Luận văn Nghiên cứu văn hóa và phong tục Việt Nam
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Nghiên cứu văn hóa và phong tục Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
luan_van_nghien_cuu_van_hoa_va_phong_tuc_viet_nam.pdf
Nội dung text: Luận văn Nghiên cứu văn hóa và phong tục Việt Nam
- Luận văn Nghiên cứu văn hóa và phong tục Việt Nam
- MỞ ĐẦU I- LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá làng xã truyền thống đang trở thành vấn đề quan tâm của các cấp lãnh đạo Đảng, các nhà nghiên cứu và quản lý văn hoá; giữ gìn và phát huy thế nào, ra sao để kế thừa được những giá trị truyền thống tốt đẹp của văn hoá làng, xã nói chung, vùng đồng bằng và ven biển tỉnh Nghệ An nói riêng. Văn hoá làng là một thành tố quan trọng của nền văn hoá dân tộc; là nền tảng cơ sở để xây dựng nông thôn phát triển bền vững.Vì vậy tìm hiểu cặn kẽ, có hệ thống về bản sắc văn hoá làng vùng đồng bằng và ven biển tỉnh Nghệ An là nội dung cơ bản của luận văn này. Những thập kỷ gần đây việc nghiên cứu tìm hiểu văn hoá làng xã được Đảng và nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Các nghị quyết Đại hội VI,VII,VIII, IX của Đảng đều đề cập đến vấn đề xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn : xây dựng nông thôn mới theo hướng Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá. Thủ tướng chính phủ đã có chỉ thị số 24/1999/TTtg về xây dựng và thực hiện hương ước, qui ước văn hoá ở các làng, bản, thôn ấp, cụm dân cư nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân lao động và làm cơ sở vững chắc cho việc nâng cao đời sống văn hoá ở nông thôn hiện nay phát triển đúng hướng theo tinh thần nghị quyết Trung ương V (khoá VIII) của Đảng về xây dựng và phát triển một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Vùng đồng bằng và ven biển tỉnh Nghệ An có vị trí và tầm quan trọng đặc biệt trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng của tỉnh nhà. Là nơi tập trung đông nhất về dân số, chiếm 3/4 dân số của cả tỉnh; nơi tập trung nhiều trung tâm văn hoá khoa học kỹ thuật và chính trị của tỉnh như: thành phố Vinh, thị xã Cửa Lò Là người địa phương vừa làm công tác đào tạo đội ngũ cán bộ văn hoá thông tin cho cơ sở và đã có quá trình theo dõi, tham gia các hoạt động văn hoá thông tin của tỉnh, nên đã có những am hiểu nhất định về văn hoá nói chung, văn hoá cơ sở ở các làng xã vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An nói riêng. Tác giả muốn nghiên cứu, tìm hiểu về bản sắc văn hoá của quê hương mình để nâng cao hiểu biết những giá trị văn hoá truyền thống của địa phương, làm giàu cho hành trang tri thức của mình để phục vụ công tác được tốt hơn. 1
- II. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 1. Mục đích nghiên cưú Luận văn có ý tưởng hệ thống lại các thành quả của điều tra xã hội học, của các công trình nghiên cứu khoa học trước đây, xây dựng lại thành một chỉnh thể về bản sắc văn hoá dân tộc của làng xã vùng đồng bằng và ven biển tỉnh Nghệ An, để phục vụ cho mục đích nghiên cứu của mình. Trên cơ sở đó, đề ra được những giải pháp giữ gìn, phát huy có hiệu quả, có chất lượng việc xây dựng làng văn hoá hiện nay, góp phần bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc theo tinh thần nghị quyết Trung ương V( khoá VIII) của Đảng. 2. Nhiệm vụ nghiên cứu Nghiên cứu cơ sở lý luận về làng , văn hoá làng và những đặc điểm Văn hoá làng ở vùng đồng bằng ven biển Tỉnh Nghệ An để tìm ra những giải pháp nhằm giữ gìn, phát huy được những bản sắc Văn hoá làng tốt đẹp ở vùng này. III- ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn xác định đối tượng nghiên cứu là văn hoá truyền thống, bản sắc văn hoá làng vùng đồng bằng và ven biển tỉnh Nghệ An. 2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu văn hoá vật chất, văn hoá tinh thần, văn hoá vật thể, văn hoá phi vật thể của làng xã trước đây, do vậy những làng xã và những đơn vị tương đương với làng ở địa bàn của vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An là phạm vi của đề tài. Nếu khảo sát, nghiên cứu kỹ càng tư liệu văn hoá truyền thống của làng xã, dù chỉ ở một địa bàn hạn hẹp, cũng có thể cho phép ta phát hiện, rút ra những kết luận khoa học mang tính khái quát có giá trị ngoại suy cho những địa bàn khác rộng hơn. IV- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Phân tích nội dung thuật ngữ văn hoá làng. Ở luận văn này, người viết cố gắng trình bày nội dung thuật ngữ văn hoá làng với những nét đại cương nhất. Mà chính đó là cơ sở, tiền đề về mặt lý thuyết giúp chúng tôi khảo sát những phần tiếp theo như mục đích của đề tài nêu ra. 2
- 2. Phương pháp. Chúng tôi sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp các tài liệu về địa lí, lịch sử hình thành và phát triển văn hoá làng ở vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An , đi điền dã, quan sát thực tế tìm hiểu kỹ phong tục tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng lễ hội . Đặc biệt là tích cực khai thác mảng phong tục tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng, lễ hội, dòng họ. Chính vì phong tục tập quán, lễ hội, dòng họ là một bộ phận rất quan trọng của văn hoá làng ; nó hàm chứa tất cả hệ tư tưởng, đạo đức, tình cảm, lối sống của nhân dân; là những thành tố cơ bản tạo nên bản sắc văn hoá làng. Bởi vậy, nếu nghiên cứu kỹ các vấn đề này sẽ làm sáng tỏ đặc trưng của văn hoá làng Việt nói chung, văn hoá làng Nghệ An nói riêng mà cụ thể là ở vùng đồng bằng và ven biển. ơ V. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ Làng ( village ) và văn hoá làng đã được đề cập tới trong các tác phẩm khác nhau, đặc biệt với những tác giả viết về văn hoá học. Có thể kể tên như Đào Duy Anh, Dương Quảng Hàm, Nguyễn Khắc Viện, Phan Ngọc, Phạm Đức Dương, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Trần Ngọc Thêm Hay nói khác đi, viết về văn hoá Việt Nam không thể không đề cập tới văn hoá làng. Ở Nghệ Tĩnh nói chung, Nghệ An nói riêng cũng đã xuất hiên một số tác phẩm. Dẫu cho tên gọi tác phẩm không nói thẳng là viết về văn hoá làng nhưng trên thực tế nội dung có liên quan xa gần tới vấn đề này Trước năm 1945 đã xuất hiện các tác phẩm như "Quỳnh Lưu phong thổ ký", "Diễn Châu phong thổ chí", "Thanh Chương huyện chí"," Nghệ An ký", " Hoan Châu phong thổ ký", " Hoan Châu phong thổ thoại"," Nhân Sơn phong thổ ký"," Nho Lâm phong thổ ký"," Quỳnh Đôi phong thổ ký", " Triều khẩu phong thổ ký" Sau năm 1945 , việc nghiên cứu về văn hoá làng ở nước ta nói chung được quan tâm và đẩy mạnh hơn. Riêng vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An có thêm các công trình như: " Hát ví Nghệ Tĩnh" của Nguyễn Chung Anh, " Hát giặm nghệ Tĩnh","Ca dao Nghệ Tĩnh" của Nguyễn Đổng Chi và Ninh Viết Giao, " Hát phường vải", " Vè Nghệ Tĩnh","Thơ văn Xô viết Nghệ Tĩnh"," Chuyện kể dân gian xứ Nghệ","Truyện trạng xứ Nghệ"," Truyền thuyết núi Hai Vai"," Âm nhạc dân gian xứ Nghệ"," Kho Tàng ca dao xứ Nghệ"v.v và nhiều công trình quan trọng khác như : "Văn hoá các dòng họ tiêu biểu ở Nghệ An"," Nghề , làng 3
- nghề thủ công truyền thống", " Hương ước Nghệ An"," Trò chơi dân gian xứ Nghệ'," Tục thờ thần và thần tích nghệ An", " Văn hoá ẩm thực xứ Nghệ" và địa chí văn hoá thuộc các huyện: Quỳnh Lưu, Nam Đàn, Diễn Châu, Yên Thành Đặc biệt từ khi có chỉ thị của thường trực Tỉnh uỷ và uỷ ban nhân dân tỉnh về việc sưu tập biên soạn" Địa chí văn hoá làng xã ở Nghệ An" ngày 12/11/1993, việc biên soạn địa chí văn hoá trở nên thường xuyên hơn. Đến nay đã có 295 trên 469 làng xã của cả tỉnh đã và đang tiến hành biên soạn địa chí văn hoá. Những năm gần đây cùng với cả nước, Nghệ An đã đẩy mạnh phong trào xây dựng làng văn hoá, đơn vị văn hoá và đã thu được kết quả đáng khích lệ. Tuy vậy việc tìm hiểu , nghiên cứu văn hoá truyền thống ở các làng xã mới triển khai bước đầu và kết quả đạt được còn quá khiêm tốn so với giá trị vốn có của văn hoá làng . VI- KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN 1. Kết quả nghiên cứu Luận văn này muốn từ những tài liệu thực tế văn hoá làng vùng đồng bằng và ven biển tỉnh Nghệ An để nhằm rút ra được những đặc trưng riêng của văn hoá khu vực. Kết quả này giúp cho chúng ta có thể hiểu được bản sắc văn hoá vùng đồng bằng ven biển Nghệ An nói riêng, Nghệ Tĩnh nói chung, từ một phía, và từ phía khác có thể hiểu rõ sự khác biệt giao thoa với văn hoá làng đồng bằng Bắc bộ, làng đồng bằng Nam bộ. Giúp cho việc giữ gìn , phát huy những bản sắc văn hoá tốt đẹp và biết khắc phục những hạn chế của làng hiện nay. 2. Đóng góp của luận văn Luận văn là tài liệu có tính thời sự giúp cho các nhà lãnh đạo, các nhà quản lý văn hoá có thêm căn cứ khoa học trong việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn nói chung, ở vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An nói riêng. Có thể xem luận văn này là tài liệu bổ ích cho việc nghiên cứu văn hoá địa phương nói riêng và địa phương học nói chung. Đồng thời cũng nêu rõ những yếu tố tốt đẹp cần gìn giữ, phát huy, những hạn chế cần khắc phục trong công cuộc xây dựng gia đình văn hoá, làng văn hoá ở địa bàn nông thôn vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An. 4
- VII - BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham thảo, luận văn chia làm 3 chương. Chương I: Bản sắc văn hoá Việt Nam và Văn hoá làng ( 15 trang) Chương II: Văn hoá làng vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An ( 44 trang) Chương III: Những giải pháp nhằm giữ gìn bản sắc văn hoá làng vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An ( 11 trang ) Ngoài ra, luận văn còn có phần phục lục ( 23 trang) để minh hoạ cho những nội dung trong luận văn 5
- CHƯƠNG I BẢN SẮC VĂN HOÁ VIỆT NAM VÀ VĂN HOÁ LÀNG [ I- TIỂU DẪN Văn hoá Việt Nam được đặt trong bối cảnh Đông Nam Á. Đây là một khu vực thống nhất trong cái đa dạng. " Lịch sử văn minh thế giới có nhiều vùng. Châu Âu có Hy Lạp, trung tâm là Địa Trung Hải . Châu Á có Trung cận Đông liên quan đến Bắc Phi, Ấn Độ có liên quan đến Tiểu Á và Đông Á chia thành Bắc Á gồm Trung Quốc, Nhật Bản Triều Tiên, và Nam Á - Việt Nam và Thái Bình Dương. Đông Nam Á là một trong những cái nôi của loài người, là vùng có tài nguyên vô cùng phong phú: Dầu hoả, Cao su, Than, Thiếc, Apatít Cây lúa, nguồn sống của 2/3 đến 3/4 nhân loại đã có rất sớm ở vùng này. Nông sản, khoáng sản, hải sản dồi dào vô tận " (Nguyễn Khánh Toàn, 1973). Hiện tại, vùng Đông Nam Á bao gồm 10 nước: Cămpuchia, Thái lan, Myanma, Malaixia, Inđônêxia, Philippin, Brunây, Xingapo, Việt nam, Lào. Đông Nam Á là một khu vực có chỉnh thể riêng về văn hoá, được ra đời và hình thành từ rất lâu. Nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định: Ở đây có nền nông nghiệp lúa nước với một phức thể văn hoá gồm 3 yếu tố: văn hoá núi, văn hoá đồng bằng và văn hoá biển. Ở đấy, làng là một đơn vị vô cùng quan trọng, làng là một ý niệm rất sâu sắc và thiêng liêng đối với người Việt Nam, Làng tượng trưng cho quê cha đất tổ. Lý giải về vấn đề Văn hoá làng phải chỉ rõ ra đặc trưng văn hoá, bản sắc văn hoá Việt Nam, giải thích các thuật ngữ có liên quan như dòng họ, lễ hội hương ước, nghề truyền thống, văn hoá dân gian Chính đó là tất cả nội dung mà chương này hướng đến. II. BẢN SẮC VĂN HOÁ VIÊT NAM 1. Thuật ngữ văn hoá. Đây là một khái niệm phức tạp trong khoa học xã hội:"Cho đến nay đã có trên bốn trăm định nghĩa khác nhau về văn hoá, tất cả đều bị ảnh hưởng tinh thần luận. Các định nghĩa ấy có thể rất sâu sắc, độc đáo hấp dẫn dân tộc nào cũng có văn hoá, vì bất cứ cái gì ta hình dung cũng có mặt Văn hoá, dù đó là cây cối, khí trời đến phong tục, cách tổ chức xã hội, các hoạt động sản xuất vật chất 6
