu mực cho cách cai trị của triều đại. Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống của thời đại. Có thể nói rằng Nho giáo đã trở thành quốc giáo độc tôn trong triều đình cũng như trong dân gian. Nho giáo bắt mọi người phải tuyệt đối phục tùng quyền hành tối thượng của nhà vua, thần thánh hóa nhà vua và phân biệt rạch ròi ranh giới giữa vua, quan, dân. Các nho sĩ được đào tạo bởi học thuyết Khổng Mạnh tăng lên gấp bội và thay thế hoàn toàn các tăng sĩ trong cuộc sống chính trị, kinh tế văn hóa. Công việc giáo dục Nho học trở thành quy củ. Nhà nước khuyến khích học để làm quan, giúp vua trị nước. Nhà Lê tôn vinh việc học bằng các cuộc lễ xương danh (lễ đọc tên người thi đậu), lễ vinh quy (lễ đón rước người thi đậu về làng) và nhất là lệ khắc tên và lý lịch tiến sĩ vào bia đá Văn Miếu (bắt đầu từ 1422). Vì thế ai nấy đua nhau học hành để tôn tuổi được ghi vào bảng vàng, để gia môn được mở mặt và để làng quê được vinh hiển.
  10. Như thế công việc giáo dục Nho học đã trở thành quy củ. Ngoài trường Quốc Tử Giám ra còn có các trường học ở các đạo, phủ với rất đông học trò. Các kỳ thi được các sĩ tử khắp nơi hưởng ứng. Ví dụ như kỳ thi hội năm 1475 có êến 3.000 thí sinh Nho Giáo đã áp đảo tuyệt đối Phật giáo lẫn Đạo giáo. 2. Văn học Văn học thời Lê có nội dung yêu nước, tiêu biểu là các tác phẩm của Nguyễn Trãi như “Quân trung từ mệnh tập”, “Bình Ngô đại cáo”. Nhóm Tao Đàn tượng trưng cho nền văn học cung đình, ca ngợi phong cảnh và cũng lồng vào đấy lòng yêu nước, yêu thiên nhiên. Có những tác phẩm khoa học quan trọng như “Toán pháp đại thành” của Lương Thế Vinh, “Đại Việt sử ký toàn thư” của Ngô Sĩ Liên, “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi, “Bản thảo thực vật toát yếu” của Phan Phu Tiên. Văn học chữ Nôm tiếp tục phát triển. Lê Thánh Tông sáng tác thơ văn Nôm và khuyến khích triều thần sáng tác theo. Điển hình là “Hồng Đức quốc âm thi tập” do nhiều tác giả viết chứng tỏ đã có một phong trào trước tác bằng thơ chữ Nôm vào thời ấy. Bên cạnh “Hồng Đức quốc âm thi tập” còn có “Thập giới cô hồn quốc ngữ văn” (Mười điều răn cô hồn viết bằng ngôn ngữ nước ta). Tác phẩm này có nội dung răn mười giới trong xã hội thời ấy. Đó là thiền tăng, đạo sĩ, quan lại, nho sĩ, thiên văn địa lý, thầy thuốc, tướng võ, hoa nương, buôn bán và đãng tử. Qua mười điều răn này, tác phẩm phản ảnh được hoạt động của từng hạng người trong khung cảnh xã hội thời ấy. IV. Nhân vật tiêu biểu Triều đại nhà Lê ghi vào sử sách những nhân vật anh hùng, lỗi lạc độc đáo như Lê Lợi, lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Lam Sơn; Lê Lai (?-1419) liều mình cứu chúa; Nguyễn Chích (1382 -1448), danh tướng đã đưa ra chiến lược lấy Nghệ An làm hậu phương lớn cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn; Nguyễn Xí (1398 - 1465), vị tướng trẻ đã bắt sống được hai tướng Minh là Hoàng Phúc và Thôi Tụ; Trần Nguyên Hãn (?-1428), người chiến thắng trận Xương Giang; Lê Thánh Tông, bậc minh quân của lịch sử Việt Nam; nhà toán học Trạng nguyên Lương Thế Vinh (1441-?); sử gia Ngô Sĩ Liên, tác giả cuốn Đại Việt sử ký toàn thư; Tổ nghề in, nhà văn Thám hoa Lương Nhữ Học và đặc biệt là Nguyễn Trãi, một con người toàn tài, đã được UNESCO phong làm danh nhân văn hóa thế giới. Nguyễn Trãi không những giỏi thơ phú, văn chương mà còn là một nhà chính trị uyên bác đồng thời lại tinh thông luật pháp, địa lý, lịch sử Thêm vào đó, ông đã cống hiến hết mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, cho công cuộc xây dựng đất nước và đào tạo các thế hệ tiếp nối. Cuộc đời của con người sống vì lý tưởng ích quốc lợi dân ấy, éo le thay, lại gặp phải thảm cảnh “tru di tam tộc”. Nguyễn Trãi vốn là dòng dõi Trần Quang Khải về phía mẹ, là cháu ngoại của Trần Nguyên Đán, Tư đồ dưới thời Trần Nghệ Tông. Phía nội của Nguyễn Trãi lại là nhà khoa bảng. Cha là Nguyễn Phi Khanh, đổ Bảng nhãn vào năm 1374. Trong cuộc kháng chiến chống Minh, Nguyễn Trãi đem hết tài năng, sức lực phò trợ cho Lê Lợi. Những chiến thuật chiến lược của ông đã được Lê Lợi sử dụng thành công trong công cuộc đánh đuổi quân Minh. Tư tưởng lớn của ông “lấy đại nghĩa để thắng hung
  11. tàn, đem chí nhân để thay cường bạo” là đường lối của cuộc kháng chiến. áng văn bất hủ “Bình Ngô đại cáo” là bản tuyên ngôn về sự độc lập, tự cường của dân tộc. Cuộc kháng chiến thành công, là người có công lớn, Nguyễn Trãi được vua Lê Thái Tổ phong tước hầu và ban cho quốc tính. Ông đứng đầu hàng ngũ quan văn, nhận trọng trách soạn thảo các chiếu, chỉ của vua. Về sau, ông phụ trách các kỳ thi tiến sĩ. Vụ án Lệ chi viên xảy ra, ông bị giết oan. Hai mươi hai năm sau, năm 1464, dưới triều bậc minh quân Lê Thánh Tông, ông mới được minh oan. Nguyễn Trãi để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm bất hủ. Ngoài “Bình ngô đại cáo”, ông là tác giả của công trình Lam Sơn thực lục, viết về lịch sử cuộc khởi nghĩa Lam Sơn; Luật thư, nền tảng cho pháp chế thời Lê; Dư địa chí, ghi chép về địa lý Đại Việt; Băng Hồ di sự lục, viết về Trần Nguyên Đán, úc Trai thi tập Năm 1980, ghi nhận về giá trị của cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi, tổ chức UNESCO công nhận Nguyễn Trãi là danh nhân văn hóa thế giới. V. Di sản văn hóa tiêu biểu Triều Lê là triều phong kiến đầu tiên trong lịch sử Việt Nam đã áp dụng chặt chẽ học thuyết Nho giáo vào việc trị nước. ảnh hưởng Nho giáo bao trùm lên mọi hành vi, hành động của con người. Giới nho sĩ xuất hiện và đóng một vai trò quyết định trong xã hội. Sự kiện thoát khỏi ảnh hưởng của Phật giáo cũng đặt dấu ấn lên kiến trúc của nhà Lê. Không như những triều đại trước, những công trình quan trọng của thời này không phải là chùa chiến nữa mà là cung đình, lăng tẩm, nơi tượng trưng cho quyền uy thiên sử. Thành Thăng Long (tên gọi chính thức của thời này là Đông Kinh), được xây thêm hai vòng thành phía trong là Hoàng Thành và Cung thành. Bên cạnh các kiến trúc cung đình, còn có một kiến trúc tượng trương cho tư tưởng Nho giáo, cho tâm hồn, tâm huyết của kẻ sĩ thời ấy là Văn Miếu. Văn miếu - quốc tử giám Văn miếu tại Hà Nội, nơi tượng trưng cho Nho học Việt Nam, được xây dựng dười đời vua Lý Thánh Tông vào mùa thu, tháng tám, năm Canh Tuất (1070). Đồng thời tượng của Khổng Tử và 72 đồ đệ cũng được tạc và thờ tại đây. Sáu năm sau (1076), vua Lý Nhân Tông lại lập thêm Quốc Tử Giám để làm nơi dạy học. Thoạt đầu đấy chỉ là nơi học tập của các hoàng tử, dần dần về sau mở rộng ra đến con quan và con dân. Sang đời nhà Trần, vào năm 1234, Văn Miếu và Quốc Tử Giám được sửa sang lại. Đến đời nhà Lê, là một nhà nước trọng Nho, xem Nho giáo như là quốc giáo, thì Văn Miếu và Quốc Tử Giám lại càng được chú trọng hơn nữa. Kiến trúc này được trùng tu cả thảy 4 lần vào các năm 1511, 1567, 1762 và 1785, nhiều công trình mới được thực hiện như bia đá đề tên tiến sĩ. Qua đến đời nhà Nguyễn, Văn Miếu - Quốc Tử Giám cũng được trùng tu và bổ sung thêm Khuê Văn Các, điện Khải Thánh. Hiện trạng khu di tích ngày nay đã qua nhiều lần trùng tu nhưng vẫn giữ được vẻ cổ kính, thâm nghiêm với diện tích là 24.000m2. Tường bao quanh Văn Miếu cũng như các bức tường ngăn chia từng khu bên trong đều được xây bằng gạch Bát Tràng. Mọi kiến trúc ở đây đều được xếp đặt cân xứng theo trục Bắc Nam. Nếu không tính phần Tiền án, thì có
  12. tất cả năm khu. Phần Tiền án là từ Tứ trụ cho đến tường ngoài bao quanh các kiến trúc bên trong. Thật ra, trước đây, Tứ trụ được nối liền về phía trước với một bối cảnh thiên nhiên là Thái hồ và gò Kim Châu ở giữa. Nhưng về sau, vì nhu cầu giao thông, người ta không để ý đến việc duy trì di tích văn hóa, đã phóng một con đường, tách Thái hồ với toàn cục của Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Sau Tứ trụ là đến cổng Tam quan với chữ “Văn Miếu Môn”. Cổng Tam quan có một cấu trúc bề thế, gồm hai tầng, cửa cuốn tròn cùng cửa thông gió hình chữ thọ, kết hợp với lan can và các hoa văn tạo nên một giá trị nghệ thuật cao. Cổng “Đại Trung môn” bắt đầu khu thứ hai. Đỉnh mái được trang trí bằng điển tích cá vượt vũ môn. Hai bên Đại Trung môn có hai cổng nhỏ đề chữ “Thành Đức” và “Đạt Tài”. Theo cổng Đại Trung môn đi thẳng vào là “Khuê Văn Các” (Gác đẹp của Sao Khuê, tượng trưng cho văn học). Hai bên Khuê Văn Các cũng có hai cổng nhỏ có tên là “Súc văn” (văn chung hàm súc) và “Bỉ văn” (văn chương sáng đẹp). Khuê Văn Các được xây dựng vào thời nhà Nguyễn năm 1805. Khuê Văn Các bằng gỗ, nhẹ nhàng tựa trên bốn cột gạch lớn, có tám mái cong, 4 mặt có bốn cửa sổ hình tròn, dáng dấp rất thanh thoát. Tiếp đến là “Thiên Quang Tỉnh” (Giếng trời trong sáng). Thiên Quang Tỉnh là một chiếc hồ hình vuông, mỗi cạnh 28m. Hồ lộng bóng Khuê Văn Các với các cửa sổ tròn, nói lên quan niệm trời tròn, đất vuông, âm dương hòa hợp của người xưa. Hai bên hồ là khu vườn bia đá tiến sĩ. Những bia này được dựng dưới thời nhà Lê, để biểu dương những người thi đậu. Tất cả bia đều dựng trên lưng rùa, tượng trưng cho sự vĩnh cửu. Hiện nay còn 82 bia ghi tên các tiến sĩ thời Lê từ năm 1442 đến 1779 (về sau, nhà Nguyễn cho xây Văn Miếu tại Huế, nằm gần chùa Thiên Mụ). 82 tấm bia ghi tên 1305 nhân vật, trong đó có 17 trạng nguyên, 19 bảng nhãn, 47 thám hoa, 284 hoàng giáp và 938 tiến sĩ. Các tấm bia, được khắc lần lượt theo năm tháng suốt từ đầu đời Lê (1428 - 1458), qua đời Mạc (1528 - 1529), đến thời Trịnh Nguyễn (1600 - 1771) là một chứng liệu quý báu của lịch sử. Các bia của thế kỷ 15 có những nét chạm khắc đơn sơ với những hoa văn viền bia là những chuỗi hình cong, thấp thoáng một số nét của hoa, lá. Các bia của thế kỷ 17 lại được trang trí thêm các mô típ mới như hoa sen, hoa phù dung, là, phượng, khỉ. Các tấm bia của thế kỷ 18 thì càng phong phú hơn, có mây hóa rồng, cá hóa rồng, lưỡng long chầu nguyệt Khu tiếp nối là nhà bái đường cùng hữu vu và tả vu. Nhà bái đường là nơi thờ Khổng Tử, hai dãy nhà tả vu hữu vu ở hai bên dùng làm nơi thờ 72 vị tiền hiền. Các bậc danh nho Việt Nam như Nguyễn Trãi, Trương Hán Siêu cũng được thờ ở đấy. Ngoài ra, ở bên trái, còn có chiếc chuông lớn tên là “Bích Ung đại chung” (chuông lớn của nhà Giám). Chuông này do Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm (Thân phụ của thi hào Nguyễn Du) đứng rạ điều hành đúc vào năm 1768. Bên phải là một tấm khánh bằng đá hai mặt đều khắc chữ. Một mặt có hai chữ Thọ Xương, mặt kia là một bài minh. Sau cùng là Quốc Tử Giám. Quốc Tử Giám được đổi thành đền Khải Thánh dưới triều Nguyễn vì vào thời này Quốc Tử Giám được dời vào huế. Khu này đã bị tàn phá từ thời chiến tranh, không còn lưu lại gì. Văn Miếu - Quốc Tử Giám hiện nay đang được tôn tạo lại. Các bia tiến sĩ vốn trước đây được để ngoài trời, đã được làm nhà che để chống lại sự tàn phá của thời gian. Các