- và tinh thần, các sản phẩm của các hoạt động ấy, cho nên không thể tìm một định nghĩa thao tác luận cho Văn hóa nếu dựa vào xã hội học,kinh tế,chính trị v.v. Cũng không thể liệt kê hết vì các mặt ấy rất khác nhau. Chỉ còn tìm cách ngay ở bản thân con người, căn cứ vào sự khu biệt giữa con người với các động vật khác" (Phan Ngọc, 1994, tr. 114) Hiện nay xu thế chung của giới khi nghiên cứu văn hoá đều cho rằng văn hoá là sản phẩm do con người sáng tạo ra và tồn tại ngay từ buổi bình minh của lịch sử loài người. Văn hoá được hiểu là tổng thể những nét đặc trưng tiêu biểu nhất của xã hội, thể hiện trên các mặt vật chất , tinh thần, trí thức , tình cảm. Thuật ngữ "văn hoá" là một từ Hán Việt vốn có nguồn gốc từ lâu đời . Văn có nghĩa là cái đẹp và hoá có nghĩa là thay đổi. Ở Việt Nam, vào năm 1938 phải kể đến Đào Duy Anh, ông viết : "Người ta thường cho rằng văn hoá là chỉ những học thuật tư tưởng của loài người , nhân thế mà xem văn hoá vốn có tính chất cao thượng đặc biệt. Thực ra không phải như vậy, học thuật tư tưởng có nhiều là ở trong phạm vi văn hoá nhưng phàm sự sinh hoạt về kinh tế, về chính trị, về xã hội cùng hết thảy các phong tục tập quán tầm thường lại không phải ở phạm vi văn hoá hay sao? Hai tiếng Văn hoá chẳng qua chỉ chung tất cả các phương tiện sinh hoạt của loài người cho nên ta có thể nói rằng: "Văn hoá tức là sinh hoạt" ( Đào Duy Anh,1992 tr.13 ).Năm 1949, trong " Chủ nghĩa Mác và Văn hoá Việt Nam , đồng chí Trường Chinh viết:" Văn hoá là một vấn đề rất lớn, bao gồm cả Văn học nghệ thuật, Triết học, Phong tục tập quán, Tôn giáo Có người cho văn hoá với văn minh là một. Nhưng trong lịch sử nhiều dân tộc chưa có văn minh song đã có Văn hoá. Văn hoá súc tích, phát triển tới mức nào đó mới thànhvăn minh". Phan Ngọc đã trình bày quan điểm của mình về Văn hoá. Ông đã chỉ ra từ văn hoá bắt nguồn từ chữ La Tinh Cultus Agri là " Trồng trọt ngoài đồng"tức là "Sự giáo dục, bồi dưỡng tâm hồn con người" xét theo nghĩa gốc, Văn hoá gắn liền với giáo dục, đào tạo con người, một tập thể người để cho họ có được những phẩm chất tốt đẹp, cần thiết cho toàn thể cộng đồng. Tiếp đến, ông giải thích thuật ngữ vào Phương Đông, có thể là qua tiếng Hán. Nghĩa gốc của Văn là vẻ đẹp do màu sắc tạo ra. Từ cái nghĩa này văn có nghĩa là hình thức đẹp đã biểu hiện trong lễ , nhạc, cách cai trị,đặc biệt trong ngôn ngữ, cư xử lịch sự. Nó biểu hiện thành một hệ thống quy tắc ứng xử được xem là đẹp đẽ. Văn do đó trở thành một yếu tố then chốt của chính trị và lý luận thu hút những người dị tộc 7
- theo người Hán bằng chính cái văn của nó. Với một thao tác luận độc đáo, ông đã đưa ra những ví dụ khá thú vị và đầy sức thuyết phục, hấp dẫn về văn hoá Việt Nam, về Nguyên Trãi, Hồ Chí Minh, về cố đô Huế, và tác giả kết luận:"Văn hoá là một quan hệ. Nó là mối quan hệ giữa thế giới biểu trưng và thế giới thực tại. Quan hệ ấy biểu hiện thành một kiểu lựa chọn riêng của một tộc người, một cá nhân so với một tộc người khác, một cá nhân khác. Nét khu biệt các kiểu lựa chọn làm cho chúng khác nhau, tạo thành những nền văn hoá khác nhau là độ khúc xạ. Tất cả mọi cái mà một tộc người tiếp thu hay sáng tạo đều có một khúc xạ riêng có mặt ở mọi lĩnh vực và rất khác độ khúc xạ ở một tộc người khác "(Phan Ngọc, 1994,tr.105) Trần Ngọc Thêm trong cuốn " Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam", tác giả đã đưa đến cho người đọc đầy đủ những thông tin khác nhau xung quanh khái niệm văn hoá, xác định cấu trúc của văn hoá, "Văn hoá là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra và tích luỹ qua quá trình họat động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình:" (1996, tr. 27 ) Theo chúng tôi, định nghĩa về văn hoá của ông tổng giám đốc UNESCO Federico Mayor có tính thuyết phục cao:"Văn hoá là tổng thể sống động của các hoạt động sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống giá trị truyền thống và thị hiếu- Những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc." "Nói tới văn hoá là nói tới toàn bộ những hiểu biết của con người kết tinh lại thành giá trị xã hội truyền thống, thị hiếu có vai trò điều tiết mọi ứng xử của con người trong xã hội , và có khả năng liên kết mọi người trở thành một cộng đồng xã hội riêng biệt. Sự hiểu biết được biểu hiện ở mỗi cá nhân và mỗi cộng đồng. Sự biến đổi của hiểu biết là quá trình biến thành văn nhưng sự hiểu biết phải được tích tụ bằng sự định hướng , có khả năng kết tinh thành chuẩn mực và điều tiết thế ứng xử của con người thì trở thành văn hoá. Các giá trị xã hội( cả giá trị vật chất và giá trị tinh thần) điều xuất phát từ những nhu cầu hay thực tiễn . Giá trị là những ước muốn cao cả của con người muốn đạt đến , nó không thể đo đếm được ví như một tác phẩm văn học nghệ thuật, di tích danh thắng, phong tục tập quán, hay tín ngưỡng Từ các nhu cầu về chính trị làm xuất hiện các giá trị về trật tự xã hội. Nhu cầu điều hoà quan hệ xã hội thì có các giá trị đạo đức . Nhu cầu về một cõi vĩnh hằng vẫn lưu giữ 8
- được trong ký ức xã hội thì làm xuất hiện giá trị tôn giáo, tín ngưỡng. Nhu cầu con người muốn trao lại truyền thống đã xuất hiện những giá trị về giáo dục hoặc nhu câù khoái cảm nghệ thuật đã hình thành giá trị thẩm mỹ . Giá trị định hướng con người ở các xã hội khác nhau, vì thế thang giá trị cũng khác nhau. Ví như các chuẩn mực về đạo đức lối sống, phong tục tập quán, các kiểu ứng xử ở mọi xã hôị đều có sự khác nhau. Vậy có thể nói văn hoá là bảng giá trị xã hội. Để có bảng giá trị xã hội thì vai trò con người trong xã hội được xem là yếu tố cốt lõi. Vì thế người Phương Tây đã dùng chữ Cultusra là "văn hoá có nghiã là vun trồng trí tuệ con người."( Trần Quốc Vượng, 1999 .tr.18) Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định một cách khái quát nhưng rất cụ thể về văn hoá: "Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích cuộc sống, loài người sáng tạo phát minh ra văn học , chữ viết , đạo đức pháp luật, khoa học , tôn giáo , văn học nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng , toàn bộ các sáng tạo và phát minh đó chính là văn hoá" ( Hồ Chí Minh toàn tập 1994, tr 431). Thủ tướng Phạm Văn Đồng viết:" Nói tới Văn hoá là nói tới một lĩnh vực vô cùng phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì không phải là thiên nhiên mà có liên quan đến con người trong suốt quá trình tồn tại, phát triển, quá trình con người làm nên lịch sử. Cốt lõi của sức sống dân tộc là văn hoá với nghĩa cao đẹp của nó, bao gồm cả hệ thống giá trị: Tư tưởng và tình cảm, đạo đức với phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu từ cái mới bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu để bảo vệ mình và không ngừng lớn mạnh." (Phạm Văn Đồng, 1995,tr.16 ) Ở Việt Nam chúng ta, nhiều tác giả đã quan tâm nghiên cứu như: Phan Kế Bính , Trần Đình Hượu, Phạm Đức Dương, Cao Xuân Huy, Phan Ngọc,Trần Ngọc Thêm Dù các tác giả đi theo các hướng tiếp cận khác nhau nhưng đều có cơ sở của mình khi nói về văn hoá. Thời đại chúng ta ngày nay, văn hoá đang được quan tâm hơn bao giờ hết. Văn hoá ngày nay đang được thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội. Bên cạnh các thể chế xã hội như , chính trị, kinh tế thì văn hoá được hiện diện và tác động mạnh mẽ đối với sự phồn thịnh của mỗi quốc gia. Văn hoá là nội dung giá trị, biểu hiện trình độ trí tuệ và các phẩm chất tinh thần của mình với cộng đồng xã hội.Vậy nền văn hoá của một dân tộc là bản sắc, là khác biệt với bất kỳ văn hóa 9
- dân tộc nào khác. Nên có thể nói văn hoá là tượng trưng cho dân tộc "Văn hoá còn, dân tộc còn, văn hoá suy thì dân tộc suy, văn hoá mất thì dân tộc diệt". Đất nước Việt Nam trong thời kì đổi mới hiện nay, Đảng ta rất chú trọng đến giá trị văn hoá, phù hợp với yêu cầu của công cuộc phát triển nền kinh tế xã hội. Văn hoá được đề cập trong nghị quyết TW5 (khoá VIII )của Đảng bao quát toàn bộ đời sống tinh thần xã hội nói chung tập trung vào những lĩnh vực: Tư tưởng, đạo đức, lối sống, phong tục, tập quán, giáo dục và khoa học, văn học nghệ thuật, thông tin đại chúng, các thể chế và thiết chế văn hoá. Trong các mặt đó thì tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hoá được coi là lĩnh vực quan trọng nhất hiện nay cần được quan tâm. Nếu kinh tế là nền vật chất thì văn hoá là nền tảng tinh thần của lối sống xã hội, với tính cách như vậy văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế xã hội, hàm lượng trí tuệ, hàm lượng văn hoá trong các lĩnh vực của đời sống càng cao thì khả năng phát triển kinh tế- xã hội càng lớn và hiện thực. Muốn phát triển toàn diện và bền vững thì không thể thiếu là phát triển văn hoá 3. Bản sắc văn hoá Việt Nam Khi nói đến bản sắc văn hoá Việt Nam thì phải nhìn nhận trong mối quan hệ văn hoá vùng Đông Nam Á với đất nước . " Trước hết, tất cả các quốc gia thuộc Đông Nam Á là những quốc gia đa dân tộc. Trong mỗi nước, bên cạnh những dân tộc đa số còn chung sống các dân tộc thiểu số bản địa và thiểu số người nước ngoài với số lượng nhiều ít khác nhau. Các nhóm tộc người bản địa, nhất là phần phía bắc, không những rất đông mà còn đa dạng đến mức ta không hề thấy ở đâu khác trên thế giới, chính điều đó đã làm cho bản đồ ngôn ngữ dân tộc naỳ như một bức khảm hay một bức tranh hoạ mảng màu. Trong những thiểu số người nước ngoài thì người gốc Hoa có vai trò nổi trội nhất về số lượng và về kinh tế. Xin lưu ý đến một nét đặc biệt ở Cămpuchia và ở Lào: tầm quan trọng của thiểu số người Việt Nam có nhiều điểm giống với Trung Quốc. Người Ấn Độ nhập cư khá nhiều ở Malaixia, nhưng nhiều nhất là ở Myama. Còn người thiểu số gốc Tây Âu hay Bắc Mỹ, thì họ đi theo những biến động vừa qua của lịch sử." (Georges Condominas, 1997, tr.160). Quả thật phải nhìn từ góc độ ấy chúng ta mới thấy được bản sắc riêng của Đông Nam Á. Nhiều ngành khoa học khác nhau như dân tộc học, khảo cổ học, 10
- sinh thái học đã đưa ra nhiều minh chứng khác nhau để xác lập Đông Nam Á là một khu vực văn hoá lúa nước. Ở khu vực này, việc trồng lúa nước thay cho việc trồng cây ăn củ và trồng lúa nương là đặc điểm của văn hoá vật chất đáng lưu ý ngay từ thời đồ đá và phát triển mạnh mẽ ở thời đại đồ đồng. "Khi con người ở đây đã thuần dưỡng được cây lúa và đưa nghề trồng lúa lên vị trí trội hơn trồng rau củ, thì lúc đó các cư dân ở đây đã sáng tạo nên một hệ sinh thái chuyên biệt mang tính chất nhân văn trên cái nền của hệ sinh thái phổ quát và nghề trồng vườn. Do đó khắp nơi hình thành một phức thể canh tác, ruộng/ nương, ruộng/ vườn trong nghề trồng lúa Làm nông nghiệp lúa nước thì phải sống định cư. Ngôi nhà sàn là một sáng tạo độc đáo và rất duyên dáng của cư dân Đông Nam Á. Nó không những thích hợp với khí hậu nhiệt đới nóng ẩm( thoáng mát), chống được thú dữ (ở cao), mà còn giải quyết được mặt bằng trên mọi địa hình mặc dù ở trên núi cao, bên sườn dốc, hay trên vùng sình lầy. Ngày nay khi đi vào kiến trúc hiện đại, người Đông Nam Á vẫn ưa thích nhà sàn vì đã hiện đại hoá nó trở thành những biệt thự cực kì xinh đẹp (khác với các kiểu nhà hộp như những chiếc bao diêm xếp lại)". ( Phạm Đức Dương, 1996,tr.200). Ngoài nghề chính trồng lúa ra người ta còn phải lo đến các nghề khác như nghề đánh cá, đan lát, diệt vải, nghề làm gốm Cư dân vùng Đông Nam Á ra đời và phát triển trên nền tảng kinh tế nông nghiệp, kinh tế lúa nước cho nên từ suy nghĩ, cách làm, giao tiếp, lễ hội, kiến trúc đã pha đậm màu sắc đó. Phạm Đức Dương cũng có lý trong việc nhận xét đầy hình ảnh của mình: "Nếu như mô típ quả bầu (hay bọc trăm trứng) trong những truyền thuyết đã đưa được những cứ liệu của các bộ môn ngôn ngữ, nhân chủng làm hậu thuẫn gợi nên ý niệm xa xưa của các cội nguồn của các dân tộc trên bán đảo Đông Dương, thì chính trên mảnh đất đầy nắng gió này, thiên nhiên dường như đã vun đắp cho các dân tộc ở đây một cảnh quan địa lý đồng nhất mà đa dạng trong "khuôn viên"của khu vực Đông Nam Á: đó là dãy núi vòng cung bao quanh Cao nguyên Tây Tạng và dãy núi Trường Sơn kéo dài từ Bắc xuống Nam tạo thành một cột sống - cột trụ trời phân đôi bán đảo, một bên tiếp giáp với biển Đông, bên kia là Ấn Độ Dương, đó là những dòng sông mẹ như hình cái quạt bắt nguồn từ Hymalaya, xoè ra bao trùm lên bán đảo rồi đổ ra biển Đông, biển Ấn tạo nên những vùng đồng bằng bồn địa, châu thổ màu mỡ phì nhiêu, trong đó dòng sông Mèkhoóng dài nhất cũng qua 5 nước như hệ thống tuần hoàn mang lại nhịp sống cho con người"(Phạm Đức Dương, 1998,tr.8). 11