  13. nhà che bia đã được khánh thành vào ngày 28.10.1994. Giữa các khu nhà che bia có nhà đình bia, bên trong dựng hai tấm bia cổ nhất của năm 1442 và 1448. Do yêu cầu hài hòa với cảnh quan cổ kính của khu vườn bia, nhà che bia được tạo dựng với dáng vẻ kiến trúc đời Lê, đồng thời lại thiên về thời Nguyễn để phối hòa với Khuê Văn Các và Thiên Quang Tỉnh. Văn miếu - Quốc Tử Giám là trường Đại học đầu tiên của Việt Nam, tại đây, hàng ngũ trí thức, “rường cột” của đất nước được đào tạo từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, những nhân tài đã xuất thân từ đấy. Những nhân vật ấy đã cống hiến cho Tổ quốc như các nhà sử học Ngô Sĩ Liên, Phan Huy ích, nhà bác học Lê Quý Đôn, Phùng Khắc Khoan, nhà chính trị Ngô Thì Nhậm, Phạm Công Trứ Văn Miếu - Quốc Tử Giám thật là một biểu tượng sâu sắc cho tinh hoa của lịch sử và văn hóa Việt Nam. Một di tích khác, cũng không kém phần quan trọng về mặt lịch sử văn hóa của triều Lê là Lam Kinh, kinh đô thứ hai của triều Lê và đồng thời là nơi an nghỉ thân xác của các vị vua Lê. Lam Kinh nằm bên cạnh sông Chu, ở xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa, cách trung tâm thành phố 50 km về phía Tây. Đây là đất khởi nghĩa Lam Sơn xưa. Dòng Ngọc Khê (tên gọi của sông Chu ở đoạn chảy qua Lam Kinh) uống cong dưới chân núi Mục Sơn, một ngọn núi đá vôi, vốn là tiền đồn xưa của nghĩa quân Lam Sơn. Lam Kinh được xây dựng sau khi Lê Lợi mất. Theo di chúc của người anh hùng Lam Sơn muốn được an táng tại quê hương, vua Lê Thái Tông đưa người về chôn cất tại đây (1433) và cho xây dựng nhiều cung điện để có chỗ nghỉ ngơi và thiết triều mỗi khi về thăm mộ và làm lễ. Các vua sau tiếp tục xây cất thêm lầu đài, thành quách, lăng mộ. 13 đời vua và hoàng hậu triều Lê đều được an táng tại đây tạo nên một quần thể kiến trúc có quy mô lớn.Theo dấu tích còn sót lại, thì Lam Kinh gồm hai phần chính, khu cung điện ở phía trong tường thành và khu lăng mộ nằm ngoài tường thành. Khu cung điện xưa có nghi môn, hồ bán nguyệt, bạch kiều, chính điện hình chữ công, tả vu, hữu vu, sân chầu, nhà hậu tẩm, vòng tường bao quanh bằng đá chu vi 940m, cao 2,5m. Tất cả lầu đài, cung điện đều đã bị sụp đổ hoang tàn chỉ còn lại những bậc thềm bằng đá chạm trổ mây, rồng cùng hơn 50 viên đá tảng, đường kính chừng 80cm, nằm rải rác trên một mặt bằng rộng lớn, giúp ta hình dung được phần nào hình ảnh của một cung điện xa xưa. Khu bia mộ nằm ngoài vòng tường thành thì lại được bảo quản gần như nguyên vẹn. Đó là bia mộ Vĩnh Lăng (Lê Thái Tổ), xây vào năm 1433; bia Chiêu Lăng (Lê Thánh Tông - 1498); bia Du Lăng (Lê Hiển Tông - 1505); bia Hoàng hậu Ngô Thị Ngọc Dao Các mộ đều có tường gạch hình vuông bao quanh, mỗi cạnh 4,33m, phía trên mộ là đất phủ cỏ đơn giản. Hai bên mộ có tượng quan hầu, sư tử, tê giác Mỗi mộ đều có bia ghi công tích, đặt cách xa mộ khoảng 100m. Trong các bia, bia Vĩnh Lăng là to và bề thế nhất. Bia bằng đá, cao 2,97m, rộng 2,4m, dày 0,27m. Bia được đặt trên một con rùa bằng đá nguyên khối, dài 3m. Đỉnh bia tạc theo hình vòng cung 120o. Ba cặp rồng đối xứng nhau vòng theo đỉnh bia. Hai bên thành bia cũng tạc rồng ẩn mây. Đế bia là những họa tiết hình sóng nước. Bia gồm 300 chữ, do Nguyễn Trãi soạn, ghi lại thân thế và sự nghiệp của vua Lê Thái Tổ. Nét chữ khắc sắc sảo chứng tỏ trình độ tinh vi của nghệ nhân. Một ngôi nhà che bia được xây dựng cách đây hơn 30 năm để bảo vệ tác phẩm điêu khắc độc đáo này. Vì giá trị lịch sử văn hóa của Lam Kinh, chính phủ đã phê chuẩn dự án phục hưng,
  14. trùng tu, tôn tạo khu di tích này từ năm 1995 đến năm 2005. Riêng năm 1995, đã có trùng tu một số di tích quan trọng như bia Vĩnh Lăng, mộ vua Lê Thái Tổ, nhà bia và mộ vua Lê Thánh Tông, mộ của Hoàng hậu Ngô Thị Ngọc Dao Hàng năm, vào ngày 22 tháng 8 âm lịch, dân chúng tụ tập về Lam Kinh để tưởng nhớ đến vua Lê Thái Tổ cùng các minh quân của triều Lê. Một lễ hội tưng bừng được tổ chức vào dịp này, thường được gọi là Hội đền vua Lê. Buổi lễ, thực ra, đã được cử hành vào ngày 21 vì trước khi mất, Lê Thái Tổ có dặn dò con cháu phải làm giỗ cho Lê Lai, người đã hy sinh thân mình để cứu Lê Lợi trong lần bị vây khổn trên núi Chí Linh vào năm 1419. Con cháu và đời sau thực hiện lời nói ấy, nên trong dân gian có câu: “Hai mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi”. Phụ họa cho buổi tế lễ là các điệu hát, múa huê tình, đặc biệt có lệ đánh trống đồng. Trống được đặt úp trên miệng một hố nhỏ, tiếng trống đánh ra, vì thế, trở nên âm vang và dũng mãnh. Nhân dịp này, dân chúng miền núi đem các sản vật địa phương đến, tạo thành ra một phiên chợ độc đáo, có đủ các loại quý hiếm như mật ong rừng, trầm, quế, nhung hưu, nai, là những thứ mà dân miền xuôi ít có dịp được mua tận gốc. Vì thế, ngày hội đã lôi cuốn đông đảo người dự lãm, cả miền xuôi lẫn miền ngược.
  15. Nhà Mạc - Nam Bắc Triều (1527 - 1592) 1. Nhà Mạc được thành lập Mạc Đăng Dung: 1527 - 1529 Mạc Đăng Doanh: 1529 - 1539 Mạc Phúc Hải: 1539 - 1547 Mạc Phúc Nguyên: 1547 - 1562 Mạc Mậu Hợp: 1562 - 1592 Vào đầu thế kỷ 16, nhà Lê suy yếu dần. Dưới triều vua Lê Tương Dực (1510 - 1516) việc triều chính hết sức rối ren. Vua ham chơi bời bỏ bê việc nước, bên ngoài giặc giã nổi lên khắp nơi. Trong đám giặc ấy có Trần Cao là mạnh nhất. Trần Cao tụ tập được nhiều người, lập thành quân đội, có khi đến đánh tận sông Nhị Hà, suýt chiếm thành Thăng Long. Tình hình căng thẳng đến thế mà Lê Tương Dực không màng để ý đến. Một thuộc tướng là Trịnh Duy Sản bất mãn, đang đêm đen quân vào giết Lê Tương Dực đi để lập vua khác (1516). Sau đó, cả triều đình lẫn Trịnh Duy Sản đưa lên rồi giết đi mấy lần vua. Kinh đô rối loạn, có khi không biết ai là vua nữa. Cuối cùng, Lê Chiêu Tông được đưa lên ngôi, nhưng vì nội loạn phải vào trú ở Tây Kinh (1516). Qua năm 1519, đại thần Mạc Đăng Dung rước được vua về lại Kinh thành rồi tóm thâu mọi quyền hành và loại trừ dần dần các đại thần có thế lực khác. Mạc Đăng Dung (1483 - 1541) vốn người Cổ Trai, huyện Nghi Dương (Hải Phòng), là cháu bảy đời của Mạc Đỉnh Chi. Lúc còn nhỏ, gia đình rất nghèo, làm nghề đánh cá. Sau này nhờ sức mạnh hơn người, thi đỗ Đô lực sĩ, làm đến chức Đô chỉ huy sứ dưới triều Lê Uy Mục. Sau khi giúp vua Lê Chiêu Tông trở về lại được Kinh thành thì uy quyền của Mạc Đăng Dung rất lớn, lấn át cả vua, hống hách ra vào cung cấm, các quan có ai can gián thì sai người giết đi. Vua Lê Chiêu Tông thấy thế lo sợ, tìm cách giết Mạc Đăng Dung, nhưng âm mưu không thành, vua phải bỏ chạy trốn lên Sơn Tây (1522). Tại đây Lê Chiêu Tông lại bị một thuộc tướng buộc phải về Thanh Hóa. ở Kinh thành, Mạc Đăng Dung lập hoàng đệ Xuân lên ngôi, đó là Lê Cung Hoàng. ổn định xong việc ở Kinh thành, vào năm 1524 Mạc Đăng Dung đem quân vào đánh Thanh Hóa, bắt được vua Chiêu Tông và giết đi. Ba năm sau (1527), Mạc Đăng Dung ép triều thần thảo bài chiếu truyền ngôi cho nhà Mạc rồi lên làm vua, lập triều đại mới, đặt niên hiệu là Minh Đức. Để trừ hậu loạn, Mạc Đăng Dung cho giết vua Lê và bà Thái hậu đi. Các quan trong triều, các bậc khoa giáp tự tử để giữ chữ trung của Nho giáo rất nhiều. Để vổ yên lòng người, Mạc Đăng Dung giữ lại hầu hết luật lệ của nhà Lê. Công việc gì
  16. cũng theo lệ trước mà giải quyết. Mạc Đăng Dung còn truy tặng cho những người tuẫn tiết vì nhà Lê, đồng thời tìm con cháu của các quan đại thần cũ mời ra phong quan tước, mong họ về giúp mình. Làm vua được ít lâu, đến năm 1529 Mạc Đăng Dung truyền ngôi cho con là Mạc Đăng Doanh còn mình thì tự xưng là Thái Thượng Hoàng. Nhà Minh nhân dịp Đại Việt gặp nội loạn, đem quân đến đóng gần cửa Nam Quan, truyền hịch hứa sẽ thưởng quan tước và hai vạn bạc cho ai bắt được cha con Mạc Đăng Dung đồng thời sai người sang bảo Mạc Đăng Dung vội vàng sai sứ sang hàng. Năm 1540, quân Minh tiến đến ải Nam Quan, Mạc Đăng Dung sợ hãi, bèn cùng các quan lại cả thảy hơn 40 người tự trói mình đến ải Nam Quang lạy phục xuống đất, nộp đổ điền thổ và sổ dân đinh, rồi lại xin dăng đất năm động để sáp nhập vào đất Khâm Châu của Trung Quốc. Ngoài ra, họ Mạc còn đem vàng bạc tặng riêng cho quan nhà Minh nữa. Nhờ thế, nhà Minh phong cho Mạc Đăng Dung chức Đô thống sứ, hàm quan nhị phẩm nhà Minh. 2. Cuộc nổi dậy của nhóm Phù Lê Trong suốt thời kỳ trị vì, nhà Mạc phải đối phó vất vả chống các nhóm phù Lê. Triều thần nhà Lê, phần tự tử theo vua, phần về mai danh ẩn tích. Phần còn lại tích cực chiêu tập người đứng lên phù Lê. Cuộc phù Lê lúc đầu gặp nhiều thất bại, nhiều tôn thất nhà Lê bị giết chết. Cuối cùng phong trào phù Lê dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Kim, đóng được căn cứ tại Sầm Châu (Lào) và phát triển lực lượng Nguyễn Kim là người làng Gia Miêu, phủ Hà Trung, trấn Thanh Hóa. Ông là con trai của Nguyễn Hoằng Dụ, đại tướng của nhà Lê, đã có công bảo vệ thành Thăng Long khi loạn Trần Cao nổi lên. Nguyễn Kim được vua Lào cho nương náu ở Sầm Châu. Ông chiêu mộ hào kiệt rồi cho người tìm ra con út của vua Lê Chiêu Tông và tôn lên làm vua. Đó là Lê Trang Tông (1533). Họ ở chiến khu Sầm Châu tám năm trường, đến năm 1540 mới đủ thực lực và thời cơ để trở về, tiến đánh lấy được Nghệ an rồi thâu phục được Tây Đô (Thanh Hóa - 1543). Nhóm phù Lê làm chủ được phía Nam, được sách sử gọi là Nam triều (từ Thanh Hóa trở vào). Trong khi ấy nhà Mạc vẫn cầm quyền ở Thăng Long, và được gọi là Bắc Triều. Các hào kiệt kéo về Nam hưởng ứng rất đông như Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Trịnh Kiểm thanh thế của Nam triều ngày càng lớn, chỉ chờ cơ hội là tràn ra đánh Bắc triều. 3. Thế cuộc Nam Bắc triều Trong khi lực lượng của Nam triều đang phát triển thì Nguyễn Kim bị một hàng tướng nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đánh thuôc độc chết trong một cuộc hành quân tiến đánh Bắc triều. Tất cả binh quyền lọt vào tay người con rể lạ Trịnh Kiểm.
  17. Trịnh Kiểm liền tổ chức hậu cứ vững mạnh, lập hành điện tại đồn Vạn Lại (Thanh Hóa) để cho vua Lê ở rồi lo chấn chỉnh lực lượng, giữ thế thủ ở Thanh Hóa. Trong nội bộ Nam triều có nhiều thay đổi. Vua Lê Trang Tông mất vào năm 1548, Thái tử Duy Huyên được Trịnh Kiểm lập lên làm vua chỉ 8 tháng, thì cũng mất. Trịnh Kiểm kiếm một người cháu họ xa của Lê Thái Tổ lập lên làm vua. Người này ở ngôi được 16 năm thì bị Trịnh Tùng giết (Trịnh Kiểm đã mất vào năm 1570). Một người khác trong họ Lê được họ Trịnh đưa lên, đó là Lê Thế Tông. Trong khi ấy, về phía nhà Mạc thì cũng trải qua mấy lần đổi ngôi. Đến đời Mạc Phúc Nguyên, lực lượng của phe này đã tương đối ổn định lại thêm có Mạc Kính Điển, chú của Mạc Phúc Nguyên là một vị tướng thao lược. Vì thế nhà Mạc toan tính việc đánh Nam triều, đồng thời Nam triều cũng chuẩn bị tấn công ra Bắc. Phía Bắc triều đánh vào Thanh Hóa 10 lần. Phía Nam triều tiến ra Bắc đánh cả thảy sáu lần, nhưng hai bên bất phân thắng bại. Cán cân lực lượng hai bên thay đổi từ sau khi Mạc Kính Điển chết (1580). Quân Nam triều lại càng ngày càng mạnh dưới sự lãnh đạo của Trịnh Tùng. Trịnh Tùng nhiều lần đem quân ra đánh Bắc triều và đến năm 1592 thì bắt được vua Mạc là Mạc Mởu Hợp, đem giết đi rồi rước vua Lê Thế Tông về Thăng Long. Tàn quân nhà Mạc chạy lên mạn Bắc và được sự ủng hộ của nhà Minh nên tập hợp được lực lượng và hùng cứ ở đất Cao Bằng. Từ đấy, tuy phía họ Trịnh đã làm chủ Thăng Long nhưng không thể nào kiểm soát được vùng Cao Bằng.
  18. Đại Việt Thời kỳ phân liệt - Trịnh - Nguyễn (1600 - 1777) Họ Trịnh: Trịnh Tùng : 1570 - 1623 Trịnh Tráng: 1623 - 1657 Trịnh Tạc: 1657 - 1682 Trịnh Căn: 1682 - 1709 Trịnh Cương: 1709 - 1729 Trịnh Giang: 1729 - 1740 Trịnh Doanh: 1740 - 1767 Trịnh Sâm: 1767 - 1782 Trịnh Cán: 1782 - 1783 Trịnh Khải: 1783-1786 Họ Nguyễn: Nguyễn Hoàng: 1600 - 1613 Nguyễn Phúc Nguyên: 1613 - 1635 Nguyễn Phúc Lan: 1635-1648 Nguyễn Phúc Tần: 1648-1687 Nguyễn Phúc Trăn: 1687-1691 Nguyễn Phúc Chu: 1691-1725 Nguyễn Phúc Trú: 1725-1738 Nguyễn Phúc Khoát: 1738-1765 Nguyễn Phúc Thuần: 1765-1777. I. Quá trình phân ly hai đàng Trong lúc họ Trịnh loay hoay tập trung sức lực hòng tiêu diệt họ Mạc thì một thế lực khác nổi lên và lần lần tách ly khỏi quỹ đạo của họ Trịnh. Đó là họ Nguyễn, mà khởi đầu là Nguyễn Hoàng, con của Nguyễn Kim. Sau khi Nguyễn Kim bị hại chết, quyền hành đều ở trong tay của Trịnh Kiểm, Trịnh Kiểm nắm hết quyền lãnh đạo nhưng vẫn lo sợ các con của Nguyễn Kim tranh giành nên đã giết người con lớn của Nguyễn Hoàng là Nguyễn Uông, Người con khác của Nguyễn Kim là Nguyễn Hoàng giả bị bệnh tâm thần để tránh nguy hiểm và cho người đến hỏi kế Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trạnh Trình trả lời: “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân” (một dãy Hoành Sơn kia có thể yên thân được muôn đời). Nguyễn Hoàng bèn nhờ chị là Ngọc Bảo xin cùng Trịnh Kiểm cho ông vào trấn đất Thuận Hóa. Năm 1558 Nguyễn Hoàng được phép vào Nam, bèn đem theo họ hàng của mình cùng
  19. nhiều quân sĩ, nhân tài gốc Thanh Nghệ. Ông đóng tại xã ái Tử, huyện Vủ Xương, thành lập bộ máy hành chính trên vùng đất mới và tập trung vào việc khai phá đất đai. Công việc của ông đạt được nhiều kết quả. Năm 1569, ông được vua Lê cho trấn nhậm luôn cả đất Quảng Nam. Sau khi Trịnh Tùng đuổi được họ Mạc lên Mạn Bắc và đưa vua Lê về thành Thăng Long vào năm 1592, Nguyễn Hoàng ra chầu vua và ở lại đấy trong tám năm để giúp Trịnh Tùng đánh họ Mạc. Ông đã đánh thắng nhiều trận to ở Sơn Nam, Hải Dương, Võ Nhai hai lần hộ giá vua Lê đến Nam Quan hội kiến cùng sứ nhà Minh. Vào năm 1600, biết Trịnh Tùng không tin tưởng mình, nhân cớ đi dẹp loạn, Nguyễn Hoàng đem binh tướng thẳng về Nam và ở lại đấy luôn. Nguyễn Hoàng vẫn giữ hòa khí với Trịnh Tùng, đem con gái là Ngọc Tú gả cho Trịnh Tráng, con của Trịnh Tùng. Đồng thời, Nguyễn Hoàng ra sức xây dựng cơ đồ, chú trọng đặc biệt đến việc phát triển nông nghiệp và trọng dụng nhân tài. Theo sách sử cũ thì ông là người khoan hòa và công bằng, được dân hai trấn Thuận Hóa và Quảng Nam yêu mến. Cuộc sống của dân chúng ở đấy tương đối sung túc và bình yên, chợ không hai giá, nhiều năm được mùa. Nguyễn Hoàng là người mộ đạo Phật. Ông cho xây dựng nhiều chùa, trong đó có chùa Thiên Mụ xây cất vào năm 1601. Năm 1613, Nguyễn Hoàng mất, người con thứ sáu là Nguyễn phúc Nguyên lên nối nghiệp, được gọi là chúa Sãi. Chúa Sãi có nhiều nhân tài giúp sức như Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Hữu Tiến, Đào Duy Từ. Đào Duy Từ lập đồn Trường Dục ở huyện Phong Lộc (Quảng Bình) và xây một cái lũy dài ở cửa Nhật Lệ (Đồng Hới). Lũy này vẫn thường được gọi là lũy Thầy. Sau khi có được đồn lũy che chở, chúa Sãi ra mặt không phục tùng họ Trịnh nữa và cho tướng ra lấn đất cho đến phía Nam sông Gianh. Từ đó hai bên đánh nhau. Đại Việt bị chia làm hai, phía Bắc từ sông Gianh trở ra thuộc về chúa Trịnh, được gọi là Đàng Ngoài. Phía Nam từ sông Gianh trở vào thuộc quyền họ Nguyễn. Trên danh nghĩa, cả hai họ Trịnh Nguyễn vẫn tôn xưng vua Lê, nhưng ở Đàng Ngoài, quyền hành nằm trong tay chúa Trịnh, còn ở Đàng Trong, sau nhiều lần muốn thụ phong An Nam quốc vương không thành thì đến năm 1744 Nguyễn Phúc Khoát tự xưng vương. Hai Nhà Trịnh Nguyễn đánh nhau bảy lần từ 1627 đến 1672 bất phân thắng bại. Thấy không thể áp đảo được nhau, cuối cùng cả hai lấy sông Gianh làm giới hạn. Từ đấy dân chúng không thể vượt qua sông Gianh để buôn bán với nhau nữa. II. Các vấn đề chính trị - kinh tế 1. Đàng Ngoài a. Vấn đề nhà Mạc Chúa Trịnh ở Đàng Ngoài dù đã đành đuổi được họ Mạc ra khỏi Thăng Long nhưng không tiêu diệt được lực lượng này mà cuối cùng phải chấp nhận cho họ Mạc hùng cứ ở đất Cao Bằng. Họ Mạc thỉnh thoảng lại đem quân quấy nhiễu làm cho quân Trịnh phải vất
  20. vả đi đánh dẹp. Bấy giờ ở Trung Hoa, nhà Thanh đuổi được nhà Minh để chiếm ngôi Hoàng Đế (1644). Họ Mạc lại cũng nhận được sự ủng hộ của triều đình này. Nhờ thế kể từ khi Mạc Mởu Hợp bị Trịnh Tùng bắt giết đi, họ Mạc truyền đến được ba đời nữa là Mạc Kính Cung, Mạc Kính Khoan và Mạc Kính Vũ. Về sau, họ Mạc theo Ngô Tam Quế, một phản thần của nhà Thanh cai trị Vân Nam và Quảng Tây. Sau khi Ngô Tam Quế chết, họ Trịnh liền cho quân tấn công Cao Bằng (1667), Mạc Kính Vũ cùng tùy tùng chạy sang đất Trung Hoa, nhưng bị nhà Thanh bắt và đem trao cho họ Trịnh. Từ đó mới dứt hẳn nhà Mạc. b. Tổ chức cai trị đàng Ngoài Vua Lê được tôn xưng nhưng thực chất chỉ làm vì mà thôi. Bao nhiêu quyền hành đều ở trong tay chúa Trịnh cả. Phía vua Lê vẫn được gọi là Triều đình còn phủ chúa Trịnh thì gọi là Phủ Liêu. Mọi quyết định đều từ Phủ Liêu mà ra, thậm chí bổng lộc và việc thế tập của vua cũng do Phủ Liêu quyết định. Chúa Trịnh lại hay lập các vua trẻ con, phần lớn được nuôi dưỡng trong phủ chúa cho dễ điều khiển. Chúa Trịnh còn tự quyền phế lập các vua nữa. Vua nào chống đối sự chuyên quyền của họ Trịnh đều bị giết hại như Lê Anh Tông (1573), Lê Kính Tông (1619), Lê Duy Phương (1732) Trong bộ máy quan chức của họ Trịnh, ngoài quan văn và quan võ, còn có thêm quan giám. Quan giám được chúa Trịnh tin dùng và cho tham dự vào việc chính trị. Đó là điểm khác biệt của đời chúa Trịnh so với các triều trước. Việc này được duy trì cho đến đời Trịnh Doanh thì bỏ (1740). Quan lại được tuyển lựa qua các kỳ thi văn, võ, hoặc được tiến cử. Cứ vài năm, Phủ Liêu lại tổ chức một lần khảo hạch khả năng của các quan. Ai không đạt thì bị truất chức. Để tránh việc ức hiếp, tham nhũng của quan lại, chúa Trịnh cấm các quan không được lập trang trại tại địa phương cai trị của mình. Tuy thế, về sau luật lệ của chúa không còn nghiêm minh nữa. Tệ nạn mua quan bán tước bắt đầu từ thời Trịnh Giang và cứ bành trướng lên mãi. Từ đó, hễ có tiền là có thể làm quan, không cần thông qua học vấn. c. Về kinh tế Nông nghiệp: Dưới thời này, ruộng đất công ngày càng bị thu hẹp, còn ruộng đất tư ngày càng phát triển. Chiến tranh, nạn cường hào làm cho nông dân xiêu tán, để đất lại cho cường hào chiếm đoạt. Các trang trại do các nhà quyền thế mua rẻ lại của nông dân được thành lập và lấn chiếm đất công. Vì ruộng đất công không còn nhiều nên phép lộc điền cũng không thực hiện được. Nhà nước chỉ ban rất ít đất cho một số quan lại hạn chế. Các quan tại chức được ấp tiền gạo thu của dân chứ không có lộc điền. Sản xuất nông nghiệp có phát triển vào đầu thế kỷ 17. Có câu ca dao nói lên việc ấy: “ời vua Vĩnh Tộ (1619-1628) lên ngôi. Cơm thổi đầy nồi, trẻ chẳng thèm ăn”. Nhưng về sau, nông nghiệp càng ngưng trệ, đê điều không được tu bổ. Đê vỡ, hạn hán thường xảy ra làm cho nền sản xuất nông nghiệp suy sụp. Thủ công nghiệp: Trong khi nông nghiệp không có những bước thuận lợi thì thủ công nghiệp lại phát triển đều đặn. Nhiều làng thủ công nổi tiếng xuất hiện như làng gốm Bát Tràng (Hà Nội), Thổ Hà (Bắc Ninh), Hương Canh, Đình Trung (Vĩnh Yên) làng tơ Thanh Oai, làng sa lĩnh La Cả, La Khê (Hà Đông) làng nhuộm Huê Cầu, các làng dệt vải ở Hải Dương nhờ sự phát triển mạnh của thủ công nghiệp mà Đàng Ngoài đã một thời phồn