- Xét theo chiều lịch sử, các quốc gia Đông Nam Á từ cổ đại đến nay đều lấy nền tảng cơ sở nông nghiệp và tất cả đi lên từ nông nghiệp. Nền tảng nông nghiệp này đã ổn định hàng ngàn năm với sự thích nghi với môi trường nhiệt đới ẩm gió mùa. Quá trình phát triển khu vực Đông Nam Á bắt đầu từ giai đoạn có hạt. Theo Ngô Thế Phong thì mối quan hệ chặt chẽ về di truyền giữa Jaranica với các giống lúa nương cũng như địa bàn phân bố của chúng đánh dâú sự bùng nổ về dân số liên quan đến việc đưa cây lúa lên vùng khô hoặc đưa cây lúa xuống đồng bằng ven biển đều gắn với việc di dân từ lục địa Đông Nam Á ra hải đảo hay những vùng đồng bằng châu thổ của các con sông lớn được bồi đắp khi nước biển xuống thấp "Dù cho cây lúa đóng vai trò chủ đạo (kể cả trong đời sống kinh tế cũng như thang đánh giá giá trị xã hội ) thì nông nghiệp trồng lúa vẫn là một phức thể canh tác, là một sự kết hợp, thích nghi tài tình của con người giữa một bên là hệ sinh thái phổ quát của tự nhiên và một bên là hệ sinh thái chuyên biệt mang tính nhân tạo suốt trong quá trình lâu dài đi từ trồng trọt rau củ theo phổ rộng đến lúa nước. Do vậy trong nghề nông có hai loại hình canh tác truyền thống trên hai loại đất trồng: nông nghiệp dùng cuốc trên rẫy và nông nghiệp dùng cày dưới ruộng." Phạm Đức Dương, 1998, tr. 112 ). Quá trình sản xuất, chăm sóc cây củ thì Thuỷ lợi lại cực kì quan trọng. Có thể con người lấy nước từ suối có độ cao hơn mặt ruộng bằng hệ thống kênh rạch, ngăn sông, đắp đập, để lấy nước tưới cho ruộng đồng , đào các ao đầm dự trữ nước Khu vực Đông Nam Á có đặc trưng kiến tạo riêng, môi trường tự nhiên riêng, đây là khu vực văn hoá lúa nước. Con người ở khu vực này có tính cộng đồng rất cao, có cơ cấu tổ chức làng xã với phong tục tập quán riêng. Khu vực này đã chịu ảnh hưởng của hai nền văn hoá cổ đại là Ấn Độ và Trung Hoa, song mỗi nước lại có cách tiếp thu và lựa chọn riêng. Chính đó đã làm nên bản sắc mỗi dân tộc trong sự hoà đồng vào nền văn hoá chung - khu vực Đông Nam Á. Để thấy rõ những bản sắc văn hoá Việt Nam, trong "Văn hoá Việt Nam truyền thống và hiện đại" (1999, tr.14), Trần Ngọc Thêm đã nêu bật những đặc trưng khác biệt Văn hoá Việt Nam với Văn hoá Hán mà chúng tôi thấy đó là những điểm cơ bản nhất. 1) Về đời sống vật chất có nghề trồng lúa nước cùng các kỹ thuật nông nghiệp đi kèm (cấy hái, tưới tiêu ), các công cụ sản xuất (rìu, cày bừa ), các loại cây trồng khác (bầu bí, trầu cau ) các loại thú nuôi (trâu, gà, lợn ). Hệ quả 12
- của nghề nông lúa nước là cơ cấu ăn, trong đó cơm là chủ đạo, rau là thứ hai, cá là thứ ba; với thức uống là rượu gạo; với tục ăn là trầu cau. Hệ quả của khí hậu nóng là cách mặc các đồ thoáng mát (váy, yếm, khố ) làm từ chất liệu thực vật (tơ tằm, đay gai, bông ) cách ở có chọn hướng kỹ càng (Hướng nam, vai trò của thuật phong thuỷ). Hệ quả của thiên nhiên sông nước là cách đi lại chủ yếu bằng thuyền, là kiến trúc nhà sàn Trong khi đó thì văn hoá Hán có nguồn gốc du mục sau đó chuyển sang nông nghiệp khô (trồng kê mạch) với thực vật đi kèm với chủ yếu là đậu, với động vật điển hình là ngựa, bò, cơ cấu ăn xưa chủ yếu là thịt, bánh bao. Cách mặc phù hợp với khí hậu lạnh , ở nhà đất làm kiểu chữ đinh hoặc nhà có trát bít kín , mái thẳng, đi làm chủ yếu bằng xe, ngựa. 2) Một hệ quả quan trọng của nghề nông lúa nước là tính thời vụ cao dẫn đến chỗ trong tổ chức cơ cấu xã hội . Người Việt Nam phải sống liên kết chặt chẽ với nhau (tính cộng đồng) thành những gia tộc, những phường hội những phe giáp, những làng xã khép kín (tính tự trị). Lối tổ chức này tạo nên tính dân chủ và tính tôn ti, tinh thần đoàn kết, tính tập thể, tính tự lập (nhưng đồng thời cũng có những thói xấu đi kèm như thói gia trưởng, óc bè phái địa phương, thói ích kỷ, lối sống dựa dẫm, thói đố kỵ cào bằng). Ở phạm vi lớn làng trở thành nước, tính cộng đồng và tính tự trị chuyển hoá thành tinh thần đoàn kết toàn dân và ý thức độc lập dân tộc, nó dẫn tới lòng yêu nước nồng nàn. 3) Về nhận thức, cuộc sống nông nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau đã khiến con người phải trọng tới các mối quan hệ giữa chúng, dẫn tới lối tư duy biện chứng với sản phẩm điển hình là triết lí âm dương mà biểu hiện cụ thể là lối sống quân bình luôn luôn hướng tới sự hài hoà âm dương trong bản thân mình (đề phòng bệnh và chữa bệnh, để sống lạc quan ), hài hoà âm dương trong quan hệ với môi trường tự nhiên, ( ăn, mặc, ở ) hài hoà âm dương trong tổ chức cộng đồng và trong quan hệ với môi trường xã hội ,(lối sống không làm mất lòng ai, chiến thắng nhưng không làm đối phương mất mặt ). 4) Nhưng sự hài hoà, bình quân này không phải là tuyệt đối. Do bản chất nông nghiệp nên đây là sự hài hoà thiên về âm tính: trong tổ chức gia đình truyền thống thì phụ nữ giữ vai trò cao hơn nam giới. Trong tổ chức xã hội thì xu thế ưa ổn định nổi trội hơn xu thế ưa phát triển, âm mạnh hơn dương (làng xã tạo ra hàng loạt biện pháp duy trì sự ổn định như khuyến khích gắn bó với quê 13
- cha đất tổ, khinh rẽ dân ngụ cư, thu cheo ngoại nặng hơn cheo nội việc chọn đất đai kinh đô cũng hướng tới mục tiêu ổn định, làm "đế đô muôn đời". Chính đó là cái gốc khiến cho, dù trải qua bao phong ba, Việt Nam không bị kẻ thù đồng hoá. Trong giao tiếp và coi trọng xã hội thì coi trọng tình cảm hơn lý trí, tinh thần hơn vật chất, ưa sự tế nhị kín đáo hơn sự rành mạch thô bạo. Trong đối thoại (ứng xử với môi trường xã hội ) thì mềm giẻo, trọng văn hơn võ. 5) Việc chú trọng các mối quan hệ cũng dẫn đến một mối ứng xử năng động, linh hoạt có khả năng thích nghi cao độ với mỗi tình huống, mọi biến đổi Sự linh hoạt chỉ mang lại hiệu quả khi nó được tiến hành trên cái nền của ổn định. Văn hoá Việt Nam chịu đựng sự kết hợp kỳ diệu của cái ổn định và cái linh hoạt. Con người ứng xử linh hoạt với nhau theo tình cảm trên cơ sở tồn tại của cộng đồng ổn định: cách đánh giặc chiến tranh bằng du kích linh hoạt tiến hành trên cơ sở của chiến tranh nhân dân ổn định Trong khái niệm "đất nước" thì đất chính là biểu tượng của sự ổn định , còn nước là biểu tượng của sự linh hoạt Xét về tính động thì nó dương hơn so với đất còn xét về độ cứng thì nó mềm hơn so với đất. "Nước" còn là môi trường sống thiết thân của người Việt Nam: nước nuôi cây lúa. Có lẽ chính vì nước quan trọng như vậy cho nên một khái niệm nước không thôi cũng có thể đại diện cho đất nước được rồi. 6) Cuộc sống nông nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, còn khiến cho con người phải luôn luôn cố gắng bao quát chúng, dẫn đến lối tư duy tổng hợp luôn kết hợp mọi cái lại với nhau, lối sống cộng đồng ta nói phần trên, gắn bó mọi người chặt chẽ với nhau thành một khối. Sự kết hợp lối ứng xử tổng hợp với linh hoạt tạo nên ở người Việt Nam một tinh thần dung hợp rộng rãi; còn tổng hợp linh hoạt ở mức độ nhuần nhuyễn trên cơ sở cái nền văn hoá dân tộc vững chắc làm nên tính tích hợp như đỉnh cao của sự tổng hợp . Không phải ngẫu nhiên mà ai cũng thấy rằng người Viêt Nam có tài trong việc lắp ghép, pha chế cải tạo mọi thứ vay mượn tạo nên sản phẩm mang bản sắc đặc biệt Việt Nam từ lĩnh vực vật chất đến lĩnh vực tinh thần. Tính dung hợp này khiến cho mọi tôn giáo du nhập vào Việt Nam đều được tiếp thu và phát triển chứ không có tình trạng một tôn giáo độc tôn như khu vực các quốc gia khác Đông Nam Á còn lại: Inđonêxia, Hồi giáo; Philippin kitôgiáo v.v. " Việt Nam là quốc gia thuộc loại hình văn hoá nông nghiệp mà đặc trưng của văn hoá nông nghiệp là sống trọng tình, "một bồ cái lý không bằng một tí cái tình" , cho nên nét nổi bật nhất của người Việt Nam trong việc đối phó với 14
- môi trường là tính cách hiếu hoà. Khi bất đắc dĩ phải chiến đấu để tự vệ, người Việt Nam chỉ mong dành được một cuộc sống yên bình cho nên rất độ lượng và không hiếu thắng. Kể cả khi chiến thắng đang nắm trong tay". (Trần Ngọc Thêm, 1997,tr.572) " Cũng do hiếu hoà mà năm 1077, sau khi đánh cho quân Tống đại bại trên phòng tuyến sông Cầu, Lý Thường Kiệt đã không cho quân đánh tiếp để buộc địch "đầu hàng vô điều kiện" theo kiểu ta vẫn gặp trong các cuộc chiến tranh phương Tây, mà đã dừng lại chủ động đặt vấn đề điều đình để mở lối thoát cho địch trong danh dự, đồng thời lại "không nhọc tướng tá, khỏi tốn máu mủ mà vẫn bảo toàn được tôn miếu " (Hoàng Xuân Hãn,1995,tr. 21). Tướng giặc Quách Quỳ như chết đuối vớt được cọc vội vùng dậy "giảng hoà" để rút quân về nước".( Trần Ngọc Thêm, 1997 tr.574 ) " Trong kháng chiến chống Minh, sau khi đánh tan 10 vạn quân tại Chi Lăng năm 1427, nghĩa quân Lê Lợi chấp nhận cho Vương Thông "giảng hoà" rút quân về nước. Không những cho địch "hoà" để rút quân về nước, ta còn cấp lương thực cùng thuyền, ngựa cho chúng đi đường. Tinh thần hiếu hoà và độ lượng này được Nguyễn Trãi nói rõ trong Bình ngô đại cáo ," Mã Kì, Phương Chinh, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển chưa thôi trống ngực; Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn con ngựa, về đến Tàu còn đổ mồi hôi, chúng đã sợ chết mà thực bụng cầu hoà; ta cốt giữ toàn quân để cho dân yên nghỉ". Và cũng nói rõ trong bài phú Núi Chí Linh Nghĩ về kế làm dài của nước, Tha kẻ hoàng mười vạn sĩ binh. Sửa hoà hiếu cho hai nước Chỉ cần vẹn đất, cốt an ninh" (Trần NgọcThêm. 1997,tr.574) Bản sắc văn hóa Việt Nam biểu hiện rõ nét qua các giai đoạn lịch sử. Giai đoạn mở đầu của văn hoá dân tộc , thời kì Hùng Vương dựng nước mang đậm sắc thái bản địa. Giai đoạn thứ hai , văn hoá Việt nam ảnh hưởng trực tiếp của văn hoá Hán với gần 1000 năm bắc thuộc. Đạo Phật ảnh hưởng mạnh đến tư tưởng tôn giáo người Việt .Giai đoạn thứ ba , văn hoá Việt Nam phát triển rực rỡ dưới các triều đại phong kiến Lý, Trần, Lê, Nguyễn . Giai đoạn thứ tư, văn hoá Việt Nam ảnh hưởng của văn hoá phương Tây. ở giai đoạn này ý thức tôn vinh dân tộc rất mạnh mẽ . Chủ tich Hồ Chí Minh danh nhân văn hoá thế giới chính 15
- là người hội tụ nhiều bản sắc văn hoá dân tộc . Văn hoá Việt Nam vẫn được khẳng định trước những biến đổi to lớn của dân tộc và nhân loại . Nói tóm lại , bản sắc văn hoá Việt Nam rất giàu tính nhân bản, tính cộng đồng, luôn vận động và phát triển. " Nếu văn hoá là cái chuông thì bản sắc văn hoá là tiếng chuông vậy. Cũng như tiếng chuông , bản sắc văn hoá giúp người ta nhận ra vẻ đẹp tinh thần sâu xa của mỗi dân tộc. ( Nguyễn Khoa Điềm , 1995,tr. 46 ). Việt Nam là một quốc gia nông nghiệp ở vùng Đông Nam Á với nghề trồng lúa nước là chính. Bản sắc văn hoá Việt Nam còn được thể hiện qua các phong tục tập quán, lễ hội , các làng nghề thủ công truyền thống , các loại hình văn hoá dân gian. Các truyền thống về thần linh cũng rất gần gũi với cuộc đấu tranh chống thiên tai bão lụt , chống giặc ngoại xâm , tình yêu trong lao động hoặc lòng mong muốn về một thế lực thiêng liêng cứu sống con người: truyền thống Sơn Tinh, Thuỷ Tinh, Thánh Gióng, Liễu Hạnh công chúa Các loại hình sinh hoạt văn nghệ dân gian, ca dao, hò, vè , hát ví , hát giặm là một kho tàng văn hoá dân gian quí giá trong cuộc sống tinh thần của người dân Việt Nam . Bản sắc văn hoá Việt Nam còn được thể hiện từ trong mỗi gia đình , trong họ tộc và làng xã. Nó biểu hiện trong ngôn ngữ , văn chương của từng vùng văn hoá , các công trình kiến trúc nghệ thuật : Đình, Đền , Chùa và các mặt sinh hoạt văn hoá tinh thần trong cộng đồng dân cư. Dù có những nét văn hoá giống nhau của tất cả các vùng trên lãnh thổ Việt Nam đến mấy thì vẫn có những nét riêng biệt về văn hoá giữa các vùng , miền mà văn hoá làng là nền tảng cơ bản hun đúc nên bản sắc văn hoá Việt Nam. III - VĂN HOÁ LÀNG VÀ LÀNG VĂN HOÁ 1. Làng Làng là một khái niệm để chỉ một cấp hành chính trong hệ thống chính quyền trước đây. Trước đây trong văn bản hành chính của nhà nước Phong kiến gọi "làng" là "hương". Hàng ngày thường gọi nhau là người đồng hương (người cùng làng). Dưới làng còn có thôn, giáp, vạn, nậu, sách, kẻ Làng là tên gọi nôm, hương là tên chữ . Theo quan niệm của các nhà văn hoá, làng là một hiện tượng đặc thù của xã hội truyền thống Việt Nam. Nó là cầu nối giữa nhà (gia đình)với nước ; là một trong ba trụ ( gia đình( nhà), làng, nước) của văn hoá truyền thống dân tộc Việt 16