  21. thịnh trong việc buôn bán với nước ngoài. Nghề khai mỏ cũng phát triển rất mạnh do nhu cầu kim loại của nhà nước. Đó là các mỏ vàng, đồng, kẽm, thiếc ở tại các vùng Tuyên Quang, Hưng Hóa, Thái Nguyên, Lạng Sơn. Sản lượng khai thác khá lớn, ví dụ như mỏ đồng Tụ Long ở Tuyên Quang nộp thuế vào năm 1773 đến một vạn cân đồng. Hoạt động thương mại trong nước và đối với nước ngoài phát triển đáng kể. Các trung tâm buôn bán thu hút khách ngoại quốc là Kẻ Chợ (Thăng Long) và Phố Hiến. 2. Đàng Trong a. Khai thác đất phương Nam Sau khi ly khai khỏi Đàng Ngoài, đối với chúa Nguyễn, việc mở mang lãnh thổ trở thành một nhu cầu bức thiết hòng có đủ thực lực mà cân bằng hoặc áp đảo chúa Trịnh. Vì thế các chúa Nguyễn tích cực đẩy mạnh cuộc Nam tiến. Năm 1611, có cớ là người Chăm xâm lấn biên giới, Nguyễn Hoàng sai một tướng tài là Văn Phong đem quân đi đánh lấy phần đất phía Bắc của Champa và lập ra phủ Phú Yên. Sau đó, chúa cho chiêu tập lưu dân đến định cư ở đấy và khai thác đất đai. Năm 1653, nhân người Chăm hay đánh đòi lại Phú Yên, quân chúa Nguyễn lại tấn công xuống đến tận bờ Bắc sộng Phan Rang. Vua Chăm là Bà Thấm phải xin hàng. Chúa Nguyễn lấy phần đất mới chiếm lập thành dinh Thái Khang. Sau khi chấm dứt cuộc chiến với họ Trịnh (1727 - 1772), họ Nguyễn tích cực đẩy việc mở rộng lãnh thổ về phương Nam. Năm 1693, lấy cớ vua Chăm đánh phá phủ Diên Ninh, chúa Nguyễn Phúc Chu cử Nguyễn Cảnh đem quân đi đánh Champa, bắt được vua Chăm là Bà Tranh cùng các cận thần trong đó có Kế Bà Tử. Vua Chăm cùng thuộc tướng bị đưa về giam giữ ở Ngọc Trản (Thừa Thiên). Chúa Nguyễn nhập phần đất cuối cùng của Champa vào Đàng Trong lập nên trấn Thuận Thành rồi đưa Kế Bà Tử về đấy làm Phiên Vương, hàng năm phải nộp cống. Vùng đồng bằng sông Cửu Long được các chúa Nguyễn khuyến khích khai hoang. Năm 1659, nhờ sự hỗ trợ của chúa Nguyễn, Battom Reachea, một hoàng thân Chân Lạp lên nắm quyền và đến năm 1663 thì tức vị, trở thành Paramaraja VIII. Vì thế, Batom Reachea chấp nhận việc triều cống cho chúa Nguyễn, đồng thời cho phép người Việt được định cư trên lãnh thổ Chân Lạp, được quyền sở hữu đất đai mà họ đã khai thác cùng những quyền lợi khác giống như một công dân Khmer vậy. Batom bị người con rể ám sát vào năm 1672, hoàng gia Chân Lạp lâm vào hoàn cảnh cực kỳ rối ren. Phó Vương Uday Surivans (tức là Ang Tan) cùng người cháu là Ang Non chạy sang nương nhờ chúa Nguyễn, trong khi tại kinh đô Oudong cuộc tranh ngôi vua xảy ra quyết liệt giữa người con rể và các người con của Batom Reachea. Ang Non được chúa Nguyễn nâng đỡ, đóng quân ở Prey Nokor. Năm 1679, một nhóm người Trung Quốc cầm đầu là Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên không chịu thần phục nhà Thanh, đã bỏ xứ, đem 50 chiếc thuyền đến đầu chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn thâu nhận và phong tước cho họ rồi sai quân đưa họ vào đất Đông phố (Gia Định) và Mỹ Tho để khai khẩn đất hoang, làm ăn buôn bán. Họ lập được hai trung tâm buôn bán nổi tiếng là Nông Nại đại phố và Mỹ Tho đại phố.
  22. Đến thập niên 90 tình trạng bất ổn của Hoàng gia Chân Lạp vẫn kéo dài. Cuối cùng một người con của Batom Reachea lên ngôi vua. Đó là Jayajettha III mà sách sử Việt Nam gọi là Nặc Thu. Quan hệ giữa Jayajettha III cùng chúa Nguyễn trở nên căng thẳng khi Jayajettha III cho giăng xích sắt ngang sông M?ong. Chúa Nguyễn hạ lệnh cho quân tiến phá xích sắt ấy đi (1689) và nâng đỡ hoàng thân Ang Non, khi ấy đang đóng tại Pey Nokor. Thoạt tiên Jaysjettha Iii nhờ Xiêm chống Ang Non, nhưng sau lại phải rước Ang Non về làm Phó vương. Sau khi Ang Non chết (1697), ông lại gã con gái của mình cho con trai của Ang Non là Ang Em (Nặc Yêm). Vào năm 1698 sai Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược đất Đồng Nai, đặc nền móng hành chính của Đàng Trong tại đây Nguyễn Hữu Cảnh thiết lập các xã, thôn, phường, ấp, định thuế, lập sổ đinh, sổ điền. Ngoài ra ông còn lập hai xã Thanh Hà và Minh Hương để quy tụ những người Hoa. Tất cả những công việc này được tiến hành nhanh chóng và hòa bình dưới sự công nhận mặc nhiên của Jayajettha III. Vào đầu thế kỷ 18, lãnh thổ của Đàng Trong được mở rộng thêm nhờ việc sáp nhập của đất Hà Tiên. Nguyên Hà Tiên do một người Trung Hoa là Mạc Cửu mở mang, lập được 7 thôn nhưng thường bị quân Xiêm quấy nhiễu. Vì thế năm 1708,Mạc Cửu đến Thuận Hóa xin quy phục. Chúa Nguyễn Phúc Chu bèn lập Mạc Cửu làm Tổng binh Hà Tiên và đổi đất Hà Tiên thành trấn. Năm 1732, Nặc Thu chính thức nhường cho chúa Nguyễn đất Mỹ Tho và Long Hồ. Năm 1756 vua Chân lạp lúc bấy giờ là Nặc Nguyên nhường tiếp hai phủ Tầm Bôn và Lôi Lạp (tức là Long An và Gò Công ngày nay - 1756). Một cuộc nhượng đất khác xảy ra vào năm 1761 sau khi chúa Nguyễn giúp Nặc Tôn lên làm vua. Quà tạ ơn của Nặc Tôn đối với chúa Nguyễn là đất Tầm Phong Long (Sóc Trăng, Trà Vinh). Sau đó Nặc Tôn còn tặng cho Mạc Thiên Tứ (đã thay cha cai quản đất Hà Tiên) năm phủ khác để tạ ơn đã giúp mình trong khi còn bôn ba. Mạc Thiên Tứ sáp nhập năm phù này vào đất Hà Tiên. Như thế, trong một thế kỷ, chúa Nguyễn đã tiến đến mũi Cà Mau, làm chủ được một vùng rộng lớn từ sông Gianh cho đến vịnh Thái Lan. b. Tổ chức cai trị Tổ chức bộ máy cai trị của chúa Nguyễn chuyển dần theo quá trình phân ly của mình, từ bộ máy của một chính quyền địa phương dần dần trở thành bộ máy chính quyền của một nước riêng biệt, không những độc lập mà còn có phiên quốc nữa. Thời Nguyễn Hoàng bộ máy cai trị vẫn là bộ máy chính quyền địa phương do triều đình vua Lê cử vào. Nguyễn Phúc Nguyên lên thay cha (1613) đã sửa đổi tổ chức cai trị, ông bổ nhậm lại quan lại thay cho những người đã được chúa Trịnh cử vào trước đây. Nguyễn Phúc Nguyên đổi “dinh” Thuận Hóa thành “phủ” Thuận Hóa. Đứng đầu triều thần là tứ trụ đại thần gồm Nội tả, Ngoại tả, Nội hữu, Ngoại hữu. Các tổ chức địa phương vẫn được gọi la dinh. Cho đến đời Nguyễn Phúc Khoát thì Đàng Trong có tất cả 12 dinh và một trấn: 1. Dinh Bố Chính (dinh Ngói) 2. Dinh Quảng Bình (dinh Trạm) 3. Dinh Cựu (dinh Cát, dinh ái Tử)
  23. 4. Chính dinh (dinh Phú Xuân) 5. Dinh Lưu Đồn (dinh Mười) 6. Dinh Quảng Nam 7. Dinh Phú Yên 8. Dinh Bình Khang 9. Dinh Bình Thuận 10. Dinh Trấn Biên 11. Dinh Phiên Trấn 12. Dinh Long Hồ 13. Trần Hà Tiên Đứng đầu các dinh là Trấn Thủ, Cai bạ, Ký lục. ở cấp phủ, huyện có tri phủ, tri huyện. Ngoài ra còn có một ngạch quan riêng gọi là Bản đường quan, chuyên trách việc thu thuế. Quan lại không có lương mà được cấp lộc điền và thu thuế của dân làm ngụ lộc. Lúc đầu quan lại được bổ nhiệm theo cách tiến cử nhưng về sau theo thi cử. Việc bổ nhiệm quan lại không tiến hành thường xuyên mà tùy theo nhu cầu của bộ máy. Vào cuối thời kỳ chúa Nguyễn, tệ nạn mua quan bán tước cũng bành trướng như ở Đàng Ngoài vậy. Các quan cũng được thăng chức nếu nộp một số tiền lớn. c. Kinh tế Trên vùng đất mới mở, ngoài một số vùng đã được dân địa phương khai phá, còn lại là đất hoang ngút ngàn. Chúa Nguyễn tích cực khuyến khích việc đưa lưu dân vào khai thác các vùng đất mới này. Các đồn điền được thành lập làm cho sức sản xuất tăng cao, nhất là đất Gia Định “ruộng không cần cày, phát cỏ rồi cấy, cấy một hột thóc, gặt được 300 hột” (Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, bản dịch, Hà Nội, 1964). Hỗ trợ cho việc khai hoang tại Nam Bộ và tạo thuận tiện trong việc di chuyển, buôn bán, các chúa Nguyễn đã cho đào các con kênh quan trọng. Năm 1705, một con kênh được đào, nối liền hai nguồn của hai con sông Vũng Cù và Mỹ Tho. Nguyên ở hai nguồn sông này có hai điểm đô hội là chợ Thị Cai và chợ Lương Phú. Con kênh đào đã nối được hai điểm ấy lại. Tuy thế, con kênh này có giáp nước (nơi gặp nhau của hai dòng thủy triều) nên bùn cỏ hay bị tích tụ, phải đảo vét luôn. Qua đến đầu nhà Nguyễn, kênh được đào vét quy mô hơn và được đặt tên là sông Bảo Định. Một con kênh khác được đào vào năm 1972 kéo dài sông Cát ra phía Bắc (Chợ Lớn hiện nay). Kênh có hình thẳng nên được mang tên là kênh Ruột Ngựa. Tuy thế, vì đáy kênh cạn nên thuyền bè chỉ đi lại được khi nước lên mà thôi. Đến đầu đời nhà Nguyễn, kênh cũng được đào vét rộng ra. Dù việc đào kênh tại Nam Bộ vào thế kỷ XVII, XVIII chưa có quy mô lớn, nhưng nó đã tạo được tiền đề cho sự phát triển mạnh mẽ vào thế kỷ XIX. Hoạt động thủ công cũng phát triển, những làng thủ công nổi tiếng như xã Phú Trạch, huyện Hương Trà chuyên dệt chiếu lát, xã Đại Phước và xã Tuy Lộc (huyện Lệ Thủy) chuyên dệt chiếu cói. Đặc biệt nghề làm đường rất thịnh vượng. Đường đã từng là món hàng thu hút khách nước ngoài và trở thành phương tiện cho các chúa Nguyễn đổi lấy vũ khí của Tây phương. Ngoài ra, còn có những nghề thủ công mới hình thành nhờ vào sự giao lưu với người Tây phương như nghề làm đồng hồ, nghề đúc đồng. Có người thợ đồng hồ nổi tiếng Nguyễn Văn Tú đã từng theo học hai năm tại Hà Lan và đã truyền nghề lại cho gia đình. Tay nghề của họ đã làm cho người ngoài phải thán phục. Nghề đúc đồng có