- Nam . Đó là nơi tập trung dân cư cùng sống chung với nhau dưới những mái nhà, quanh mái đình,ngôi chùa, nhà thờ trên một mảnh đất cao ráo, có luỹ tre hoặc không có luỹ tre bao bọc, lấy nền sản xuất nông nghiệp làm chủ yếu. Trong đó cuộc sống đa dạng và phong phú, vừa có tính đẳng cấp phong kiến vừa có tính cộng đồng dân chủ thô sớ đáng quý. Mỗi làng là một đơn vị hành chính cơ sở, một đơn vị kinh tế và là một đơn vị văn hoá xã hội có những đặc điểm riêng về lễ hội, cúng tế,về tập tục, về thiết chế cấu trúc của làng. Làng của người Việt trước cách mạng Tháng Tám được tổ chức rất chặt chẽ và có nhiều nguyên tắc khác nhau: " Tổ chức theo lối huyết thống: Là những người cùng có quan hệ huyết thống gắn bó với nhau thành đơn vị cơ sở là gia đình và đơn vị cấu thành là gia tộc (dòng họ) . Gia tộc trở thành một cộng đồng gắn bó với nhau sống quần tụ trong một khu vực gọi là làng. ( làng họ Đặng, làng họ Đậu như đã nói ở trên). Sức mạnh gia tộc thể hiện ở tinh thần đùm bọc, thương yêu nhau. Người trong họ có trách nhiệm cưu mang nhau về mặt vật chất xảy cha còn chú, xảy mẹ bú gì ; hỗ trợ nhau về trí tuệ, tinh thần : nó lú nhưng chú nó khôn ; và dìu dắt nhau, làm chỗ dựa cho nhau về chính trị : một người làm quan cả họ được nhờ Tổ chức theo địa bàn cư trú : do nhu cầu của nghề trồng lúa nước mang tính thời vụ, cần đông người để liên kết với nhau , để đối phó với môi trường xã hội ( nạn trộm cướp ) cả làng phải hợp sức với nhau mới có hiệu quả .Chính vì vậy mà người Việt Nam "bán anh em xa mua láng giềng gần" . Người Việt Nam không thể thiếu được bà con hàng xóm nhưng đồng thời cũng không thể thiếu được anh em họ hàng . Cách tổ chức này là nguồn gốc của tính dân chủ , bởi lẽ muốn giúp đỡ nhau , muốn có quan hệ lâu dài phải tôn trọng , bình đẳng với nhau . Đó là loại hình dân chủ sơ khai , dân chủ làng mạc . Tổ chức theo nghề nghiệp : Là do một bộ phận cư dân sống bằng các nghề khác nhau, người ta tụ tập lại , cùng giúp đỡ nhau để làm ra những sản phẩm nuôi sống mình. Sự tụ tập các cư dân sống bằng nghề cũng trở thành một đơn vị cơ sở có khi gọi là phường cũng có khi gọi là làng : Phường Dệt, Phường Nón , Làng Chài , Làng Mộc, Làng Buôn " ( Trần Ngọc thêm, 1997 tr.202 ) "Đối vớí người Việt Nam , làng là nơi ý niệm sâu sắc và thiêng liêng , là nơi tượng trưng cho quê cha đất tổ . Làng là nơi thừa nhận địa vị ,thành công và 17
- danh vọng của mỗi người. Ngày xưa dù đi đâu, ở đâu người vẫn tìm về làng , như về cội nguồn , để được sống giữa họ hàng làng mạc, để cuối cùng được chôn ở làng quê, bên cạnh tổ tiên." ( Nguyễn Khắc Viện 1994,tr.168). Như đã nói ở trên, làng là một đơn vị xã hội của văn hoá Việt Nam, làng của người Việt là môi trường văn hoá, ở đó mọi thành tố, mọi hiện tượng văn hoá được sinh thành và phát triển. Con người Việt Nam trong lịch sử là con người vừa của làng, vừa của nước, mang trong mình ý thức cộng đồng làng và rộng lớn hơn là vùng, miền và nước. Ý thức đó đã tạo nên cái riêng của văn hoá từng làng, từng vùng và cái chung của văn hoá dân tộc. 2. Văn hoá làng Khi nói về văn hoá làng, một số nhà nghiên cứu đã nêu bật một đặc trưng làng Việt Nam. Đó là ý thức cộng đồng, ý thức tự quản thể hiện trong hương ước của làng. Và tính đặc thù rất riêng của làng trong tập quán, nếp sống, tín ngưỡng, tôn giáo, giọng nói, cách ứng xử. Đứng trên phương diện thể chế chính trị và cơ cấu xã hội hạ tầng, có thể nói trong thời gian Bắc thuộc người Việt mất nước chứ không mất làng. Giáo sư Trần Quốc Vượng dẫn lời một tác giả phương tây rằng: " Qua Bắc thuộc nước Việt Nam như một toà nhà bị thay đổi "mặt tiền"(fa ca de) mà không thay đổi cấu trúc bên trong " ( Trần Quốc Vượng, 1997,146). Cái bên trong ở đây là văn hoá làng. Văn hoá làng là một bộ phận cơ bản tạo nên những yếu tố của kết cấu văn hoá dân tộc Việt Nam . Nếu văn hoá dân tộc là một đại lượng lớn thì văn hoá làng là một đại lượng nhỏ nhất . Được gọi là Làng không chỉ vì có một địa bàn cư trú riêng mà có một nền văn hoá với những sắc thái riêng. Đó là toàn bộ cuộc sống văn hoá bao gồm cả văn hoá vật thể và văn hoá phi vật thể với những đặc điểm mang tính truyền thống từ: ăn, ở, đi lại, với các phong tục tập quán trong sinh nở, cưới xin yến lão, ma chay, cổ vũ việc học, tôn trọng người già, tương trợ lẫn nhau, họp làng, cúng tế, lễ hội, các hình thức sinh hoạt văn hoá dân gian đến các thiết chế, cấu trúc của làng về quyền lợi và nghĩa vụ, các quan niệm về thế giới tâm linh, và xã hội trần tục của bao thế hệ trước để lại và được thử thách qua thời gian; Là chuẩn mực của toàn thể cộng đồng làng đã được lựa chọn, bảo lưu, gìn giữ và phát triển nó. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng khi nói về làng và văn hoá làng có nhận xét: 18
- "Về cái làng trong lịch sử nước ta, thì có biết bao nhiêu chuyện lý thú đáng nói mà các nhà sử học, xã hội học đã dày công tìm tòi và nghiên cứu nhằm rút ra những bài học có giá trị cho hiện thực ngày nay. Trong lịch sử lâu dài của dân tộc, làng là điểm tập hợp cuộc sống cộng đồng của mọi người, cuộc sống đa dạng và phong phú, vừa có tính đẳng cấp phong kiến, vừa có tính cộng đồng rất đáng quý. Lúc bấy giờ câu nói: " Phép vua thua lệ làng" Có cái đạo lý chân chính của nó, phần nào thể hiện một dạng dân chủ mà phải biết nhìn với con mắt lịch sử thì mới thấy hết ý nghiã độc đáo. Mặt khác lệ làng bao gồm một số điều tiêu cực đè nặng lên con người và cản trở sự phát triển của các dân tộc, cả quốc gia mà chúng ta cần nhận rõ để không rơi vào sai lầm, khôi phục những cái lỗi thời và lạc hậu".( Phạm Văn Đồng,1994,tr 34) Văn hoá làng là một thành tố rất quan trọng của nền văn hoá dân tộc, là chất keo đã kết chặt con người với nhau trong những cộng đồng làng bao đời nay để tạo nên bản sắc văn hoá của mỗi làng . Ngày nay tuy những hình ảnh của làng xưa đã có nhiều thay đổi, nhưng vẫn là nơi quê cha đất tổ, nơi chín nhớ mười thương của mỗi người. Những bản sắc văn hoá làng như cây đa, bến nước, sân đình, đường làng ngõ xóm, đồng làng, ao làng , già làng, trai làng gái làng, rồi tình làng nghĩa xóm, tắt lửa tối đèn có nhau, các phong tục tập quán, sinh hoạt văn nghệ dân gian hát ví hát giặm Nói chung tất cả những sản phẩm vật chất và sản phẩm tinh thần do người dân trong các làng xây đắp nên, lưu truyền mãi cho đến ngày nay và còn có giá trị về văn hoá đó chính là văn hoá làng. Tóm lại, văn hoá làng là một hệ giá trị văn hoá truyền thống quý báu ; Là nền tảng để trên cơ sở đó chúng ta xây dựng làng văn hoá tiên tiến đúng hướng theo tinh thần nghị quyết Trung ương V( khoá VIII) của Đảng về xây dựng và phát triển một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. 3. Làng văn hoá Nếu nói đến văn hoá làng là biểu hiện về văn hoá thì làng văn hóa được coi là nơi hình thành, xuất hiện và bảo tồn văn hoá làng. Văn hoá làng là chỉ tính chất đặc điểm của làng thì làng văn hoá chỉ địa điểm, chủ thể của văn hoá làng. Nói tới "Làng văn hoá" là nói tới chất lượng sống của làng trên mọi lĩnh vực, cả về vật chất lẫn tinh thần; Từ kinh tế, tổ chức quản lý làng, đến cảnh quan làng và mọi quan hệ của con người với xã hội, với môi trường sống. Nói cách khác là, làng văn hoá là khu dân cư mà yếu tố văn hoá đã thẩm thấu vào mọi hoạt động sống của con người. 19
- Trong phong trào " Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư" do Bộ văn hoá thông tin phát động. Thuật ngữ " Làng văn hoá " là danh hiệu để phong tặng cho những khu dân cư có phong trào văn hoá xuất sắc. Trước đây các triều đại phong kiến đã từng có phong sắc cho các làng có phong tục tập quán, lối sống thuần hậu, là làng có " Mỹ tục khả phong". Làng văn hoá ngày nay là làng, xóm, bản, thôn, ấp, khối phố đạt được 5 tiêu chuẩn như: - Có đời sống kinh tế ổn định và từng bước phát triển - Có đời sống văn hoá tinh thần lành mạnh, phong phú - Có môi trường cảnh quan sạch đẹp, an toàn - Có khu vui chơi giải trí và hoạt động văn hoá thể thao - Thực hiện pháp luật, chủ trương của Đảng và các chính sách xã hội của nhà nước và Chỉ thị 24 của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư. Và được uỷ ban nhân dân cấp huyện, cấp tỉnh cấp bằng công nhận làng văn hoá. Phong trào " Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư " nói chung, xây dựng làng văn hoá nói riêng đang phát triển mạnh, ngày càng đi vào chiều sâu. Kết quả đạt được ngày càng cao cả về số lượng và chất lượng. Năm 1997 ở Nghệ An, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã có Quyết định công nhận: làng Quỳnh xã Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu), Xóm 4 xã Nghi Liên ( nghi Lộc), thôn Lĩnh Thuỷ xã Thanh Lĩnh (Thanh Chương), bản Bộng xã Thành Sơn ( Anh Sơn), bản Còn xã Châu Quang (Quỳ Hợp) đạt danh hiệu làng văn hoá cấp tỉnh. Đó là 5 đơn vị văn hoá xuất sắc đầu tiên của tỉnh được phong tặng danh hiệu "Làng văn hoá". Tính đến cuối năm 2001 toàn tỉnh đã có 485 đơn vị được cấp bằng công nhận "Làng văn hoá", "Đơn vị văn hoá". IV. TIỂU KẾT Văn hoá được gọi là tổng thể những nét riêng biệt về tinh thần và vật chất, quyết định tính cách của một xã hội. Văn hoá bao gồm nghệ thuật, văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống có giá trị, những tập tục về tín ngưỡng Chính cái riêng biệt nêu trên của văn hoá đã tạo thành bản sắc văn hoá các dân tộc nói chung và bản sắc văn hoá Việt Nam nói riêng. Khái niệm văn hoá và bản sắc văn hoá là cơ sở lý luận để hiểu về văn hoá làng - khởi nguồn của văn hoá dân tộc và bản sắc của văn hoá Việt Nam. Khi 20
- nghiên cứu làng Việt Nam chúng tôi phải đặt trong bối cảnh Đông Nam Á, có như thế mới thấy rõ cơ sở tự nhiên, cơ sở kinh tế của làng người Việt. Làng của người Việt Nam là một đơn vị kinh tế, một đơn vị văn hoá và là một đơn vị hành chính cơ sở của hệ thống chính quyền từ trước tới nay. Là một cộng đồng dân cư gắn bó với nhau về địa vực cư trú bởi một nền văn hoá truyền thống.Văn hoá của làng là bản sắc văn hoá của cộng đồng làng. Kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá làng để xây dựng làng văn hoá là một biện pháp triển khai thực hiện Nghị quyết trung ương V( khoá VIII) của Đảng về xây dựng và phát triển một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Xây dựng làng văn hoá là xây dựng khu dân cư có đời sống tiến bộ trên cơ sở tiếp thu được những tinh hoa văn hoá mới của nhân loại và kế thừa truyền thống văn hoá tốt đẹp của địa phương. CHƯƠNG II VĂN HOÁ LÀNG VÙNG ĐỒNG BẰNG VÀ VEN BIỂN NGHỆ AN I. TIỂU DẪN Nghiên cứu làng vùng đồng bằng và ven biển tỉnh Nghệ An, không thể không đề cập đến quá trình lịch sử hình thành các đơn vị hành chính nói chung, quá trình hình thành làng xã nói riêng, cũng như môi trường sinh thái của cư dân ở đây. Những sản phẩm lao động sáng tạo của nhân dân chính là những vốn văn hoá truyền thống được hình thành trong quá trình sống thích nghi và biến đổi vùng tự nhiên mà họ sinh sống. Tỉnh Nghệ An nằm ở vùng bắc Trung bộ, có diện tích tự nhiên 16.370 Km2, địa hình rất đa dạng. Tính đa dạng này là kết quả của một quá trình lịch sử kiến tạo lâu dài và phức tạp. Núi, đồi trung du là dạng địa hình chiếm phần lớn đất đai của cả tỉnh. Không chỉ các huyện miền núi, mà các huyện đồng bằng, ven biển cũng có đồi núi xen kẽ, tuy nó làm cho đồng bằng bị chia cắt, nhưng đã tạo ra thế nông lâm kết hợp làm cho cảnh quan đẹp mắt. Nghệ An có điều kiện phát triển nền kinh tế đa dạng, tổng hợp đất đai trồng trọt rất phong phú. Rừng: Nghệ An có hầu hết các loại động vật, thực vật của vùng nhiệt đới và cận ôn đới. Hệ thực vật rừng phong phú về chủng loại, trữ lượng gỗ rất lớn với nhiều loại gỗ quý như Pơ mu, Lát hoa, Lim, Táu, Vàng tâm cùng các loại 21
- khác như tre, mét, mây, nứa, luồng Về động vật có nhiều loại như Voi, Gấu, Hổ, Bò tót, Khỉ, Vượn v.v. Biển: Nghệ An có chiều dài 92 km, có nhiều cửa, lạch: Lạch Cờn, Lạch Quèn, Lạch Thơi, Lạch Vạn, Cửa Lò, Cửa Hội. Biển đáy nông tương đối bằng phẳng, biển có các loại hải sản quý như: cá Chim, cá Thu, Tôm, Mực, Cua Sông ngòi: Nghệ An có con sông lớn nhất là Sông Lam (tức là Sông Cả) bắt nguồn từ Thượng Lào, chảy về theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, dài 523km (trong địa bàn Nghệ An có 375 km). Các sông khác đều bắt nguồn từ trong tỉnh, chảy trực tiếp ra Biển, tạo ra các cửa lạch, phần lớn là sông nước lợ: sông Hoàng Mai, sông Dâu, sông Thơi, sông Bùng. Các sông này lòng hẹp, lưu lượng nước thấp nên mùa cạn, nước thuỷ triều lên làm nhiễn mặn vào lòng đất làm bất lợi cho việc canh tác nông nghiệp. Khí hậu: Nghệ An nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa. Trong phạm vi khí hậu Việt Nam, Nghệ An nằm trong khoảng trung gian giữa hai miền khí hậu: Miền Bắc và Miền Trung. Ngoài những nét chung do địa hình phức tạp nên đã tạo cho Nghệ An những đặc điểm riêng về khí hậu. Khí hậu ở đây khắc nghiệt hơn ở nhiều vùng khác trong cả nước, với gió Lào, hạn hán gay gắt, giông bão lũ lụt Tuy nhiên, nhờ lượng nhiệt và lượng mưa dồi dào nên thời gian sinh trưởng của cây trái có thể kéo dài trong cả năm. Dân số Nghệ An gần ba triệu người, gồm có 6 dân tộc anh em cùng chung sống như: dân tộc Kinh, dân tộcThái, dân tộcThổ, dân tộc H,mông, dân tộc Khơ mú, và dân tộc Ơđu. Trong đó dân tộc Kinh là đa số, dân tộc chủ thể có mặt hầu khắp các địa bàn của tỉnh. Tập trung đông nhất là ở vùng đồng bằng và ven biển. Hiện nay có khoảng 1826028 người bằng 63% dân số của tỉnh Dân số Nghệ An được phân bổ trên khắp các huyện ,thành phố, thị xã. Hiện nay có 469 xã, phường, thị trấn bao gồm 543 làng, bản, thôn, xóm, khối phố. Trong đó vùng đồng bằng và ven biển có 255 xã, phường, thị trấn, gồm 3134 làng, thôn, xóm, khối phố. Ngược dòng lịch sử, Nghệ An đã trải qua nhiều thay đổi về đơn vị hành chính với nhiều tên gọi khác nhau. "Thời thuộc Hán , năm 111 (Trước Công nguyên), địa bàn Nghệ An hiện nay nằm trong huyện Hàm Hoan (một trong bảy huyện của quận Cửu Chân). Thời thuộc Tùy (Năm 602) nằm trong huyện Cửu 22
- Đức (một trong tám huyện của quận Nhật Nam). Thời Tiền Lê (980-1009) , Lê Hoàn chia nước Đại Việt ra thành Lộ, Phủ, Châu. Thời nhà Lý, năm Thông Thụy thứ ba (1036), Lý Thái Tông cho đổi Hoan Châu thành Châu Nghệ An, địa danh "Nghệ An" có từ lúc ấy. Năm 1101, Lý Nhân Tông nâng Châu Nghệ An thành Phủ Nghệ An. Năm 1225, nhà Trần đổi phủ Nghệ An thành trấn Nghệ An, 1469, Vua Lê Thánh Tôn định lại bản địa cả nước. Đơn vị hành chính trên phủ, huyện được gọi là Thừa Tuyên: Châu Diễn và Châu Hoan được hợp làm Thừa Tuyên Nghệ An (bao gồm cả đất Nghệ An và Hà Tĩnh hiện nay). Đến đời nhà Nguyễn, đơn vị hành chính là trấn bị bãi bỏ, cả nước được chia làm 29 tỉnh trực thuộc triều đình. Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831), nhà Nguyễn cắt hai phủ Đức Thọ và Hà Hoa, lập thành một tỉnh mới gọi là Hà Tĩnh. Từ đó cho tới nay về cơ bản, địa giới của Nghệ An không thay đổi." (Lịch sử Đảng bộ Nghệ An, 1998,tr.14). Cùng với sự tiến triển của Lịch sử, cư dân Nghệ An cũng ngày càng đông đúc. Từ thời văn hoá Đông Sơn, vua Hùng dựng nước đến nay, cư dân Nghệ An đã phát triển lên đến hàng triệu người với hàng trăm họ tộc, có nguồn gốc bản địa hoặc từ nơi khác tới. Với vị trí địa lý như đã nói ở trên. Cư dân Nghệ An sống ở cả ba vùng: núi, đồng bằng,ven biển. Do cuộc sống sinh hoạt và tồn tại, cư dân mỗi vùng có những đặc điểm khác nhau về những phong tục, tập quán, tín ngưỡng , mỗi vùng có nét riêng về văn hoá, ngoài những đặc điểm chung của vùng văn hoá Xứ Nghệ. Trong luận văn này người viết muốn nói về những nét riêng của văn hoá làng vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An. Để khái quát bản sắc văn hoá làng vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An, người viết chỉ nêu những đặc trưng cơ bản mà có thể hình dung nó như một bức tranh văn hoá được thể hiện qua những gam màu cơ bản nhất. II. NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN VỀ BỨC TRANH VĂN HOÁ LÀNG VÙNG ĐỒNG BẰNG VÀ VEN BIỂN NGHỆ AN 1. Vài nét về diện mạo làng xã Nghệ An vào cuối thế kỷ thứ XIX. Theo các nguồn tài liệu lịch sử cho ta đoán định được vào thời nhà Trần, các làng xã ở Việt Nam nói chung, ở Nghệ An nói riêng, đã dần dần hình thành; sau đó lại ra đời các hương ước, khoán ước của các làng xã. Đến niên hiệu vua Đồng Khánh ( 1886-1888), vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An có 8 huyện, 23
- 38 tổng, 795 xã, thôn, phường , giáp, trại, sách gọi chung là làng. ( Nguyễn Cảnh Tộng 1886-1888, Bính tuất ). Theo tài liệu: Địa chí, thư viện Nghệ An số 491 Nhìn chung làng xã của Nghệ An ở thế kỷ XIX cũng như làng xã ở các vùng đồng bằng ở Bắc bộ, vừa có làng chiêm, làng mùa, làng nửa chiêm nửa mùa, làng chài ven sông, ven biển. Các làng đều bố trí " Nội ngõ xóm - ngoại đồng điền". Hệ thống giao thông trong làng mở theo hình xương cá . Từ đường dọc làng, đường mé làng toả về các xóm, ngõ len lỏi tới từng gia đình, thành viên của làng. Trong làng,mọi người cư trú theo địa vực, họ có quan hệ với nhau về hành chính, nghề nghiệp (phường nghề), huyết thống (họ), lớp tuổi (giáp). Họ ràng buộc với nhau qua tín ngưỡng thờ cúng Thành hoàng làng. Mỗi gia đình có tao cho mình một không gian riêng trong khu cư trú của làng. Khuôn viên bé nhất cũng phải có nhà trên, là nơi thờ cúng, tiếp khách, nhà dưới bếp và công trình phụ . Bao quanh kiến trúc thường thường có những mảnh vườn nho nhỏ nằm trong những hàng rào bằng những rặng cây Dưới, luỹ Tre xanh, hàng Chuối tạo nên sự bình yên cho cuộc sống. 2. Những đặc trưng cơ bản của bức tranh văn hoá làng. Ngoài những điểm chung nói trên,làng vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An có những đặc điểm riêng mang tính địa phương như : cấu trúc của làng là cấu trúc mở, không khép kín và cũng không có cổng ra vào như các làng ở Bắc bộ. Đặc trưng của văn hoá làng vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An biểu hiện rõ nét nhất ở tín ngưỡng , tôn giáo, phong tục tập quán, ở văn hoá dòng họ, sinh hoạt văn hoá dân gian 2.1 Ở lĩnh vực tín ngưỡng Tín ngưỡng được hiểu là sự ngưỡng mộ của con người vào một niềm tin nào đó; những niềm tin mang tính trừu tượng, vô hình , nhưng lại có một sức mạnh tác động đến đời sống của họ và họ rất tôn thờ. Cư dân vùng đồng bằng và ven biển ở Nghệ An có các tín ngưỡng như: 2.1.1 Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên Người dân vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An coi những bậc đã quá cố đều là những bậc tiên tổ. Nhưng các vị tổ tiên chỉ tính được năm đời: cha, ông, cố (cụ),can, kỵ. Để thờ phụng tổ tiên các gia đình thường lập một bàn thờ gọi là bàn thờ gia tiên. Bàn thờ gia tiên có thể chỉ là một tấm ván gác đậu trên bờ vách 24
- nếu là gia đình khó khăn. Còn ở gia đình bậc trung trở lên bao giờ bàn thờ gia tiên cũng được sắp đặt cẩn thận. Thường thì bàn thờ gia tiên chiếm hẳn một gian nhà. Có thể là gian giữa, cũng có thể là gian cuối cùng của ngôi nhà theo thứ tự từ bên trái khi đứng ngoài sân nhìn vào. Thông thường người ta chia gian thờ ra làm ba lớp: * Lớp ngoài cùng là chiếc phản để mọi người lên đó làm lễ. Không đặt phản thì để trống nền nhà , để khi cần thiết có thể bày bàn ghế hoặc trải chiếu. * Lớp thứ hai là một cái hương án trên mặt có đồ tam sự hay ngũ sự, lư hương cọc sáp bằng đồng, (hoặc 5 cái hoặc 3 cái), lọ độc bình,đèn Những nhà khá giả còn có đôi hạc bằng đồng. Hương án này là nơi khi có cúng bái, người ta mời các vị thần trong gia đình về ngự . Thông thường gồm có các vị thần: Long quân chúa mạch, Nhị vị thần môn, Đông trù tư mệnh, Táo phủ quần thân * Lớp trong cùng mới thực sự là bàn thờ tổ tiên. Thường là một cái bàn dài, trên đặt ba bộ đồ thờ: phía bên trái ( đứng ngoài nhìn vào)là một cái khám sơn son, kín ba mặt( tả , hữu và mặt sau ), mặt trước có làm cửa nhỏ, có thể khép mở, trong cùng đặt bài vị của vị thần tổ được coi là vị khai sáng ra dòng họ mình . Vị này đã được thờ ở nhà thờ họ , nhưng các gia đình đều thờ riêng. Ở giữa là một cái ngai ( hoặc một cái ỷ)tượng trưng cho ông vải. Chiếc ngai sơn son thiếp vàng, hai tay ngai mang hình đầu rồng. đầu ngai nhô lên như hình tròn giống như mặt nguyệt. Phía bên phải là một số bài vị không có khám che chắn, chỉ bày lên bàn , cũng không theo một thứ tự nào . Nơi đây là để thỉnh tổ tiên của gia đình thuộc nhiều chi khác : các bà vợ các vị tổ tiên, các bác, chú, cô. Ngoài bàn thờ ba lớp này, người ta treo một chiếc màn gọi là ỷ môn. Khi cúng lễ xong, màn ấy phải bỏ xuống để che khuất cả bàn thờ , để một lúc sau mới hạ cỗ bàn. Ý nghĩa của hành động này là "sự tử cũng như sự sinh, sự vong như sự tồn".Mời được các vị tổ tiên về, cầu khẩn, báo cáo xong rồi thì để cho các vị ăn uống. Khi các ngài ăn uống phải che màn để người ngoài không nhìn thấy được. Trường hợp các gia đình khá giả , gian thờ được trang hoàng bằng hoành phi câu đối . Hoành phi là một tấm biển gỗ nằm ngang trên xà nhà chiếu xuống 25
- bàn thờ. Biển được sơn son khắc chữ. Hai bên gian thờ còn treo câu đối . Câu đối là những biển gỗ dài được sơn son thiếp vàng treo dọc hai bên bàn thờ. * Ngày lễ thờ cúng gia tiên. Ngày thờ cúng gia tiên gọi là ngày giỗ. Ngày giỗ còn gọi là kỵ nhật, là ngày kỷ niệm người mất trong gia đình. Có giỗ lớn và giỗ mọn. Nếu là cha hay mẹ thì có những ngày kỷ niệm sau (làm sau khi mất) : - Cúng ba ngày. - Cúng thất tuần; sau khi người chết được 49 ngày. Hai ngày trên không gọi là giỗ mà gọi là ngày lễ. - Ngày tiểu tường; tức ngày giỗ đầu, một năm sau khi mất. - Ngày đại tường ; giỗ năm thứ hai sau khi người mất qua đời. - Ngày trừ phục ; giỗ hết khó. - Giỗ cát kỵ ; là giỗ lành, ngày giỗ chính hàng năm. Trước ngày giỗ thường có lễ cúng tiên thưởng, làm vào lúc chiều tối. Ngày giỗ cha mẹ, người con trưởng phải chủ trì, các em đều phải làm mâm mang đến hoặc đến góp giỗ từ hôm trước. Những nhà có vai vế trong làng, nhà thầy học khi có giỗ, người quen cũng mang cau, rượu, vàng, hương đến lễ. * Thờ cúng tổ họ. Những dòng họ lớn, con cháu chung nhau làm một ngôi nhà để thờ vị thuỷ tổ của họ mình. Nhà thờ ấy gọi là nhà thờ họ hay nhà thờ tổ, tên chữ gọi là Từ đường. Việc trang trí Từ đường cũng giống như trang trí bàn thờ gia tiên. Có điều khác là, việc thờ tự ở đây là do ông trưởng họ trông nom. Mỗi năm vào ngày huý nhật ông Thuỷ Tổ, cả họ họp mặt tại nhà thờ để cúng tế. Các chi họ đều mang cỗ bàn, hương hoa đến lễ. Ngày đó cả họ ăn uống vui vẻ, ông trưởng họ đọc lại sự tích của vị Thuỷ tổ. Sau buổi lễ thường kéo nhau đi thăm mộ tổ, đắp thêm cỏ, hoặc tô lại mộ(nếu là mộ gạch). 2.1.2. Tín ngưỡng thờ Thành Hoàng làng. Cũng như những vùng nông thôn khác, mỗi làng ở vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An đều thờ một hay nhiều vị Thành Hoàng, và đều dành cho Thành Hoàng làng một niềm thiêng liêng kính cẩn. 26