  24. được những bước phát triển kỹ thuật Tây phương, nhất là trong lãnh vực đúc súng thần công nhờ có sự cộng tác của người thợ đúc Bồ Đào Nha Joao Da Cruz. Hoạt động khai mỏ của Đàng Trong không được sôi động bằng Đàng Ngoài nhưng cũng đem lại cho chúa Nguyễn một nguồn lợn nhuận đáng kể. Khoáng sản được khai thác chủ yếu là sắt và vàng. Mỏ sắt có ở xã Phú Bài thuộc huyện Phú Vang, xã Điển Phúc thuộc Bố Chính. Mỏ vàng thì ở nhiều nơi nhưng nổi tiếng nhất là các mỏ ở Quảng Nam. Tại đây sông cũng có vàng mà núi cũng có vàng. Một ngày rửa đãi đất có thể tìm đầy cả bong bóng trâu. Vàng cũng như đường đã làm cho khách buôn nước ngoài đổ xô đến Hội An để tìm mua. Buôn bán cũng được phát triển. Những trung tâm buôn bán lớn mọc ra như Nông Nại Đại Phố, hà Tiên và nhất là Hội An. Các chúa Nguyễn không duy trì được tình trạng phồn thịnh này vào cuối thế kỷ 18. Tham nhũng, cường hào đã là những nguyên nhân chủ yếu đưa tầng lớp nông dân vào cuộc khởi nghĩa Tây Sơn. 3. Việc giao thiệp với các nước phương Tây Cả hai chúa Trịnh và Nguyễn đều mở cửa giao thiệp với nước ngoài nhất là với các người phương Tây. Hai thành phố quan trọng trong việc ngoại thương thời ấy là Phố Hiến ở Đàng Ngoài và Hội An ở Đàng Trong. Các người ngoại quốc có quyền lập thương điếm tại hai thành phố trên. Các hàng hóa xuất khẩu là tơ, lụa, kỳ nam, trầm hương, tiêu, quế, đường, vàng, tổ chim yến Hàng nhập chủ yếu là vũ khí và các đồ thủ công tinh xảo của Tây Phương. Vào đầu thế kỷ 17, bạn hàng quan trọng của cả hai Đàng là Trung Quốc và Nhật Bản. Cả hai Đàng đều cố gắng chiếm độc quyền mối quan hệ với Nhật Bản, nhưng người Nhật vẫn duy trì cuộc trao đổi tam phương, cung cấp vũ khi cho chúa Trịnh lẫn chúa Nguyễn. Thương buôn Nhật nhờ đó làm giàu nhanh chóng. Việc buôn bán này kéo dài cho đến năm 1636 khi nhà cầm quyền Nhật Bản cấm người Nhật xuất dương thì chấm dứt. Người Tây Phương đầu tiên đến lập quan hệ buôn bán với Đại Việt là người Bồ Đào Nha. họ đến Hội An vào khoảng giữa thế kỷ 16 và thực hiện thương mại ấn - ấn (tức là việc buôn bán được thực hiện trong vùng từ ấn Độ đến Đông á và ngược lại). Đến đầu thế kỷ 17, tức là khi chúa Nguyễn Hoàng đã ly khai với Đàng Ngoài rồi, công cuộc buôn bán của người Bồ tại Hội An rất phát đạt và gần như độc quyền. Vào năm 1615 các cha cố Thiên Chúa giáo theo thương nhân đến giảng đạo tại Đàng Trong và bắt đầu việc phiên tiếng Việt ra chữ Quốc Ngữ. Vào năm 1626, người Bồ ra Đàng Ngoài đặt quan hệ buôn bán và được chúa Trịnh tiếp đãi niềm nở. Từ đấy họ buôn bán với cả hai Đàng, nhưng chủ yếu là với Đàng Trong. Năm 1636, người Hà Lan đến buôn bán tại Hội An, một thời gian sau, họ cắt đứt với chúa Nguyễn mà chỉ buôn bán với Đàng Ngoài, và trở thành đồng minh của chúa Trịnh trong việc đánh phá Đàng Trong. Năm 1644, họ đem ba chiến thuyền định kết hợp cùng quân Trịnh đánh quân Nguyễn. Nguyễn Phúc Tần, lúc ấy là Thế tử, đã đánh đắm được chiếc thuyền chỉ huy cùng viên thuyền trưởng. Người Pháp đến Đại Việt vào thập kỷ 60. Đó là những thừa sai thuộc Hội Thừa Sai Paris. Nhưng những thừa sai này mang danh nghĩa của Hãng Đông ấn thuộc Pháp, đến
  25. Đàng Ngoài dưới bộ áo thương buôn, còn đến Đàng Trong thì phải lén lút vì bấy giờ các chúa đã có chủ trương cấm đạo. Họ thực hiện việc truyền đạo trong bí mật. Người Anh đến Đại Việt vào năm 1762 tại Phố Hiến. Nhưng cuộc buôn bán của người Anh tại đây không lâu bền. Thị trường Đàng Ngoài không đem lại nhiều mối lợi cho thương nhân nữa. Người Anh rời thị trường này vào 1697. Ba năm sau người Hà Lan cũng ngừng buôn bán với Đàng Ngoài. Người Bồ cũng rời bỏ Đàng Ngoài, đồng thời công việc buôn bán của họ với Đàng Trong cũng trở nên rời rạc. Qua thế kỷ 18, hoạt động ngoại thương của Đại Việt ngưng trệ. Chỉ còn ở Đàng Ngoài là các thừa sai dưới danh nghĩa thương nhân, họ làm những công việc lặt vặt như sửa đồng hồ, sửa các dụng cụ thiên văn, toán học. ở Đàng Trong thì thỉnh thoảng mới có tàu buôn của Bồ Đào Nha đến. III. Các vấn đề xã hội - văn hóa 1. Tôn giáo Tiếp theo thời Lê, Nho giáo vẫn được chúa Trịnh và chúa Nguyễn duy trì. Các kỳ thi nho học đều được tổ chức ở cả hai miền. Nhưng chiến tranh, việc thay vua đổi chúa xảy ra liên tục làm cho kỷ cương Nho giáo không còn cứng nhắc như trước nữa. Một số nhà nho xem họ Mạc, họ Trịnh, họ Nguyễn đều là những người theo bá đạo nhưng một số khác lại chấp nhận sự thay đổi chủ, khi theo Mạc, khi theo Trịnh, lúc đang ở với Trịnh lại về Nguyễn, không lên án những lần thí vua của họ Trịnh. Nguyên tắc của Nho giáo không còn được xem như mẫu mực cho việc xử thế nữa. * Phật giáo Phật giáo dần dần hưng thịnh trở lại. Các chúa Trịnh nâng đỡ việc phát triển của Phật giáo và cho xây cất cùng sửa chữa nhiều chùa chiền. Cứ mỗi lần có chùa hoặc chuông được hoàn thành là dân chúng quanh các vùng ấy được miễn thuế vì đã góp phần xây chùa. Chúa Trịnh Giang cho người sang Trung Quốc thỉnh Kim Cang hòa thượng sang giảng thiền học cho mình và cho dân chúng. Một số phái Thiền mới xuất hiện. Vào cuối thế kỷ 16, phái Thiền Tào Mộng của Trung Hoa được truyền vào Đàng Ngoài do nhà sư Thủy Nguyệt. Vị thiền sư này đã theo học với vị tổ thứ 35 của phái Tào Động tại Trung Hoa. Khi về nước, ông lập nên phái Tào Động Việt Nam. Nhiều chùa của giáo phái này được xây lên ở Thăng Long như chùa Hòa Giao, Hàm Long, Trấn Quốc Một phái Thiền khác - phái Liên Tôn xuất hiện vào cuối thế kỷ 17 do thiền sư Chân Nguyên. Phái này là tái sinh của phái thiền Trúc Lâm nhà Trần. Thiền sư Chân Nguyên người quê ở Hải Dương, sinh năm 1614, xuất gia năm 19 tuổi, tu tại núi Yên Tử Chân Nguyên có một đệ tử là vương công Trịnh Thập, và chính vị vương công này, sau khi xuất gia, đã biến nhà riêng của mình thành chùa, đó là chùa Liên Phái (ở đường Bạch Mai, Hà Nội).Thiền sư và các đệ tử hết mình khôi phục lại phái thiền Trúc Lâm Yên Tử, đã cho khắc lại tác phẩm “Khóa Hư Lục”, “Thiền uyển tập anh”, “Tam tổ thực lực” của đời Trần. Các tác phẩm này đã may mắn thoát khoải việc tịch thu của nhà Minh nhờ được cất giấu tại các chùa xa xôi hẻo lánh.
  26. Cũng như họ Trịnh, họ Nguyễn nâng đỡ Phật giáo. Từ năm 1601, khi mới tách ly ra khỏi chính quyền trung ương ở Thăng Long, Nguyễn Hoàng đã cho xây ngồi chùa Thiên Mụ danh tiếng ở Huế. Nguyễn Hoàng cho phổ biến nguyên nhân việc xây chùa Thiên Mụ như sau: Dân chúng gặp bên bờ sông Hương một bà lão mặc áo đỏ ngồi trên gò đất (hiện nay là nơi tọa lạc của chùa). Bà nói cho dân chúng biết rằng sẽ có minh chủ xuất hiện để xây dựng cơ đồ bền vững tại đấy. Vì thế, để ghi nhớ đến việc này, chúa cho xây chnàya và đặt tên là Thiên Mụ (người phụ nữ linh thiêng ở trên trời). Chùa này được trùng tu nhiều lần và trở nên một danh thắng của Huế. Phái thiền Lâm Tế Việt Nam xuất hiện dưới thời chúa Nguyễn do Tạ Nguyên Thiều, một thiền sư Trung Quốc phải lưu vong vì biến cố nhà Minh bị nhà Thanh lật đổ. Nhà sư này đến Quy Nhơn vào năm 1665, tại đây, ông xây chùa và truyền bá đạo Phật. Vào những năm 80 ông đến Huế thuyết pháp và xây ngôi chùa Quốc Ân. Ông được chúa Nguyễn sai đến Quảng Châu để thỉnh tượng Phật cùng thỉnh các thiền tăng về Đàng Trong để hành pháp (cuối thế kỷ 17). Một thiền sư xuất sắc của phái này là Liễu Quán, đã có công lập nhiều chùa quan trọng nhu chùa Thiền Tôn ở núi Thiên Thai, chùa Viên Thông ở núi Ngự Bình (Huế). Một trong số thiền tăng được Tạ NguyênThiều mời về là Hòa thượng Thạch Liêm, tức là Thích Đại Sán, tác giả của tác phẩm Hải ngoại kỷ sự. Tác phẩm này là một sử liệu quý báu, không những chỉ cho ta biết được mức độ sùng đạo Phật của các chúa Nguyễn mà còn thể hiện sống động cuộc sống, tập tục của xã hội Đàng Trong thời ấy. Chính Thích Đại Sán đã du nhập giáo phái Tào Động vào Đàng Trong, và nhu nhận chúa Nguyễn Phúc Chu làm đệ tử thứ 29 của giáo phái này. Mặc dầu được khuyến khích, Phật giáo dưới thời kỳ phân liệt này vẫn không tìm lại được vẻ huy hoàng của thời Lý và Trần, thậm chí có những lúc vì nhu cầu chiến tranh, chúa Trịnh tịch thu chuông chùa để lấy đồng đúc súng và tiền. Quang niệm Tam giáo đồng nguyên phát triển. Theo quan niệm này, cả ba tôi giáo Nho, Phật, Lão đều có cùng một nguồn gốc độc nhất. Từ đó, tư tưởng này thấm sâu vào dân chúng để biến thành một dạng tôn giáo hỗn hợp, vay mượn từ mỗi tôn giáo một số lễ nghi để thờ cúng. * Thiên chúa giáo Một tôn giáo mới xuất hiện tại Việt Nam vào thời ấy là Thiên Chúa giáo. Trước thời kỳ này đã có một số giáo sĩ Đại Việt truyền giáo, nhưng những hoạt động của họ không để lại dấu tích gì quan trọng. Công cuộc truyền giáo thật sự trở nên có hệ thống chỉ từ năm 1615. Năm ấy, một số giáo sĩ thuộc dòng Tên đến Đàng Trong xin giảng đạo và được chúa Nguyễn cho phép cư ngụ tại Hội An. Mười năm sau, thấy công cuộc truyền giáp gặp được thuận lợi ở Đàng Trong, các giáo sĩ dòng Tên đến Đàng Ngoài (1626) và cũng được tiếp đón niềm nở. Trong số này có Alexandre de Rhodes. Tuy thế, việc hành đạo của tôn giáo mới này đi trái lại với một số phong tục cổ truyền chẳng hạn như không chấp nhận việc thờ cúng Tổ tiên, quan niệm tôn quân và các đạo lý của Nho giáo, vốn đã ăn sâu trong xã hội Đại Việt. Sự quy tụ các giáo dân và sự phục tùng truyệt đối của họ vào những người ngoại quốc làm cho cả hai họ Trịnh Nguyễn lo sợ. Vì thế hai nhà chúa đã hạn chế việc truyền đạo và dần dần đi đến việc cấm đạo.