- Thành Hoàng là vị thần bảo vệ làng. Tuy cái tên chữ là mượn của Trung Quốc, nhưng Thành Hoàng Trung Quốc và Thành Hoàng Việt Nam không giống nhau. Thành Hoàng Việt Nam mới có từ ngày ta bị lệ thuộc nhà Đường. Thành Hoàng ở Việt Nam nói chung, ở Nghệ An nói riêng mới bắt đầu được thờ vào cuối thế kỷ XV. Thành Hoàng ở các làng vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An thường là: - Thiên thần, Nhiên thần; đó là thần Núi, thần Đá như: Thành hoàng của xã Ngõa Trường cũ là Thạch Tinh linh ứng tôn thần. Thành Hoàng của Yên Dũng Hạ là Miên Sơn đại vương, Thành Hoàng của Linh trường Võ Liệt là Cự Thạch đại vương là thần Sông, Nước, là thần Cây (Mộc thần), là thần Gió, thần Mưa, thần Sấm, Chớp - Nhân thần: là những thần có công đánh giặc cứu nước, dựng nước như: An Dương Vương, Mai Hắc Đế, Lê Lợi, Lê Thái Tông, Lê Thánh Tông. Các tướng lĩnh tài ba có nhiều chiến công hiển hách như Tam Toà Lý Nhật Quang, Sát Hải đại vương Hoàng Tá Thốn, Nguyễn Xí, Nguyễn Sư Hồi v.v Những người đậu đạt thành danh làm vinh dự cho làng như Bạch Liêu, Hồ Tông Thốc, Ngô Trí Tri, Ngô Trí Hoà v.v Những người có công khai canh lập làng như Tạ Công Luyện với làng Bút Điền - Lạc Sở, Võ Chính Đạo đối với làng Hậu Luật, Phan Vân đối với làng Tiên Thành v.v Những thần xuất thân từ tầng lớp lao động bình thường nhưng đột tử vào giờ thiêng được thượng đế cho làm thần như thần Ăn xin ở Cương Kỹ - Nam Đàn, thần Lặt Phân ở Thanh Chương, thần đi buôn Trâu Bò như bà chúa Nhân ở Yên Lạc - Hoà Sơn, Đô Lương. Những thần tổ sư các nghề nghiệp như nghề luyện Quánh ở Nho Lâm - Diễn Châu, ông họ Nguyễn đối với nghề đóng thuyền ở Trung Kiên - Nghi Lộc. Trần Chuẩn đối với nghề thợ mộc, Nguyễn Tiên Yên đối với nghề làm muối ở Quỳnh Lưu v.v. Thần phồn thực ( thần được gọi là dâm thần ) được thờ ở Dị Nậu Quỳnh Dị , ở Phú Đa Quỳnh Bảng (Quỳnh Lưu ) Thành Hoàng ở các làng vùng đồng bằng ven biển Nghệ An được thờ ở đình làng. Cũng có nhiều nơi lập miếu thờ riêng, nhưng mỗi lần tổ chức lễ bái, họ đều rước Thành Hoàng ra đình. Vì Thành Hoàng là vị thần trụ trì giám sát và 27
- bảo hộ một làng, nên dù ông thuộc vào loại thần gì (Thượng đẳng, Trung đẳng hay Hạ đẳng) cũng vẫn đứng đầu làng. Các vị thần khác vào những ngày lễ hội làng vẫn phải về đình và đứng sau Thành Hoàng. Hàng năm trong làng nếu tổ chức các ngày lễ như: Lễ Kỳ Yên, lễ Khai Hạ, lễ Hạ Điền Những ngày đó, Thành Hoàng là vị thần trước nhất được mời về chứng kiến cho dân làng. Lễ thờ cúng Thành Hoàng được tổ chức trang nghiêm ở đình làng. Các vị Hương chức đều phải mặc áo gấm thụng, đội mũ ra làm lễ, có phân công nhiệm vụ Tiến tửu (dâng rượu), độc chúc (đọc văn khấn). Các phường Bát Âm phục vụ nghi lễ bài bản. Có làng tổ chức vui chơi giữa cuộc tế lễ hoặc ngay sau đó. Vui chơi giữa cuộc có hát Cửa đình, vui chơi sau đó là các trò đu, vật hoặc các tích chèo. Những làng mà vị Thành Hoàng là một nhân vật có sở trường về một môn nghệ thuật hay võ thuật nào đó thì trong ngày lễ hội, dân chúng càng phải diễn lại sự tích cho thần xem như ở lễ hội đền Mai Hắc Đế thường phải có hội vật, vì Mai Hắc Đế là một đô vật nổi tiếng của dân tộc. Ở các làng vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An trước đây thờ nhiều vị thần, thánh nhưng đối với dân làng quan trọng và thiêng liêng nhất vẫn là thần Thành Hoàng làng. Họ luôn luôn có ý thức đề cao, tôn vinh và bảo vệ thần Thành Hoàng làng của mình. Ngạn ngữ có câu: Trống làng nào làng ấy đánh. Thánh làng nào làng ấy thờ. Thờ mẫu cũng là một tín ngưỡng quan trọng của cư dân vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An, nhất là ở các làng ven biển. Làng Quỳnh Phương (Quỳnh Lưu) là một trong những trung tâm lớn của tín ngưỡng thờ mẫu của các làng ven biển, ở đây có đền Cờn hiện còn thờ "Tứ vị Thánh Nương". Sử chép: "Vào năm Thiệu Bảo thứ nhất ( 1279 ), bên Trung Hoa, quân Nguyên đánh úp quân Tống ở cửa Nhai Sơn. Tướng Trương Thế Kiệt, trung thần của nhà Nam Tống đem Đế Bính, gia quyến, bề tôi và quân lính tuỳ tòng hơn 800 người lên thuyền trốn ra biển. Nhưng chẳng may sóng to gió lớn nổi lên 28
- lại bị giặc đuổi theo rất gấp. Trương Thế Kiệt, Đế Bính cùng các bề tôi và quân lính chết sạch. Hoàng hậu cùng hai cô con gái may sao bíu vào một mảnh ván. Sóng gió đã đưa ba mẹ con dạt vào cửa Cờn ở Quỳnh Lưu. Một nhà sư trụ trì tại một ngôi chùa gần đó, buổi chiều đi dạo chơi trên bãi cát ven biển thấy ba mẹ con đã thập tử nhất sinh liều mình ra cứu. Sư đem ba mẹ con vào ở trong chùa và nuôi cho ăn tử tế. Được một thời gian ngắn, ba mẹ con lại sức, trở lại béo tốt, nhất là vẻ mặt của Hoàng hậu, coi tuyệt đẹp. Sư động lòng trần tục muốn tư thông. Bị Hoàng hậu cự tuyệt, sư xấu hổ quá, gieo mình xuống biển tự tử. Hay tin Hoàng hậu than rằng: " Chúng ta nhờ sư mà được sống, nay sư vì chúng ta mà phải chết, sao nỡ yên tâm ". Nói xong Hoàng hậu nhảy xuống biển chết. Mất mẹ, hai cô con gái khóc thảm thiết, nghĩ rằng sống bơ vơ ở nơi đất khách quê người không nơi nương tựa, rồi buồn bã quá, cũng nhảy xuống biển chết theo. Bốn người chết, thi thể nổi lên, một mùi thơm như lan quế toát ra, về sau rất linh thiêng, dân xã lập đền thờ, thường khi vào lộng ra khơi chài lưới hay làm nghề chở thuyền trên biển đến cầu khấn, thấy có linh nghiệm, nhân đấy đặt tên xã mình là Hương Cần (hay còn gọi là Phương Cần ).Vì thờ cả bốn người nên bà con quanh vùng thường gọi là Tứ Vị" (Dẫn theo Ninh Viết Giao, ,2000,tr 90) Đền Cờn có hai đền : Đền Trong và đền Ngoài . Đền Trong ( đền chính ) có 4 pho tượng: tượng Dương Thái Hậu, tượng Hoàng Hậu và hai công chúa. Đền Ngoài cũng 4 tượng ( 4 tượng trước đã mất, 4 tượng này một số người Thanh Hoá vào hành hương mới cúng ). Đó là các tượng Đế Bính, Văn Thiên Tường , Lục Tú Phu và Trương Thế Kiệt. Trước đây, Đế Bính và ác vị trung thần khác của nhà Tống đã kể trên đều thờ ở đền Trong. Đầu thế kỷ XIX vua Gia Long bảo rằng : nam nữ thụ thụ bất tương thân , thờ chung trong một đền không được. Do đó mới lập đền Ngoài để thờ các vị ở đền này. Trước cách mạng tháng Tám 1945, ở làng biển này con cái gọi mẹ bằng chị, gọi bà bằng mệ, gọi chị bằng ả. Mẫu, mẹ chỉ được dành riêng trong việc thờ cúng thánh mẫu. Đền Cờn thờ " Tứ vị Thánh Nương" này là một đền thờ bậc nhất nổi tiếng về sự thiêng liêng, về cả quy mô và cả kiến trúc Mỹ thuật của vùng Nghệ An. Phương ngữ có câu: 29
- "Nhất Cờn, nhì Quả, Bạch Mã, Chiêu Trưng" Trước đây các làng ven biển Nghệ An còn thờ cá Ông. Cá Ông là cá Voi, một loại động vật lớn ở biển chuyên ăn các loại sinh vật nhỏ với một khối lượng lớn, nên các loài cá nhỏ mỗi khi thấy cá Voi là dồn nhau chạy ào ạt từng đàn, dễ sa vào lưới của người đi biển. Khi có sóng to gió lớn, cá Voi thường đến các thuyền lớn để tránh bão, người đi biển lại nghĩ rằng cá Voi đến cứu nạn cho người Với thân hình to lớn, trên mình lại có nhiều đường vân óng ánh, bơi nhanh nên thường gây ra sóng lớn. Dân chài cho đó là cá thần hay giúp đỡ họ làm ăn trên biển cả. Cho nên họ gọi cá Voi là cá Ông hoặc đức Ông. Và mỗi khi gặp cá Ông họ làm lễ Tống Táng, người nào thấy cá Ông bị nạn phải chịu để tang, nhưng khăn chịu tang cho cá Ông lại là khăn màu đỏ. 2.2. Tôn giáo. Ngoài những tín ngưỡng bản địa nói trên, một bộ phận dân cư ở các làng xã và vùng đồng bằng ven biển Nghệ An còn thờ đạo Phật, đạo Nho, đạo Giáo, đạo Thiên Chúa. Đó là những tôn giáo ngoại nhập. 2.2.1. Đạo Phật. Đạo Phật ở Việt Nam được du nhập từ Trung Quốc sang từ thế kỷ thứ VI. Đến thế kỷ thứ IX đã phát triển mạnh và hình thành những trung tâm lớn như: trung tâm Luy Lâu ở Thuận Thành - Hà Bắc (thuộc dòng Thiên Đàng), trung tâm ở Hoa Lư thuộc dòng Vô ngàn Thương (dòng Thịnh Đạt). Khi đạo Phật đã trở thành Quốc giáo thì ảnh hưởng của đạo Phật xuống tận các làng xã. Khắp nơi xây chùa thờ Phật. Đạo Phật vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An tuy không phát triển mạnh như ở Bắc bộ, nhưng có nhiều chùa chiền thờ Phật như: Chùa Trả ở Dị Nậm, chùa Bảo Minh ở Thiện Kỵ, rồi chùa La Hán, chùa Bụt Mọc , chùa Rồng chùa Phượng ở Quỳnh Lưu; chùa Diệc , chùa Cần Linh ở thành phố Vinh; chùa Phật Hoàng Tử, chùa Bốn ở Diễn Châu. Đạo Phật là một đạo hướng thiện, khuyên con người ta tu nhân tích đức, sống từ bi bác ái, nó phù hợp với đạo lý truyền thống của người Việt Nam nói chung, của các cư dân vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An nói riêng. Đó là lòng thương người như thể thương thân, nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng Nên giáo lý đạo Phật đã góp phần tạo nên bản sắc văn hoá cả dân tộc nói chung, của văn hoá làng vùng đồng bằng ven biển Nghệ An nói riêng. 30
- 2.2.2. Đạo Nho. Đạo Nho thâm nhâp vào Việt Nam ta từ thời Bắc thuộc. Các Thái thú Tích Quang, Nhâm Diên, Sỹ Nhiếp là người trực tiếp đưa đạo Nho vào nước ta. Giáo lý của đạo Nho là tạo ra một xã hội kỷ cương, phép tắc trên dưới . So với đạo Phật, đạo Nho là một công cụ quản lý trị nước rất hiệu quả, rất cần thiết cho việc củng cố chế độ trung ương tập quyền, nên được các triều đại phong kiến Việt Nam rất tích cực tận dụng và phát huy. Nhất là thời kỳ Lý-Trần, các khoa thi để phổ biến học thuyết đạo Nho đã phát triển đến tận các làng xã. Thời Lê- Trịnh (1663) đã ban bố 24 điều giáo hoá theo lý thuyết đạo Nho xuống tận các làng xã, và đạo Nho từ chỗ chèn lấn đạo Phật đến chiếm vị trí độc tôn ở nước ta. Người dân ở các làng xã vùng đồng bằng ven biển Nghệ An vốn nổi tiếng hiếu học, đua nhau qua "Cửa Khổng Sân Trình" và đã tạo ra một tầng lớp Nho sĩ đông đảo. Số đậu đạt cao ra làm quan, số còn lại làm nghề dạy học (dạy Nho học). Đội ngũ thầy đồ xứ Nghệ được cả nước biết đến và mến phục. Vì có một đội ngũ hạt nhân của Đạo Nho đông đảo như vậy nên đạo Nho đã ảnh hưởng rất sâu sắc trong các làng xã ở Nghệ An nói chung. Những người bình dân ở các làng xã vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An mặc dầu không biết rõ Khổng Tử người khai sinh ra đạo Nho là ai, nhưng lại rất hiểu rõ đạo Vua, Tôi, Cha, Con và Thầy trò (Quân- Sư- Phụ), về nội dung của thuyết "Tam cương Ngũ thường", rất hiểu về lễ nghi cưới hỏi theo "Chu Công lục lễ", tang chế cha mẹ theo " Thọ Mai gia lễ". Người phụ nữ hiểu rõ đạo " Tam tòng, Tứ đức" của nho Giáo. Nhưng Nho giáo thâm nhập vào Việt Nam nói chung, các làng xã ở Nghệ An nói riêng, khi ở đây đã có một bề dày về đạo lý: hiếu thuận "thương người như thể thương thân", "nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng", lại thêm được thấm nhuần tính bác ái, từ bi của đạo Phật. Vì vậy tinh thần, nội dung của đạo Nho ở các làng vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An không nặng nề hà khắc theo giáo lý, mà nó được mềm hoá đi. 2.2.3.Đạo Lão. Cùng với đạo Nho, đạo Lão từ Trung Quốc sang Việt Nam khá sớm. Đây là một đạo ra đời trên cơ sở tín ngưỡng thần tiên và phương thuật cổ đại. Đạo quan niệm về ngũ hành, sấm vĩ "Trời và người cảm ứng" v.v Đạo đề ra nhiều phép tu luyện để được " Trường sinh bất tử". Giáo lý của đạo Giáo đã bắt gặp được tín ngưỡng dân gian nên được phát triển mạnh trong một bộ phận cư dân ở các làng xã. Các làng vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An đã mọc lên nhiều "tĩnh 31
- điện" "am miếu" đó là cơ sở của Đạo Lão. Có nhiều đạo sĩ nổi tiếng như Nguyễn Đức Huyên (còn gọi là Tả Ao) Nguyễn Thiếp (còn gọi là La sơn Phu Tử) , Lê Quý Đôn v.v Mặc dầu đạo Giáo đã bị suy tàn nhưng ảnh hưởng của nó vẫn còn đậm nét trong văn hoá làng Nghệ An, ảnh hưởng đến các phong tục tập quán của nhân dân như xem ngày giờ, bói toán, chiêm nghiệm, ăn chay nằm mộng khi làm nhà, cưới hỏi, giao dịch. 2.2.4. Đạo Gia Tô. Đến thế kỷ XVI một tôn giáo mới từ phương Tây thâm nhập vào nước ta, đó là đạo Gia Tô giáo. Gia Tô giáo vốn là một đạo của người nghèo, về sau bị bọn thống trị lợi dụng để bành trướng, xâm lược các nước bên ngoài. Vì giáo lý của đạo Gia Tô mâu thuẫn với Nho giáo, giáo lý Gia Tô giáo không thừa nhận việc thờ thần thánh, không thừa nhận việc thờ tổ tiên, chỉ có thờ phụng chúa ZêSu là duy nhất. Chúa trên tất cả, trên cả cha mẹ sinh ra mình. Vì vậy buổi đầu nó không vào được Việt Nam vì không có đất để phát triển. Mãi đến cải cách của Vaticăng II(1936), giáo lý Gia Tô giáo có tính khoan dung hơn, nhất là từ khi việc truyền đạo của Gia Tô được Pháp bảo trợ. Thực dân Pháp đã gắn liền sự truyền đạo với chính sách xâm lược nước ta, Nghệ An là một trong những trung tâm lớn của đạo Gia Tô ở Việt Nam. Năm 1840, Đức cha Grêgôrio đã ban sắc thành lập giáo phận Vinh gồm ba tỉnh Nghệ-Tĩnh-Bình ngày nay, và giao cho một giám mục người Việt Nam là đức cha Ngô Gia Hậu, người đầu tiên làm đại diện tổng toà giáo phận Vinh. Dưới tổng toà giáo phận Vinh là các thừa sai, linh mục, chủng sinh, thầy giảng, tu sĩ, giáo xứ và giáo dân. Cũng như ở các vùng khác, Gia Tô giáo vào Nghệ An bằng các con đường truyền đạo của các cha cố. Các cha cố bước đầu truyền đạo vào các làng chài ven biển rồi dần tiến sâu vào đồng bằng, lên cả miền núi vùng đồng bào dân tộc thiểu số như ở các bản dân tộc Thái ở Kênh Tráp ( Tương Dương). Nhưng phát triển mạnh hơn là ở các huyện Nghi Lộc, Diễn Châu, Nam đàn, Đô Lương, Quỳnh Lưu. Riêng ở Nghi Lộc có đến 3 giáo xứ như: xứ Xã Đoài (Nghi Diên), xứ Lộc Mỹ (Nghi Quang), xứ Lộc Thạch (Nghi Thạch). Các huyện Diễn châu, Nam đàn, Đô Lương, Quỳnh Lưu, đều mỗi nơi mỗi xứ. Gia Tô giáo vào đứng chân và phát triển được là nhờ sự bảo trợ của thực dân Pháp để phục vụ cho chính sách xâm lược của chúng. Mặt khác, các cha cố đã biết khuếch trương các huyền thoại của đức chúa trời để mê hoặc lòng người. Hơn nữa, sự khủng hoảng 32
- sâu sắc của chế độ phong kiến đương thời đã gây ra nghèo đói bần cùng cho người dân lao động. Người lao động theo đạo Gia Tô trước hết là để được hưởng một số quyền lợi về kinh tế, chính trị của bọn thực dân và các cha cố hứa hẹn. Nhưng người dân ở các làng xã theo Gia Tô giáo vẫn không quên thờ tổ tiên, không quên Tổ Quốc, vẫn sống phúc âm trong lòng dân tộc như Nguyễn Trường Tộ Đạo Gia Tô là một yếu tố văn hoá tâm linh đáng kể của làng xã vùng đồng bằng ven biển Nghệ An. 2.3.Phong tục tập quán. Phong tục tập quán ở các làng xã và vùng đồng bằng ven biển Nghệ An có nhiều. Trong luận văn này chỉ đề cập đến một số phong tục tiêu biểu cho bản sắc của văn hoá làng như: phong tục cưới hỏi, tang ma, lễ hội, tôn trọng người già, cổ vũ việc học 2.3.1. Phong tục cưới hỏi. Cũng như nhân dân cả nước, nhân dân ở các làng vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An coi việc cưới là việc hệ trọng của đời người. Trước đây tục cưới ở nước ta được tổ chức theo "Chu công lục lễ", sách của Chu Hy đời Tống (Trung Quốc) soạn ra. Lục lễ gồm 6 lễ như sau: + Lễ nạp thái: là lễ đôi bên nhà trai, nhà gái trao đổi sự đính ước. Nhà trai đem tới nhà gái một con chim Nhãn với ý nghĩa là đã chọn có nơi. + Lễ vấn danh: là lễ hỏi họ tên, tuổi người con gái, tên tuổi của người mẹ. + Lễ nạp cát: là lễ chấp nhận sự đính ước sau khi nhà trai đã so đôi tuổi và tuổi đôi bên đã hợp nhau. + Lễ nạp tệ (tệ là lụa): là lễ ăn hỏi. Nhà trai mang lụa đến nhà gái để chứng tỏ việc lứa đôi là chắc chắn. + Lễ thỉnh kỳ: là lễ xin cưới. Nhà trai nộp lễ vật theo lời thách của nhà gái và xin định ngày cưới. + Lễ thân nghinh: là lễ cưới (còn gọi là lễ nghinh hôn). Nhà trai tới rước dâu về. Ngoài ra còn nhiều thứ lễ khác nữa như: lễ gia tiên, lễ tơ hồng, lễ mừng ông bà Ngày xưa tục cưới theo lục lễ trên được quy định khá nghiêm ngặt. 33
- Sách vở ghi: "Lục lễ bất vinh, trinh nữ bất hành". Nhưng nhân dân lao động ở các làng xã vùng đồng bằng ven biển Nghệ An lại thường theo thông tục (như tập quán vậy), chỉ gồm có mấy lễ sau: + Lễ đi dạm: do nhà trai chủ động mà rất đơn giản, chỉ vài gói trà, vài ba phong bánh Khảo. + Lễ ăn hỏi: tuỳ từng gia đình nhưng nói chung cũng nhẹ nhõm, thông thường là trầu cau, bánh quả. + Lễ cưới, tiếp luôn là đưa dâu, thường trong một ngày. + Lễ lại mặt: cặp vợ chồng mới về thăm bố mẹ vợ với một mâm xôi, cái thủ lợn. Về tiêu chuẩn hôn nhân của tầng lớp lao động rất thiết thực. Họ không quan tâm lắm đến vấn đề "Môn đăng hộ đối" mà chỉ mong có được cuộc sống hạnh phúc trong gia đình, thuận hoà: " Tham nơi sây trấy (trái) rậm cành Ham nơi có chị có anh mà nhờ" Đa số người lao động ở các làng xã vùng này không quá coi trọng về tài sản trong quan hệ hôn nhân, vì thói thường ham giàu hay gặp cảnh: " Tưởng lăn vô (vào) đó mà nhờ Ai ngờ thấp ruộng, cao bờ khó khăn" Hoặc "Khó ta đắp đổi lần hồi Giàu người đã dễ được ngồi mà ăn" Họ coi trọng tình yêu chân chính và hạnh phúc của đôi lứa là trên hết: " Không tham nhà ngói bức bàn Nhà tre quét sạch thanh nhàn là hơn" Hoặc: "Râu tôm nấu với ruột bầu Chồng chan, vợ húp gật đầu khen ngon" Nhan sắc với người dân lao động ở đồng bằng và ven biển Nghệ An chưa phải là lý tưởng nếu như đẹp không có cái nết đi kèm theo "Xấu người đẹp nết, còn hơn đẹp người 34
- Và xu hướng chung là muốn hỏi dâu và gả rể ở nơi gần". "Con gái mà gả chồng gần Có bát canh cần nó cũng đem cho. Hoài con mà gả chồng xa Cũng bằng Khái bắt tha ra ngoài rừng" Tóm lại quan niệm về hôn nhân cũng như tổ chức cưới hỏi ở các làng vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An trước đây khá lành mạnh, chân tình, nồng hậu. 2.3.2. Phong tục tang ma. Phong tục tang ma của nhân dân ta trước năm 1945 được tổ chức phỏng theo sách "Thọ mai gia lễ", một cuốn sách hướng dẫn các nghi lễ làm ma chay theo quan điểm chính trị, tư tưởng của giai cấp phong kiến đương thời. Nội dung sách là một hệ thống phép tắc về việc chôn cất người chết theo "lễ" của đạo Nho vừa rườm rà , hà khắc nặng nề tốn kém thời gian và tốn kém tiền của lại chứa đựng nhiều điều bất công và giả tạo. Việc tang xưa của các làng đồng bằng và ven biển Nghệ An cũng bị ảnh hưởng nặng nề của sách "Thọ mai gia lễ". Khi có người thân chết người ta làm lễ nhập quan, làm lễ phúng viếng trước lúc đưa đám, có lễ chuyển cửu đám ma, lễ hạ huyệt. Sau khi chôn xong còn tổ chức làm lễ ba ngày (hoặc 50 ngày) lễ 100 ngày, rồi giỗ tiểu tường rồi giỗ đại tường. Đặc biệt là phải mời phường kèn trống. Có nơi làm nhà táng , mái lợp bằng bánh khô (bánh đa). Đưa ma phải đi thật chậm, cứ ba bước lại lùi một bước. Nhà giàu thì phải nghỉ hai lần dọc đường. Thường con cháu của người mất phải chịu nhập liệm và khiêng vác, không được thuê mướn người ngoài. Có nơi khi nhập liệm phải dỡ ngói, tranh cho hồn còn bay đâu đó về nhập xác. Người ta hô ba hồn bảy vía đối với nam, ba hồn chín vía đối với nữ. Đưa tang và hạ huyệt cũng phải chọn giờ, chon ngày. Mới chôn đắp mộ hình dài, khi cải táng mới đắp mộ hình tròn. Đối với người đi biển khi táng xong phải có con thuyền úp trên mộ. Tang phục bằng vải xô, con gái một tai (một chóp), con dâu hai tai, con trai thắt dây chuối và vấn "cha đưa mẹ đón", cha gậy tre mẹ gậy vông. Thời gian chịu tang là hai năm ba tháng, sau ba năm mới cải táng. Người ta cho nghĩa tử là nghĩa tận, nên hàng xóm đều tiễn đưa người quá cố về nơi an nghỉ cuối cùng. Hương ước của nhiều làng đã ghi về việc tang là: " 35
- Gia đình phải lấy chữ kiệm ước làm đầu không được xa xỉ, còn làng nước phải hết lòng giúp đỡ. Khi chôn cất người qua đời, ai có trọng tang tiểu cớ thì không được đưa ma, còn tất cả phải đi đưa ma để tỏ ý trọng hậu người chết. Giúp đỡ hay đi đưa ma về không được sách nhiễu tang chủ bất cứ điều gì lớn nhỏ ". Khoán ước của làng Quỳnh Đôi còn ghi cả trách nhiệm của các hương lão, chức sắc của làng đối vớí gia đình có tang như sau: " Từ nay trong phe có quản việc hương lão, chức sắc và những người ngoài 60 tuổi. Nếu nhà bần bạc có việc tang, nhà tang chủ trình phe xin tống táng thì phe cấp các nghi trượng để tống táng, còn như lễ kính biếu phe chẳng kỳ phải có hay không ". Nhìn chung việc tang ma trong các làng đều được họ hàng, làng xóm lo liệu. Sống có họ đang, làng xóm ; chết có xóm làng, họ đang. Tính cộng đồng rất rõ, là nét văn hoá trong cuộc sống của người dân ở vùng này 2.3.3 Phong tục làm nhà: Cũng như các địa phương khác ở vùng Hà Tĩnh. Người dân vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An rất coi trọng việc làm nhà ở, dù nhà tre, nhà gỗ hay nhà xây. Việc đầu tiên làm nhà ở phải chọn hướng và xem tuổi của gia chủ để biết có hợp với năm tháng định xây cất và hướng định xây cất hay không. Câu "Lấy vợ xem tuổi đàn bà, làm nhà xem tuổi đàn ông" và "Lấy vợ hiền hoà, làm nhà hướng nam" vẫn đúng với quan niệm của người dân vùng này. Nói chung là ngoảnh mặt hướng nam, nhưng thường ghé đông (Đông Nam) để đón những luồng gió mát rượi từ biển vào của mùa hè, song cũng tránh được những luồng gió Lào khô nóng và tránh được cả những luồng gió mùa đông bắc buốt lạnh (về mùa đông). Đa phần người dân vùng này làm nhà theo kiểu Tứ trụ, khoẻ chắc và nhà hạ chạn, rộng lòng. Nhà thường làm ba gian hay năm gian, gian giữa thường được gọi là gian bảy, rộng hơn các gian khác. Đây là gian đặt bàn thờ tổ tiên, hai gian bên bàn thờ, có nhà kê bàn thờ thổ công, thánh sư, còn nữa là đặt dường, phản để người nhà nghỉ. Để làm một cái nhà người dân vùng này quan niệm phải qua ba lễ quan trọng và chủ yếu nhất là: Lễ khởi công động thổ, thường chọn giờ tốt trong ngày. Lễ cất đứng hay còn gọi là lễ cất nóc: là đặt thượng lương ( có làng gọi là thượng ốc), dựng mấy cây cột cái, đặt đường xà gồ rồi đặt đường thượng lương để lấy ngày lấy giờ. Ở vùng Diễn Châu, khi đặt thượng lương người ta thường 36
- nhờ những người đàn ông có đạo đức, sống có uy tín, gia đình hoà thuận sinh được nhiều con trai để đặt đường này. Lễ khánh thành nhà: tổ chức liên hoan mời cả làng đến dự. Không những thế việc làm nhà bếp cũng rất được coi trọng. Trước khi vào nhà mới thường mời một phụ nữ hiền hậu có phúc đức đến xông lửa. Người ta cho đây là những việc cơ bản nhất của việc làm nhà ở. Cũng xuất phát từ những tín ngưỡng dân gian trong cuộc sống của cư dân vùng văn hoá lúa nước. Rồi việc mở cổng chọn hướng ngõ cũng được quan tâm, cổng không được chiếu vào gian bảy hoặc cửa chính của nhà, quan niệm người trong nhà phải thấy khách trước, không để người khách thấy mình trước khi vào nhà. Những nhà giàu thường có cổng, còn không chỉ là những tấm mên (phên) đan bằng tre nứa hay mớ gai bỏ lại đem tấp vào chỗ lối đi. Người dân vùng này sống theo quan niệm "Làng thương hơn nương kín", cổng chỉ là biên giới giữa mỗi không gian với gia đình, thiên nhiên. Tường nhà một số xây bằng sò, một số xây bằng đá vôi, nhưng chủ yếu nhà ở đây tường nhà chỉ là những tấm phên đan bằng tre, nứa che chắn xung quanh, cửa nhà cũng vậy. Là những rèm phên mà trong ca dao, dân ca phản ánh lên điều đó. Rèm vôi đã chống sẵn rồi Mời chàng vô nhởi mà chơi hát đàn. Hay một số nhà nghèo, nguyên liệu bằng tre, mét nứa. Nhà anh Cột mét Kèo tre "Tường" thưng mên (phên) ná (nứa), mái đè toóc rơm (rạ). Nói chung phong tục làm nhà ở của người dân vùng đồng bằng ven biển Nghệ An từ cách phân bố sử dụng đến lễ tục làm nhà, cấu trúc nhà có nét chung giống với một số vùng Bắc Hà, nhưng nó vẫn có những nét riêng biệt của mình. Phải đặt nó trong điều kiện địa lý, môi truờng sống mới thấy được tính khoa học và tính thiết thực của nó , một mặt vẫn giữ được văn hoá truyền thống bản địa, mặt khác vẫn tiếp cận được văn hoá của các vùng khác. 2.3.4 Tục lệ hàng năm đọc hương ước trước dân Làng Hương ước là văn bản pháp lý của mỗi làng, trong đó bao gồm các điều ước về dân sự, hình sự, các điều ước giữ gìn đạo lý, về phong tục tập quán, có liên 37