  27. Alexandre de Rhodes bị trục xuất vào năm 1630. Vào năm 1643, Trịnh Tráng ra lệnh cấm đạo. Năm 1663, Trịnh Tạc ban bố những điều giáo hóa phong tục cho toàn dân, trong đó có nhắc đến việc cấm “tà đạo”. Năm 1696, Trịnh Căn lại nhắc đến lệnh cấm đạo mà ông gọi là đạo Hoa Lang. ở Đàng Trong, chúa Nguyễn cũng cấm đạo. Chúa Nguyễn có vài lần trục xuất các nhà truyền giáo, nhưng không đến nỗi khắc khe vì chính các chúa đã dùng các nhà truyền giáo làm thầy thuốc riêng, hoặc làm nhà thiên văn, nhà toán học cho mình. Do đó, việc cấm đạo tại Đàng Trong không quá nghiên khắc như Đàng Ngoài. Dù gặp phải nhiều khó khăn trong việc truyền đại, các giáo sĩ vẫn kiên trì hoạt động và lần hồi đạo Thiên chúa trở thành một trong những tôn giáo quan trọng của Việt Nam. 2. Văn học Vào thời này dù có nhiều cảnh chiến tranh, nhưng nền văn học vẫn phát triển. Các tác phẩm được viết bằng chữ Hán lẫn chữ Nôm. Đặc biệt chữ Nôm không những nhiều về số lượng mà còn phong phú về nội dung và hình thức. Một số thi xã được hình thành như thi xã Bạch Vân với Nguyễn Bỉnh Khiêm ở Hải Dương vào cuối thế kỷ 16, Chiêu Anh Các với Mạc Thiên Tứ ở Hà Tiên vào thế kỷ 17. Thời này có một khuynh hướng văn học rất tích cực là việc sưu tầm và chép lại hoặc bằng chữ Nôm hoặc bằng chữ Hán các chuyện truyền khẩu trong dân gian, nhờ thế một số truyện dân gian được chép vào thời ấy còn truyền đến ngày nay như truyện “Thạch Sanh”, “Truyền kỳ mạn lục”, “Truyền kỳ tân phả” Văn học chữ Hán rất phong phú với các tác phẩm Bạch Vân am tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng công thi tập, Mai lĩnh sứ hoa thi tập của Phùng Khắc Khoan, Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, Chinh Phụ ngâm của Đặng Trần Côn, Ngọ Phongvăn tập của Ngô Thì Sĩ, Công dư tiệp ký của Vũ Phương Đề, Tục Truyền kỳ của Đoàn Thị Điểm, Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô Gia văn phái, Dao đình sứ tập của Hồ Dĩ Đống, Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác, Hà Tiên thập vịnh của Mạc Thiên Tứ và nhất là tác phẩm quan trọng của Lê Quý Đôn như Phủ biên tạp lục, Vân Đài Loại ngử, Kiến văn tiểu lục Các tác phẩm bằng chữ Nôm cũng không kém phần phong phú, đặc biệt là đã xuất hiện những truyện dài chữ Nôm. Có thể kể một số tác phẩm bằng chữ Nôm thời ấy như Ngọa Long cương của Đào Duy Từ, Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm, Cung oán ngậm khúc của Nguyễn Gia Thiều, Cung oán thi của Nguyễn Hữu Chính, Hoa tiên truyện của Nguyễn Huy Tự Ngoài ra còn có nhiều tác phẩm khuyến danh bằng chữ Nôm rất có giá trị như Trê cóc, Trinh thử, Thạch Sanh, Phạm Tử Ngọc Hoa, Phạm Công Cúc hoa, Tống Trân Cúc Hoa, Quan Ânm thị kính, Phan Trần, Nhị Độ mai, Bạch Viên Tôn Các Các ca dao tục ngữ, bài vè, chuyện khôi hài, châm biếm chiếmmột số lượng quan trọng trong kho tàng văn học dân gian. Các vua quan, thầy tu không chân chính, thầy bói đều là những đối tượng để châm biếm đả kích như trong các truyện Trạng Quỳnh, Trạng Lợn Một số sách sử quan trọng được ra đời. Năm 1663, Trịnh Tạc cho viết tiếp cuốn “Đại Việt sử ký” của Lê Văn Hưu và Lê Quý Đôn từ 1533 đến 1662. Sau đó Trịnh Căn lại cho soạn tiếp cho đến 1675. Bộ sử tục biên này được khắc in vào năm Chính Hòa thứ 18 (1697). Đến đời Trịnh Sâm, cuốn sử này lại được tiếp tục từ 1676 cho đến 1775. Ngoài ra
  28. còn có một số sách sử như Hoàng Lê ngọc phổ, Trịnh gia thế phả dùng để đốn chiếu các niên đại, Đại Việt Thông sử của Lê Quý Đôn, Đại Việt lịch triều đăng khoa lục của Nguyễn Hoàn, Việt sử bị lãm của Nguyễn Nghiễm, Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sĩ Đặc biệt cuốn Thiên Nam ngữ lục là quyển sử đầu tiên viết bằng thơ Nôm gồm hơn 8.000 câu lục bát được sáng tác dưới đời Trịnh Căn. Một sự kiện đáng chú ý dưới thời này là sự ra đời của chữ Quốc ngữ. Chữ Quốc ngữ ra đời cho một số giáo sĩ đạo Thiên Chúa muốn cho việc truyền giáo đạt được kết quả, đã phiên tiếng Việt bằng mẫu tự Latin quen thuộc của họ. Công phiên chữ quốc ngữ này là của nhiều giáo sĩ, trong đó đáng kể là Alexandre de Rhodes đã hoàn thành bộ tự điển “Việt - Bồ - La” vào năm 1651. 3. Nghệ thuật Cũng như văn học, nghệ thuật thời này phát triển mạnh mẽ dù bối cảnh chiến tranh luôn luôn sẵn sàng phá hoại những tác phẩm tài hoa. Nghệ thuật đúc đồng tiến tới việc đúc những tác phẩm có kích thước to lớn. Tượng Trấn Võ bằng đồng đen được chúa Trịnh cho đúc vào năm 1692 cao đến 3,28m, nặng gần 4 tấn. ở Đàng Trong chúa Nguyễn cũng cho đúc nhiều vạc đồng lớn, trong số vạc đồng này có chiếc nặng đến 1.588kg, đường kính 2,2m, cao 1,48. Trên vạc có nhiều hình chạm nổi hoa lá đường nét tinh vi phóng khoáng. Nghệ thuật chạm khắc rất điêu luyện với các đề tài mang đậm tính dân gian như các cảnh sinh hoạt hàng ngày, chèo thuyền, hái hoa, gánh con, bổ củi, làm xiếc (ở đình Tây Đằng, Hà Nội). Đến giữa thế kỷ 18, cùng với việc xây dựng chùa chiến, nghề chạm khắc càng phát triển và càng đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật. Chạm khắc đá cũng công phu, tinh xảo như ở chùa Ninh Phước, bia Lam Sơn, bia Nam Giáo. ở lăng của Nguyễn Điền (Bắc Ninh) xây năm 1769 thì những đường nét trang trí lại mang tính chất kỹ hà học, những đường cong trước đây được thay thế bằng những đường thẳng. Các chữ, các cảnh đều được đóng khuông trong những ô vuông cân đối. Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc đã có những công trình mang tính sáng tạo độc đáo. Vào những năm Chính Hòa (1680 - 1705) chùa Hương Tích được xây dựng. Nhờ vào sự hài hòa giữa kiến trúc và phong cảnh thiên nhiên mà chùa Hương Tích được mệnh danh là “Nam Thiên đệ nhất động” (động đẹp nhất trời Nam). Một số chùa khác được xây dựng với qui mô lớn có giá trị về nghệ thuật kiến trúc như chùa Bút Tháp (xây năm 1646) chùa Keo (thế kỷ 16), chùa Tây Phương IV. Di tích, Danh thắng tiêu biểu * Chùa Hương Tích Chùa Hương Tích tọa lạc tạ địa phận xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức (Hà Tây), cách thủ đô Hà Nội chừng 60km về phía Tây Nam. Chùa Hương Tích còn được gọi là chùa Hương Sơn, hoặc một cách ngắn gọn là chùa Hương. ở đây có sơn thủy hữu tình, không gian khoáng đạt và là nơi chứa đựng nhiều truyền thuyết, huyền thoại. Hàng năm cứ vào tiết tháng hai, tháng ba âm lịch nơi đây lại diễn ra hội lớn. Những
  29. phật tử vá chân đất, những tao nhân mặc khách, những danh nhân văn hóa, những bậc đế vương đều đến Hương Sơn. Các thi sĩ của các thời đại đã bao lần xúc động trước vẻ đẹp kỳ diệu của Hương Tích, đã để lại những vần thơ ca ngợi danh thắng này. Vào năm Canh Dần 1770, Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm võng lọng đến đây và để lại những bài thơ trên vách đá, trong đó có câu bất hủ “Nam thiên đệ nhất động” (động đẹp nhất trời Nam). Qua nhiều đời, người ta khó mà thống kê hết được bao nhiều dài thơ ca ngợi về vẻ đẹp Hương Sơn. Thực dân Pháp cũng phải công nhận giá trị văn hóa của di tích này. Vào năm 1925, Phủ Toàn quyền Pháp ở Đông Dương đã ký văn bản liệt hạng di tích cho Hương Sơn. Khi miền Bắc được giải phóng (1954), Hương Sơn được Nhà nước xếp hạng ngay từ đợt đầu. Ngày 21 tháng 2 năm 1991, Nhà nước đã ra quyết định cho Bộ Văn Hóa - Thông tin cùng các ngành hữu quan, tỉnh Hà Tây, ủy Ban Quốc gia UNESCO của Việt Nam làm hồ sơ đăng ký di tích Hương Sơn (cùng Hạ Long, Huế, Hoa Lư, Vườn quốc gia Cúc Phương) vào danh mục di sản thế giới. Để đi chùa Hương, du khách có thể đi từ Hà Nội qua thị xã Hà Đông tới Vân Đình và vào Bến Đục rồi thâm nhập vào cảnh quan của danh thắng: Kìa non non, nước nước, mây mây “Đệ nhất động” hỏi là đây có phải? (Thơ của Chu Mạnh Trinh) Từ bến Đục đến Hương Sơn có hai đường thủy bộ. Đi thuyền theo đường thủy, dọc theo suối Yến, hai bên bờ là phong cảnh ảo mộng: Réo rắt suối đưa quanh Ven bờ ngọn núi xanh Dịp cầu xa nho nhỏ Cảnh đẹp gần như tranh. (Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp) Từ dưới thuyền du khách có thể thấy ẩn hiện núi non mà người xưa đã đặt tên phỏng theo hình dáng: núi Ông Sư, núi Bà Vãi, núi Mâm Xôi, núi Voi Phục, núi Trống, núi Chiêng Sau núi Oản, Gà, Xôi Bao nhiêu là khỉ ngồi Tới núi con voi phục Có đủ cả đầu đuôi. (Nguyễn Nhược Pháp) Trước khi vào chùa Chính, thuyền ghé đến đền Trình để khách thập phương thắp hương trình với Sơn thần. Rồi từ đền Trình lại xuống thuyền len lỏi theo dòng suối để tới hang Bà. Trước hang là một thảm thực vật gồm cây, cỏ, hoa và đặc biệt là rau đắng ngọt ngào. Rời hang Bà, thuyền đưa khách thập phương đi tiếp theo dòng suối đến chùa Thiên trù (bếp nhà trời), chùa còn được gọi là chùa Ngoài hay chùa Trò. Tại đây, khách rời thuyền lên bờ vào chùa làm lễ. Chùa Thiên Trù có một mõm đá mọc ngược như hình cây tháp được gọi là tháp Thương Thủy. Quanh chùa bốn bề núi cao sừng sững và hàng trăm ngọn
  30. tháp xây từ các triều đại trước đã bị đổ nlt bởi thời gian. Tới Thiên Trù, khách có thể dừng chân, văn cảnh nghỉ ngơi một hai ngày vì đây có nhà nghĩ, sau đó tiếp tục cuộc hành hương vào chùa Trong (động Hương Tích) Chàng hai má đỏ hồng Kêu với thằng tiểu đồng Mang túi thơ bầu rượu “Mai ta vào chùa Trong” (Nguyễn Nhược Pháp) Đường vào động Hương Tích thì thật diệu kỳ. Một lối mòn len lỏi bằng những tấm đá được thiên nhiên mài nhẵn xếp nối nhau gập ghềnh lúc lên cao, xuống thấp quanh co lượn theo các triền núi đá. Bốn bề vắng lặng, hương hoa rừng thơm ngát. Du hách được hít thở khí trời trong sạch của cỏ cây hoa lá. Động Hương Sơn nằm trong một hang núi. Chính tại cửa động này có khắc dòng chữ của Trịnh Sâm: “Nam Thiên đệ nhất động”. Theo truyền thuyết, động này được tìm cách đây hơn hai nghìn năm nhưng mãi đến năm 1575 mới được dân chúng dựng chùa và lập bàn thờ Phật. Trong động có rất nhiều nhũ đá tạo thành những hình thù độc đáo như: núi Cây Gạo, Cây Vàng, Buồng Tằm, Nong Kén, Núi Cô, núi Cởu (Gồm những hòn đá giống hệt như đầu trẻ em. Theo quan niệm của người xưa, các bà, các chị hiếm con thường đến đây vuốt ve, xoa đầu “cầu tự” mong đức Phật ban cho một “cậu”). Ngoài ra, động còn có các tượng Vua Cha, Hoàng Hậu, Phật Quan âm, Kim Đồng, Ngọc Nữ đặc biệt là tòa Cửu Long là những nhủ đã lớn long lanh hình chín con rồng từ phía trên chầu xuống. Hương Sơn còn có nhiều đền, chúa, hang động hấp dẫn khác như Long Vân, Tuyết Sơn, Hinh Bồng Nhất là hang Ông Bảy. Hang này là nơi cư trú của người cổ cách đây hàng chục nghìn năm. Tới Hương Sơn, du khách có thể mua mơ Hương Tích và rau đắng để làm quà. Trái mơ ở đây có hương vị kỳ lạ không nưi nào có được: dài cùi, nhỏ hạt, khi chín có vị ngọt chua chua mà không chát. Hương Tích với vẻ đẹp kỳ ảo quả là một danh thắng độc đáo, là niềm tự hào của dân tộc. * Làng gốm Bát Tràng Làng Bát Tràng nằm ven sông Hồng, cách thủ đô Hh B& Nội 15km về phía Đông Nam. Làng gốm nổi tiếng này đã xuất hiện từ lâu và trở nên rõ nét là một làng nghề từ thời nhà Lê. Đến cuối thế kỷ XVI danh tiếng Bát Tràng lừng lẫy khi bước vào quá trình chuyên môn hóa với việc sản xuất gốm sành trắng hoa lam. Sản phẩm gốm hoa lam của thế kỷ này tập trung vào các vật dụng để ăn uống và thờ cúng. Các vật dụng này có dáng vươn lên theo chiều cao, ngay cả bát, dĩa cũng có chân cao. Chất liệu thuộc loại sành trắng có độ nung cao và kỹ thuật hoàn nguyên tốt. Sản phẩm của Bát Tràng có chất lượng cao và nổi tiếng đã có mặt trên đất nước Nhật từ thế kỷ 16. Người Nhật thời bấy giờ đã sản xuất phỏng theo gốm Bát Tràng. Loại gốm này được mang tên là gồm Kotchi (Giao Chỉ). Ngày nay, trong bảo tàng Tokugawa vẫn còn lưu giữ một số gốm Bát Tràng do thương thuyền Nhật đem về từ thế kỷ này.
  31. Gốm Bát Tràng, với kỹ thuật điêu luyện đã không hề mai một theo thời gian, mà trái lại ngày càng phát triển cho đến hôm nay. Chất liệu chính của sứ Bát Tràng là đất cao lanh có sức chịu nhiệt cao (135oC). Nhờ nung dưới nhiệt độ cao như thế nên sản phẩm Bát Tràng rất bền và chắc. Men gốm Bát Tràng ngày nay không chỉ thuần là hoa lam mà có loại men giả cổ, men rạn tam thái, men rạn chàm, sứ táp lửa, sứ trộn sơn Sứ men giả cổ có màu trắng bóng và chỉ dùng màu lam để trang trí, mô phỏng theo các đồ sứ thời Khang Hy, Càn Long của nhà Thanh xưa. Sứ men rạn có những vết rạn như những hoa văn tự nhiên và thường dùng ba màu để tranh trí nên gọi là men rạn tam thái. Sứ men rạn chàm cũng giống sứ tam thái nhưng chỉ dùng một màu trong trang trí. Sứ táp lửa thường không tráng men, được để trực tiếp trên ngọn lửa khi nung nên có màu sắc tự nhiên, thường là màu nâu đỏ ngả sang nâu đen. Sứ táp lửa nặng và bền, mô phỏng theo sứ đời Tống. Sứ trộn sơn được làm bằng cách trộn bột đá màu với đất cao lanh. Tùy theo tỷ lệ pha trộn mà màu sứ thay đổi từ nâu đỏ, thâm đỏ sang đỏ cam Sứ trộn sơn không có trang trí bằng những loại men màu khác nên mang dáng vẻ cổ kính. Đó là sản phẩm đặc biệt của Bát Tràng. Chủ đề sáng tác của gốm Bát Tràng đa d̐1;ng nói lên cuộc sống và thiên nhiên. Đó là các con giống như con gà, con lợn, con mèo hoặc ông câu, cô tiên, tháp, chùa, đến các đồ thờ như chân đèn, lư hương, bát nhang, bình hoa hoặc các vật dụng hàng ngày như lọ, chén, dĩa, hộp Làng vẫn duy trì cách sản xuất thủ công từ việc chuẩn bị đất cho đến khi ra lò. Bí quyết nhà nghề được truyền từ đời này sang đời khác và hiện vẫn được lưu giữ trong các gia đình nghệ nhân Bát Tràng. Hỗu hết các khâu đều làm bằng tay từ luyện đất cho đến vẽ trang trí và nung. Sau khi luyện đất một cách công phu, nghệ nhân với bàn tay khéo léo tạo dáng cho đất theo bàn xoay. Sau đó là trang trí, phun màu, phun men và cuối cùng là nung trong lò. Hiện nay có khoảng 1500 lò nung gốm sứ của các hộ gia đình. Ngoài ra, còn có một số đơn vị doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, công ty trách nhiệm hữu hạn. Đó là môi trường cho những người thợ thủ công giỏi phát huy tài năng của mình. Mặc dù được phát triển và nổi tiếng, nhưng hiện nay Bát Tràng đang gặp phải một số khó khăn, trong đó nghiêm trọng nhất là cơ sở hạ tầng yếu kém cùng vấn đề ô nhiễm môi trường. Hệ thống giao thông của Bát Tràng hoàn toàn không đáp ứng được nhu cầu của phát triển. Đường sá hẹp, dốc, bị cày xới thường xuyên bởi những chiếc xe chở hàng nặng nề, lầy lội vào mùa mưa, bụi bặm vào mùa nắng. Cộng vào đó là khói của hàng ngàn lò nung lớn, nhỏ, làm cho môi trường làng nghề ô nhiễm nặng nề. Nhiều cư dân bị lao phổi, ung thư phổi. Hiện nay Bát Tràng đang cố gắng cải tạo môi trường của mình, trồng thêm nhiều cây xanh, cải tạo một số con đường, nhưng kết quả chưa đáng kể. Gốm Bát Tràng hiện nay rất có giá trị trên thị trường quốc tế vì tính truyền thống và thủ công của nó. Làng Bát Tràng thu hút nhiều khách du lịch. Du khách đến có thể tận mắt
  32. nhìn ngắm các nghệ nhân đang lao động sáng tạo, tận tay mua sản phẩm và còn có thể đặt hàng theo ý muốn của mình nữa. Ngoài ra, tại Bát Tràng còn có nhiều di tích văn hóa lịch sử như chùa Tiêu Dao, chùa Kim Trúc, đình Giang Cao, chùa Bảo Minh làm cho Bát Tràng thêm đa dạng, lôi cuốn nhiều du khách. * Hà Tiên ở Đàng Ngoài có “Nam thiên đệ nhất động” thì Đàng Trong cũng có đệ nhất thắng cảnh Hà Tiên, vùng đất được hàng bao thế hệ lưu dân tôn tạo ở cực Nam của Tổ quốc. Hà Tiên xưa có tên là Mang Khảm vốn là nơi hoang vu, đến thế kỷ XVII mới bắt đầu được khai phá. Người có công đáng kể nhất trong việc biến vùng đất hẻo lánh này thành nơi đô hội là Mạc Cửu (1652-1735). Mạc Cửu vốn là thương gia người tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc), có thuyền đi lại buôn bán giữa Trung Hoa và các nước Philippines, Batavia (Indonesia). Sau khi nhà Minh sụp đổ, nhà Thanh nắm quyền, Mạc Cửu không thần phục nhà Thanh, rời xứ đến xin vua Chân Lạp cho khai phá và mở mang đất Mang Khảm. Mạc Cửu lập nên bảy xã thôn ở vùng ven vịnh Thái Lan. Nhưng đến năm 1688 quân Xiêm đến cướp phá và Mạc Cửu bị bắt đưa về Xiêm mãi đến năm 1700 mới được thả trở lại Hà Tiên. Để có một chữ dựa vững chắc, Mạc Cửu xin quy phục chính quyền Đàng Trong (1708). Chúa Nguyễn Phúc Chu liền chấp nhận, đổi vùng này thành Hà Tiên trấn và phong cho Mạc Cửu làm Tổng binh trấn. Người Việt và người Hoa đi đến đấy sinh sống lập nên ruộng đồng phì nhiêu, phố xá trù phú. Hà Tiên là nơi một nơi non sông kỳ tú. Theo truyền thuyết, Hà Tiên có tên gọi như thế vì vào mấy thiên niên kỷ mới, trong một đêm trăng sáng lung linh, một bầy tiên nữ giáng trần đến đấy vui chơi, múa hát rồi cùng nhau xuống tắm mát dưới Đông Hồ. Các nàng tiên về trời, để lại hình ảnh của mình qua tên gọi “Hà Tiên”. Cảnh sắc thiên nhiên của Hà Tiên đã được người đương thời ca tụng và cũng chính nơi đây xuất hiện nhóm Tao Đàn Chiêu Anh Các do Mạc Thiên Tứ (con của Mạc Cửu) lập. Chiêu Anh Các gồm nhiều nhà thơ Việt Nam và Hoa cùng hội lại với nhau để sáng tác, ngâm vịnh, đàm luận. Có tác phẩm được chú ý hơn cả là “Hà Tiên thập vịnh” tả mười cảnh đẹp của Hà Tiên lồng trong sinh hoạt của cư dân để tạo dựng lên bức tranh ngư tiều canh mục: 1. Kim Dữ lan đào (Đảo Vàng chắn sóng) 2. Bình Sơn điệp thúy (núi Bình Sơn xanh biếc) 3. Tiêu Tự thần chung (Tiếng chuông chùa Tiêu Tự) 4. Giang Thành dạ cổ (Tiếng trống đêm ở Giang Thành) 5. Thạch Động thôn vân (mây luồn Thạch Động) 6. Châu Nham lạc lộ (Châu Nham cò đậu) 7. Đông Hồ ấp nguyệt (Đông Hồ trăng soi) 8. Nam Phố trừng ba (Sóng trong Nam Phố) 9. Lộc Trĩ thôn cư (Xóm dân ở Lộc Trĩ) 10. Lư khê ngư bạc (Cảnh chài cá ở Lư Khê) “Thạch Động thôn vân” cách thị xã Hà Tiên khoảng 3km cạnh quốc lộ 17. Có đường
  33. xe đi đến tận cửa hang. Hang ở cao độ chừng 50m, nằm trong một hòn núi đá xanh trơ trọi trên một vùng bằng phẳng. Hang Thạch Động sâu hun hút và khá rộng. Tại đây, mây và mây. Mây bao trùm cảnh vật, mây trôi lững lờ đây đó, mây phiêu lãng luồn vào động. Một chốn trữ tình. Đông Hồ, nơi hân hạnh được các nàng tiên xuống tắm là một hồ nước khá rộng nằm phía Đông thị xã Hà Tiên, chiều ngang của hồ khoảng chừng 2km, chiều dài khoảng chừng 3km. Chung quanh hồ có núi Ngũ Hổ, núi Tô Châu che chắn. Đáy hồ phủ đầy cát trắng mịn màng, nước xanh trong vắt. Những đêm trăng tỏ, ánh trăng xuyên tận đáy hồ qua làn nước lung linh tạo nên một cảnh huyền ảo, thần tiên làm say đắm bao thi nhân. Nam Phố là một vùng bãi biển có hai bãi cát là bãi Heo và bãi ớt. Đây là những bãi tắm lý tưởng, nhất là bãi ớt quanh năm trời yên biển lặng. Trước năm 1945 có một số người Pháp đã đến đây lập đồn điền trồng cà phê, nông trại nuôi heo nhưng thất bại phải rút lui, trả thiên nhiên trở về thành cũ. Ngoài ra còn có bãi Dương với những hàng dương lả lướt theo gió, Hòn Trẹm, một quả đồi nhỏ nhô ra biển. Cách hòn Trẹm chừng một cây số là hòn Phụ Tử, nằm giữa biển cách bờ chừng 200m. Ngày trước, hòn Phụ tử có tên là Thố đảo (đảo Con Thỏ) vì người xưa nhìn thấy là hình ảnh con thỏ đang giỡn nước, khác với sự tưởng tượng của các thế hệ sau, qua hình dáng vững chắc của các cột đá mà gắn cho tình cha con. Hai trụ đá cao, nghiên song song vùng chiều, ở giữa hai trụ đá cao ấy là một tảng đá thấp, cả ba tảng đều dính liền nhau. Trụ đá phía trước là cha, con ở giữa, sau lưng con là mẹ. Thật xứng đáng là đệ nhất thắng cảnh của Nam Bộ. Cũng như mọi miền đất nước, Hà Tiên còn có các cảnh chùa thanh u như chùa Lũng Kỳ do Mạc Cửu xây nên vào năm 1715, chùa Địa Tạng trong núi Địa Tạng, chùa Hang ở không xe hòn Trẹm. Những địa điểm ấy bổ sung cho sự hoàn thiện của danh thắng Hà Tiên. Bên cạnh vẻ đẹp thiên nhiên độc đáo, Hà Tiên còn là một miền kinh tế đặc sắc với miệt vườn tiêu ngút ngàn và cũng là nơi sinh sống của giống đồi mồi, góp phần làm nên nét riêng của Hà Tiên.
  34. Nhà Tây Sơn (1771 - 1802) Biên niên các sự kiện: - 1771: Anh em Tây Sơn nổi dậy - 1776: Nguyễn Nhạc xưng là Tây Sơn vương - 1777: Nguyễn Huệ tiêu diệt chúa Nguyễn tại Gia Định - 1778: Nguyễn Nhạc xưng đế, đặt tên hiệu là Thái Đức - 1780: Nguyễn ánh xưng vương tại Gia Định - 1782: Nguyễn ánh bị quân Tây Sơn đuổi, chạy ra Phú Quốc. - 1783: Nguyễn ánh lánh nạn tại Côn Sơn. - 1785: Nguyễn Huệ đánh bại quân Xiêm tại Rạch Gầm - Xoài Mút. Nguyễn ánh chạy sang Xiêm. - 1786: Nguyễn Huệ lật đổ chúa Trịnh - 1787: Nguyễn ánh trở về lại Long Xuyên - 1788: Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế - 1789: Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh Nguyễn ánh lấy thành Gia Định - 1792: Vua Quang Trung mất - 1793: Nguyễn Nhạc mất - 1799: Nguyễn ánh chiếm thành Qui Nhơn - 1801: Nguyễn ánh lấy được Phú Xuân I. Tình hình Đại Việt trong ba thập niên cuối thế kỷ XVIII 1. Bối cảnh xã hội Đàng Trong Vào những năm 60, 70 của thế kỷ 18, chế độ chúa Nguyễn ở Đàng Trong bắt đầu buổi thoái trào. Bên trong nội bộ chính quyền lủng củng còn ngoài xã hội thì giặc giã, thất mùa và đói kém. Dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát, quyền thần Trương Phúc Loan bắt đầu lộ diện. Trương Phúc Loan vốn có chị ruột là Nguyên phi của chúa Nguyễn Phúc Chú. Bà này là mẹ của chúa Nguyễn Phúc Khoát. Khi Nguyễn Phúc Khoát lên làm chúa, Trương Phúc Loan được phong đến Ngoại tả Đạt Quận công. Khi chúa Nguyễn Phúc Khoát chết, theo di chiếu, đáng lẽ người con thứ hai là Nguyễn Phúc Luân lên nối ngôi (Thế tử đã chết, con của Thế tử còn nhỏ) nhưng Phúc Loan phế Phúc Luân đi và bắt giam rồi giết người thầy học của Nguyễn Phúc Luân và Cai cơ Trương Văn Hạnh. Uy hiếp được những người ủng hộ Nguyễn Phúc Khoát là Nguyễn Phúc Thuần, mới 12 tuổi lên ngôi chúa. Vì Nguyễn Phúc Thuần còn nhỏ nên mọi việc trong ngoài đều do Trương Phúc Loan quyết định. Loan
  35. lên làm Quốc phó, cầm đầu bộ Hộ và kiêm một chức vụ béo bở thời đó là Cai Tàu vụ, chuyên trách việc thu và đánh thuế các tàu buôn. Hai người con trai của Loan lấy hai Công nữ của chúa Nguyễn Phúc Khoát, đều giữ chức Chưởng binh, Cai cơ. Thế lực của gia đình Loan bao trùm lên ngôi chúa. Bổng lộc của Loan rất lớn. Do vị trí cầm đầu bộ Hộ và Tàu vụ, mỗi năm Loan thu vào không dưới 3,4 văn quan. Loan lại cho chân tay giữ những cửa sông, cửa biển trọng yếu để thu thuế sản vật ở các nguồn Đồng Hương, Trà Vân, Trà Sơn mỗi năm đến 4,5 vạn quan. Thêm vào đó, Loan còn bán quan, buôn ngục. Loan giàu có lớn lại tham lam, đặt ra nhiều thứ thuế nặng nề, nhiều hình phạt ác động nên dân chúng gọi Loan là Trương Tấn Cối. Bên cạnh nạn tham nhũng, người dân Đàng Trong còn phải chịu cảnh thiên tai như động đất, núi lở, nước đỏ. Nạn đói xảy ra, to nhất là nạn đói vào năm 1774 ở Thuận Hóa. Lê Quý Đôn ghi lại trong Phủ biên tạp lục như sau: “Bấy giờ Thuận Hóa mấy năm mất mùa đói kém, lại phải đánh trận bắt lính không thôi, quân dân lìa lòng, sùng sục mong làm loạn”. Tình hình như thế đã làm nổ ra nội loạn như cuộc nổi dậy của dân tộc Đá Vách ở Quảng Ngãi vào năm 1770 hoặc của Chàng Lía ở Bình Định. Cuộc nổi dậy này đã để lại dấu ấn sâu sắc trong dân gian qua câu ca dao: “Chiều chiều én liệng Truông Mây Cảm thương chú Lía bị vây trong thành” 2. Buổi ban đầu của phong trào Tây Sơn Năm 1771, anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ nổi lên lập đồn ải ở đất Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Anh em Tây Sơn truyền hịch đi khắp nơi tuyên cáo mục đích của cuộc nổi dậy là đánh đổ quyền thần Trương Phúc Loan và phù lập Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương, con của Thế tử đã mất. Vì thế có câu ngạn ngữ: “Binh Triều, binh Quốc phó, Binh ó, binh Hoàng tôn”. (Binh ó là ám chỉ quân Tây Sơn vì quân Tây Sơn khi lâm trận thì la ó lên lấy khí thế, còn Hoàng tôi là Nguyễn Phúc Dương, Đông cung của Chúa Nguyễn Phúc Thuần). Thanh thế của anh em Tây Sơn ngày càng lớn, họ được sự hưởng ứng không những của người nghèo mà còn của các người giàu có, các thổ hào nữa. Đến năm 1773 quân Tây Sơn tiến lấy thành Qui Nhơn. Sau đó, quân Tây Sơn chiếm thêm Quảng Ngãi rồi lấy luôn hai phủ Diên Khánh và Bình Khang. Chúa Trịnh lợi dụng tình hình rối ren của Đàng Trong, phái vị đại tướng lão luyện của mình là Hoàng Ngũ Phúc dẫn quân vượt sông Gianh, tiến vào Nam, lấy danh nghĩa là giúp chúa Nguyễn trừ Trương Phúc Loan. Chúa Nguyễn thấy thế quân của Hoàng Ngũ Phúc quá mạnh nên đành bắt Trương Phúc Loan đem nộp cho quân Thịnh. Có được Trương Phúc Loan rồi, nhưng Hoàng Ngũ Phúc vẫn cho quân tiến đánh Phú Xuân. Trước tình thế nguy cấp, chúa Nguyễn phải bỏ Thuận Hóa chạy vào Quảng Nam. Tại đây, chúa lập cháu là Nguyễn Phúc Dương làm Đông cung. Nhưng chúa Nguyễn không trụ được lâu tại đấy, mà phải chạy tiếp vào Gia Định, Đông cung Dương ở lại trấn giữ Quảng Nam. Chẳng bao lâu, Đông cung Dương bị Nguyễn Nhạc bắt. Nguyễn Nhạc cho người đem lễ vật đến thần phục Hoàng Ngũ Phúc, xin coi giữ ba
  36. phủ Quảng Ngãi, Qui Nhơn và Phú Yên. Hoàng Ngũ Phúc bèn liên kết với Nguyễn Nhạc, dâng biểu lên chúa Trịnh, xin phong cho Nguyễn Nhạc làm Tiên phong Tướng quân, Tây Sơn hiệu trưởng. Xong việc, Hoàng Ngũ Phúc kéo quân trở ra Bắc, đi nửa chừng thì chết. Từ đấy về sau, họ Trịnh không còn can thiệp vào chính sự Đàng Trong nữa vì chính bản thân nội bộ họ Trịnh cũng không vững chắc gì. 3. Nguyễn Nhạc xưng vương rồi xưng đế Sau khi Hoàng Ngũ Phúc kéo quân đi rồi, Nguyễn Nhạc lo xây dựng lực lượng. Ông cho đắp thành Đồ Bàn cao hơn và chắc chắcn hơn. Bên trong thành Đồ Bàn, Nguyễn Nhạc cho xây lên những tòa cung điện bằng đá ong. Ngoài ra ông còn cho tích trữ lương thực, luyện tập binh lính, điểm duyệt tướng sĩ, thu dùng đủ hạng người từ những người phiêu bạt cho đến các hào kiệt bất đắc chí. Nhờ thế Nguyễn Nhạc được rất nhiều người phò theo. Qua năm 1776 Nguyễn Nhạc tự xưng là Tây Sơn Vương, lấy Đồ Bàn làm Kinh Đô và đúc ấn vàng. Nguyễn Huệ được phong làm Phụ chính, Nguyễn Lữ làm Thiếu phó. Nguyễn Nhạc còn sai người thông hiếu cùng Chúa Trịnh, được chúa Trịnh phong cho Quảng Nam Trấn thủ, Tuyên úy Đại sứ, Cung quốc công. Thực lực của Tây Sơn ngày càng lớn, Nguyễn Nhạc tính đến việc chiếm đánh đất Gia Định, truy đuổi chúa Nguyễn. Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ được lệnh dẫn hai đạo quân thủy bộ vào đánh lấy Gia Định. Họ đuổi được chúa Nguyễn và Đông cung Dương (đã trốn được vào Gia Định từ trước) đến Long Xuyên thì bắt được và giết chết cả hai tại đó. Chỉ có Nguyễn ánh, con của Nguyễn Phúc Luân là chạy thoát. Dẹp được chúa Nguyễn ở Đàng Trong, Nguyễn Nhạc lên ngôi vua. đặt niên hiệu là Thái Đức, đổi tên Kinh đô Đồ Bàn thành Hoàng đế thành, phong Nguyễn Huệ là Long Nhượng Tướng quân (1778). Nguyễn Huệ là người có thiên tài về quân sự, binh cơ của ông thần tốc, hiệu lệnh rất nghiêm minh. Ông tung hoành từ Nam ra Bắc, phá vỡ hai thế lực cát cứ là họ Nguyễn và họ Trịnh, tạo tiền đề cho sự thống nhất của đất nước về sau. 4. Tây Sơn đuổi họ Nguyễn Nói về Nguyễn ánh, lúc ấy mới 17 tuổi, lẩn lút trốn trong vùng đồng bằng sông Cửu long đồng thời chiêu tập lại triều thần cũ, củng cố lực lượng. Sau khi Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ rút trở về Qui Nhơn, Nguyễn ánh với sự hỗ trợ của Đỗ Thành Nhân, đem quân đi đánh đuổi được lực lượng Tây Sơn đang đóng giữ tại đấy rồi lên làm Đại nguyên soái, Nhiếp quốc chính, lập nên bộ máy quan lại, cai quản đất Gia Định. Qua đến năm 1780, Nguyễn ánh xưng vương, phong cho Đỗ Thành Nhân làm chức Ngoại hữu Phụ chính, Thượng tướng công và thăng thưởng cho các binh sĩ. Nguyễn ánh lại đặt được quan hệ tốt đẹp với nước Xiêm. Nguyên do là Nguyễn Văn Thoại, Đại tướng của Nguyễn ánh có giao kết bằng hữu, thề cứu nhau trong cơn hoạn nạn với Chất Tri, một tướng Xiêm sau này Chất Tri lên ngôi vua, lập ra triều đại Chakkri. Vì thế Nguyễnánh có một chỗ sự vững chắc cho những buổi lưu vong. Nhưng Nguyễn ánh không ở yên được tại đất Gia Định qua ba năm qua, năm 1782 Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ đem hơn 100 chiến thuyền vào cừa Cần Giờ tiến đánh quân Nguyễn ánh, uy hiếp Gia Định. Nguyễn ánh phải bỏ thành Sài Gòn chạy về Ba Giồng rồi ra Phú Quốc.
  37. Anh em Tây Sơn đuổi được Nguyễn ánh rồi, không ở lại giữ Gia Định mà chỉ để lại một hàng tướng trông coi rồi kéo về Trung. Phe Nguyễn ánh lại nổi lên với sự hỗ trợ của mãnh tướng Châu Văn Tiếp, chiếm lại được thành Gia Định và đón Nguyễn ánh về. Nguyễn ánh chưa kịp chỉnh đốn lực lượng thì năm sau (1783) Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ kéo quân vào quyết tâm tiêu diệt cho bằng được Nguyễn ánh. Không chống cư nổi, Nguyễn ánh lại một lần nữa chạy ra phú Quốc. Tại đây, bị truy nã tiếp, Nguyễn ánh lại chạy đến Côn Đảo. Quân Tây Sơn đến vây nhưng bị lão đắm thuyền, nhờ thế Nguyễn ánh thoát khỏi trùng vây, lại chạy về Phú Quốc. Tuy thoát được cảnh truy đuổi nhưng Nguyễn ánh không còn bao nhiêu lực lượng. Chính trong thời điểm này, Nguyễn ánh móc nối với Giám mục Bá Đa Lộc thuộc Hội Truyền Giáo Paris, giao cho ông này to77;nn quyền thay mình đi cầu cứu với chính phủ Pháp. Nguyễn ánh còn cho người con trưởng của mình mới 4 tuổi là Hoàng tử Cảnh theo Bá Đa Lộc để làm tin. Bá Đa Lộc hăng hái nhận lời. Đồng thời với kế hoạch cầu cứu nước Pháp, Nguyễn ánh thân hành sang Xiêm cầu viện. Vua Xiêm sai hai tướng là Chiêu Tăng và Chiêu Sương đem 20.000 quân cùng 300 chiến thuyền theo Nguyễn ánh về đánh lấy Rạch Giá, Ba Trắc, Trà Ôn Tướng Tây Sơn đang giữ thành Gia Định vội phi báo về Qui Nhơn. Nguyễn Huệ một lần nữa được lệnh vào đánh Nguyễn ánh. Nguyễn huệ cả phá xuân Xiêm ở Rạch Gầm - Xoài Mút (1785). Quân Xiêm chỉ còn vài nghìn người theo đường núi chạy về nước. Từ đấy, quân Xiêm sợ quân Tây Sơn như “sợ cọp”. Còn Nguyễn ánh lại chạy theo đường biển qua Xiêm lánh nạn và được vua Xiêm trọng đãi và cho trú ngụ tại Ngoại ô của Vọng Các (Bangkok). 5. Tây Sơn dứt họ Trịnh Bấy giờ ở Đàng ngoài, việc chính sự vô cùng rối ren. Chúa Trịnh là Trịnh Sâm bỏ trường lập thứ làm cho quan lại chia ra hai phe. Một bên ủng hộ Trịnh Khải, người con trưởng. Bên kia ủng hộ Trịnh Cán, người con thứ mới ba tuổi, con của vợ yêu của chúa là Đặng Thị Huệ. Năm 1782 Trịnh Sâm bệnh chết, truyền ngôi chúa lại cho Trịnh Cán, có quan đại thần Hoàng Đình Bảo làm phụ chính. Đám quân Tam phủ bất mãn, tự động nổi lên tôn phù Trịnh Khải, giết Hoàng Đình Bảo và phế Trịnh Cán đi. Từ khi đưa được Trịnh Khải lên ngôi chúa, quân Tam phủ mỗi ngày một kiêu căng, kéo nhau đi cướp phá các làng. Các quan có ai không vừa lòng chúng là chúng giết chết. Có một số quan muốn rước Trịnh Khải lên Sơn Tây rồi tiễu trừ quân ấy đi. Nhưng chúng hay được, liền canh giữ các cửa đô và vây phủ chúa không cho Trịnh Khải xuất thành. Vì thế chúng được mệnh danh là Kiêu binh. Tình thế càng rối loạn hơn. Trong tình hình ấy mưu sĩ Bắc Hà là Nguyễn Hữu Chỉnh lạo bỏ Đàng Ngoài vào thần phục Nguyễn Nhạc. Nguyễn Hữu Chỉnh người Nghệ An, đổ Hương cống khi chỉ mới 16 tuổi nên được gọi là Cống Chỉnh. Nguyên Chỉnh vốn là người phe Hoàng Bảo bị giết, Chỉnh bèn theo Tây Sơn, rất được Nguyễn Nhạc tin dùng. Chỉnh hết lòng bày mưu chỉ kế. Một trong những mưu kế của Chỉnh được Nhạc chấp nhận là việc tiến chiếm Thuận Hóa, nới rộng lãnh thổ cho Tây Sơn. Đất Thuấn Hòa từ khi Hoàng Ngũ Phúc mất nằm dưới quyền cai trị của Phạm Ngô Cầu. Phạm Ngô Cầu là người tham làm mà lại không phòng bị, nên Thuận Hóa thành