- quan đến tổ chức xã hội cũng như đến đời sống xã hội trong làng . Hương ước là tấm gương phản chiếu bộ măt xã hội cũng như đời sống văn hoá của mỗi làng . Hương ước được hình thành trong lịch sử , được điều chỉnh và bổ sung mỗi khi cần thiết. Đó là một hệ thống luật tục tồn tại song song với luật pháp của Nhà nước mà không đối lập với luật pháp của Nhà nước. Muốn biết làng nào như thế nào, có an ninh trật tự hay không, có thuần phong mỹ tục hay không, nói tóm lại là có văn hoá hay không, hãy xem hương ước của làng ấy. Ở vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An tuỳ theo mỗi làng, hàng năm có thể đọc hương ước đầu năm hoặc vào những ngày lễ thánh hay lễ cầu yên. Ví như làng Hậu Sơn ở (Viên Thành- Yên Thành), Làng Thiện Kỵ (Quỳnh Thiện- Quỳnh Lưu) Bởi vậy dẫu người dân mù chữ vẫn nhớ nhập tâm trong điều Hương ước, vẫn thuộc lòng "lệ làng" mà chưa chắc họ đã hiểu luật pháp Triều đình qui định. Người dân chấp hành một cách nghiêm túc là vì thế. Đến nay người dân ở làng Hâụ Sơn vẫn nhớ những điều trong Hương ước "Thôn ta, nếu người nào hiếp dâm vợ người ta, hoặc là thông dâm trước với nhau, rồi sau mới cưới xin, thì phải phạt hai quan tiền". Hay người dân làng An Lạc nay thuộc Nam Lĩnh- Nam Đàn nhớ điều ghi trong Hương ước "Hàng năm vào đầu xuân, lý dịch chọn ngày, mời tất cả quan viên và dân làng tập trung tại đình. Chọn người thông hiểu Văn nghĩa đọc bản điều ước giảng cho mọi người nghe để hiểu thuần phong mỹ tục". Hoặc "Làng ta thờ ba vị Linh thần tại ba ngôi đền. Hàng ngày phải để ý mối mọt, hương đèn. Đã chọn các ông Thủ từ, tri điện có phân công cụ thể. Làm không tròn trách nhiệm là có lỗi". Rõ ràng việc đọc hương ước theo định kỳ hàng năm đã trở thành nếp sống, một tục lệ , một tập quán của một số làng ở vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An trước cách mạng tháng Tám. Điều này thể hiện tính tự quản cao của làng xã, và tục lệ riêng biệt đến mức rạch ròi "Trống làng nào làng ấy đánh, Thánh làng nào làng ấy thờ". Chỉ có làng là gắn bó với mỗi thành viên trong cộng đồng. Tục lệ đọc hương ước, nghe hương ước, thuộc lòng các điều khoản của hương ước trở thành một tục lệ để gắn kết cộng đồng làng với mỗi thành viên, trở thành phong tục, nếp sống ở vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An. 2.3.5 Tục tôn trọng người già 38
- Cũng giống như một số nơi ở Hà Tĩnh, người dân vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An lấy câu " Triều đình trọng tước, làng nước trọng xỉ " làm nguyên tắc xử thế trong làng xã. Việc tôn trọng người già ở vùng này được quy định trong hương ước, khoán ước của mỗi làng: Cha mẹ đến tuổi từ 60 trở lên con cháu làm lễ cáo gia tiên rồi mời cha mẹ ngồi lên cái sập hoặc cái giường để giữa nhà, trên đó trải chiếc chiếu mới, để dâng rượu, dâng quà cho cha mẹ chúc cha mẹ sống lâu. Còn phía làng thì vào một ngày đầu xuân, con cháu đưa các cụ từ 60 tuổi trở lên ra đình làng, sau đó mới tổ chức thành đoàn rước long trọng đi suốt làng để các cụ nhận được sự chúc mừng của dân làng như làng Phương Lịch, Lý Trai, v.v ở Diễn Châu, làng Thượng Yên (Quỳnh Lưu) v.v. Khi các cụ trở về đình mới cúng tế Thành Hoàng và ăn Yến. Một số nơi còn tổ chức Yến Lão, còn tặng áo, mừng tiền cho các cụ. Khi ra đình các cụ được ngồi ngang với các chức sắc trong làng tuỳ theo lứa tuổi. Những cụ gia đình nghèo nàn được làng giúp đỡ. Điều 85 trong khoán ước Quỳnh Đôi quy định: "Khi đi chợ gặp người già cả có mang xách gì mà mình là người trẻ tuổi, sức bạo, nên xách hộ. Nếu ai dương dương, cứ làm ngơ như không biết thì phạt" (43,1998, tr. 670). Rõ ràng tôn trọng người già là một đạo lý tốt đẹp của người dân vùng này. Đạo lý ấy không chỉ tiềm ẩn trong tâm ão của người dân thể hiện nếp sống có văn hoá mà là tập tục lâu đời đã trở thành truyền thống của người dân vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An nói riêng và xứ Nghệ nói chung. 2.3.6 Tục cổ vũ việc học. Vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An có tục cổ vũ người học, người dân vùng này đã cổ vũ tích cực, động viên con cháu không phải chung chung mà ở nhiều làng xã đã trở thành một tập tục, một cơ chế đối với người đi học. Như ở làng Đông Tháp "năm Tự Đức thứ 9 (1856), lệ làng định: Những ai cắp sách đến Khổng sân Trình thì được miễn thôn dịch và tuần phòng, còn là khoá sinh thì miễn thôn dịch" (17,1995, tr.342). Người đi học nếu đỗ đạt được đón rước, làng nổi trống đình để cả làng biết, vì người đỗ đạt họ quan niệm đã đem lại vinh quang không những cho gia đình họ hàng mà cho cả làng, Làng là phải nơi đất tốt mới có người đỗ đạt như vậy. Nhiều làng xã như Trung Cần, Xuân Liễu, Xuân Hồ (Nam Đàn); Kim Khê, Đông Hải, Cẩm Trường (Nghi Lộc); Lý Trai, Nho Lâm (Diễn Châu); Quan Trung, VânTụ (YênThành) đã xây dựng bia khắc tên những người thi đậu để con cháu noi theo. Nhiều làng còn tổ chức các lễ cầu khoa rất lớn, cầu cho nhiều người đỗ đạt , học giỏi .Việc làm 39
- này còn để khuyến khích việc học của các Nho sinh và tưởng nhớ, noi gương các nhà Khoa bảng lớp trước. Nhiều gia đình dẫu đói nghèo vẫn chắt chiu từng hạt gạo, củ khoai để nuôi con ăn học . Trong văn học dân gian xứ Nghệ còn để lại nhiều câu ca, mẩu chuyện về các gia đình còn chưa đủ ăn mà có người thi đậu. Sáng khoai, trưa khoai , tối khoai, khoai ba bữa Ông đỗ, cha đỗ, con đỗ, đỗ cả nhà Một số gia đình không đến nỗi đứt bữa , không lo điều gì hơn là cấp cho con dăm ba chữ , để có thể thờ cúng tổ tiên ông bà , có thể đọc được gia phả , biết được cách cư xử với anh em họ hàng ,làng xóm.Việc cổ vũ người học không những chỉ là mong cho đỗ đạt mà là để cho con cháu trong gia đình làng xóm tu dưỡng nhân cách. Như "điều 18, Hương lệ làng Quỳnh Đôi viết: Nhà người học trò thì giữ hạnh kiểm làm đầu, bảo con trai chăm học tập, những ngày ở xa quê hương thì nhiều, ở nhà mình thì ít, tuy thế mặc lòng; nhưng vẫn giữ gìn lễ nghĩa, đến những nhà quả phụ mời ở lại cũng không vui lòng ở, cho nên đi du học nơi xa thanh thiết mới là quý. Khi đã về quê hương rồi, người này đến hỏi thăm người nọ thì hỏi thăm nhau cùng bàn bạc nghĩa lý văn bài, rồi mới phát minh cho nhau thì mới có ích". (Hương ước Nghệ An,1998, tr. 672). Những người đi học được hưởng một phần hoa lợi của "học điền" để mua giấy bút và đỡ một phần phí tổn trong những ngày cắp sách đến Khổng sân Trình. Không phải chỉ vùng này mới có việc cổ vũ học hành nhưng việc cổ vũ ở đây trở thành tục lệ trong hương ước như đã nói ở trên. Đó cũng là mục đích để con cháu đua đòi học tập, vừa hiển vinh cho bản thân, gia đình vừa tôn vinh cho làng xã. Điều này không chỉ học tập thi đỗ, làm người, làm quan mà đó là vấn đề văn hoá, học vấn, văn hoá đạo lý làm người, một quan niệm rất sâu sắc của người dân vùng này . 2.3.7: Tập quán uống nước chè xanh tập thể Nước chè xanh ( hay nước chè tươi ) ở Nghệ Tĩnh so với các địa phương khác ở Việt Nam có cái đặc biệt ở chỗ nấu lần đầu rất đặc, rất chát, gọi là chè cốt hay nước chát. Người xứ Nghệ có câu nói cường điệu: Khăm ( cắm ) đũa vào không bổ ( ngã ) để chỉ món đồ uống của họ. Nói chung, ở đâu cũng vậy, nước chè xanh dùng sau bữa ăn, nhưng ở xứ Nghệ không nhất thiết phải như 40
- vậy. Người dân vùng quê xứ Nghệ uống chè vào những buổi riêng biệt , ở đây có tục ngồi đàm đạo giữa những người hàng xóm láng giềng . Họ chẳng có qui định gì chặt chẽ, nhưng cũng có ước lệ nho nhỏ: Trong làng , mỗi khi ai nấu một nồi nước chè, thường múc ra nhiều bát được đặt lên mâm, rồi chủ nhà ( hoặc cho vợ con ) đi mời chòm xóm , hay "ới" lên vài tiếng gọi những người láng giềng đến dự . Họ ngồi chõng hoặc đòn( ghế thấp) chuyện trò , thường là chuyện làm ăn, chuyện thời sự trong làng ngoài xã. có khi uống lúc rãnh rỗi hoặc đêm khuya, họ thường khuyến khích mọi người đọc truyện nôm hay thoại chèo, hát đối đáp dân ca, ngâm vè hoặc kể chuyện cũ mới vui buồn. Thông qua những cuộc này họ học tập nhau những kinh nghiệm trong lao động sản xuất , ở đây cũng được coi là trường học không tự giác. Trò chuyện chán chê, đợi nước nguội mới uống , người dân xứ Nghệ nấu chè xanh cả cành lẫn lá, người ta cho nấu như vậy mới ngon. Bên ấm nước chè xanh thỉnh thoảng có rổ khoai, rổ lạc luộc càng thêm đậm đà tình làng nghĩa xóm. Tập quán uống nước chè xanh của người xứ Nghệ đã đi vào thơ ca, nhạc hoạ. " Ai ơi cà xứ Nghệ Càng mặn lại càng dòn Nước chè xanh xứ Nghệ Càng chát lại càng ngon ". Tập quán uống nước chè xanh tập thể là bản sắc của người dân xứ Nghệ. Những buổi uống nước chè xanh như thế, ngoài trao đổi kinh nghiệm sản xuất nhắc nhở công việc của ngày tới, họ còn bảo nhau giữ gìn thuần phong mỹ tục, nhắc nhau hướng thiện v.v có khi người ta góp ý, phê phán một cách nhẹ nhàng những người có thói hư tật xấu như ích kỷ, bủn xỉn Vì vậy tác dụng giáo dục ở đây rất lớn. Tập quán này là một nét đẹp văn hoá truyền thống của các xóm làng vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An nói riêng xứ Nghệ nói chung. Ngày nay nó còn có tác dụng rất lớn trong việc phát triển kinh tế, công tác an ninh quốc phòng của cụm dân cư ở Nghệ An. Đồng thời cũng là điều kiện tốt cho các làng, xóm tổ chức xây dựng và nâng cao đời sống văn hoá cho nhân dân theo chủ trương của Đảng và nhà nước hiện nay. 2.4. Lễ hội: 41
- Lễ hội là một sinh hoạt tín ngưỡng văn hoá truyền thống đã lâu đời của các cộng đồng làng xã Việt Nam. ở các làng vùng đồng bằng và ven biển Nghệ An có khá nhiều lễ hội truyền thống từ xưa đến nay như: Lễ hội đền Cuông ở xã Diễn An (Diễn Châu) để tưởng nhớ Thục An Dương Vương, vị vua đã có công sáng lập nên quốc gia Âu Lạc ( 250-208 TCN). Lễ hội diễn ra vào các ngày 14,15,16 tháng 2 âm lịch hàng năm. Lễ hội đền Cuông có các lễ như: lễ Yết Cáo, lễ Yên vị, lễ rước kiệu thần từ đình Xuân ái (Diễn An) nhà thờ họ Cao (Diễn Thọ) ra đền Cuông, lễ tạ tại đền, lễ rước kiệu thần từ đền Cuông về đình Xuân ái và nhà thờ họ Cao. Trước đây giữa các ngày lễ hội có các trò chơi như chọi gà, chơi đu, vật, kéo co, cờ người, cờ thẻ. Ngày nay còn có các sinh hoạt thể thao mới như bóng chuyền, bóng bàn, chiếu phim, biểu diễn văn nghệ, leo núi, trưng bày văn hoá phẩm, tham quan thắng cảnh Hồ Xuân Hương, tắm biển cửa Hiền Lễ hội đền Mai Hắc Đế ở xã Vân Diên (Nam Đàn). Lễ hội diễn ra trong 4 ngày từ 13-16 tháng 1 âm lịch hàng năm để tưởng nhớ công tích của Mai Thúc Loan - vị vua đã có công lãnh đạo nhân dân nổi dậy chống lại ách thống trị hà khắc của nhà Đường, lập nên nhà nước Vạn An độc lập tự chủ ở thế kỷ thứ VIII (722-726). Lễ hội có các lễ : Khai quang tại khu mộ đền thờ và mộ thân mẫu của vua Mai, lễ cáo tại khu mộ có lễ Đại tế, lễ rước kiệu của các làng trong vùng về đền vua Mai để hội tế theo nghi lễ Triều đình, lễ dâng hương tại mộ và lễ tạ tại đền. Trong thời gian tiến hành các lễ có các trò chời dân gian xưa như: đấu vật, đua thuyền, hát văn, hát đối, hát ví, đánh đu, leo cột mỡ, đi cầu kiều, cướp cờ, đánh cờ Trong đó đua thuyền trên sông Lam là sôi động và náo nhiệt nhất. Đấu vật, đánh đu, hát đối diễn ra dài ngày nhất. Ngày nay còn có thêm các hoạt động văn hoá văn nghệ thể thao như: Múa hát, chiếu phim, triển lãm, bóng đá, bóng chuyền, tham quan các di tích lịch sử, danh thắng quanh vùng khu di tích Kim Liên. Di tích tưởng niệm Phan Bội Châu, mộ đồng chí Lê Hồng Sơn, khe Bò đái, bến Sa Nam Lễ hội đền Cờn ở xã Quỳnh Phương (quỳnh Lưu) thờ "Tứ vị thánh nương" để tạ ơn các thánh mẫu đã từng báo mộng giúp các vua Trần Anh Tông, Lê Thánh Tông chinh phạt giặc phía nam thắng lợi, phù hộ độ trì cho dân các làng chài làm ăn phát triển. 42
- Trước đây lễ hội diễn ra từ 15 tháng chạp đến 30 tháng giêng âm lịch hàng năm, nay chỉ diễn ra trong 3 ngày 19,20,21 tháng giêng âm lịch hàng năm. Lễ hội có các lễ: Lễ cáo, lễ Yên vị, đặc biệt là lễ rước kiệu thần bằng đường bộ và rước kiệu thần bằng đường thuỷ từ đền trong ra đền ngoài và rước từ đền ngoài về lại đền trong. Lễ tạ tại đền trong là thời điểm mạnh của lễ hội, vừa thiêng vừa tưng bừng, mọi người dự hội đều có những phút thăng hoa trong không khí cộng cảm. Lễ hội có các trò chơi như : cờ người, cờ thẻ, chọi gà, đua thuyền truyền thống, bóng đá, bóng chuyền, bóng bàn, hát chầu văn, biểu diễn văn nghệ, chiếu phim, triển lãm, tham quan đền ngoài và tắm biển. Lễ hội đền Quả Sơn ở xã Bồi Sơn (Đô Lương). Lễ hội được diễn ra trong ba ngày 19,20,21 âm lịch hàng năm để tưởng nhớ Uy minh vương Lý nhật Quang, vị danh tướng, danh thần của vương triều Lý đã có công lớn trong việc bảo quốc an dân, củng cố nền độc lập thống nhất nước nhà ở thế kỷ XI (1039- 1055). Lễ hội có các lễ: Lễ yết cáo, lễ rước thần (từ đền Quả Sơn đến chùa Bà Bụt), lễ tạ ơn bà Bụt, lễ rước xuôi ( từ chùa Bà Bụt về đền Quả Sơn) , lễ tạ Yên Vị. Các trò chơi diễn ra sau phần lễ có: chơi đu tiên, chọi gà, cờ thẻ, cờ người, đấu vật, múa võ, bơi chải xuôi ngược trên sông Lam, hát chầu văn, diễn tích chèo tuồng cổ. Ngày nay còn có thêm các hoạt động như: cắm trại, biểu diễn văn nghệ, chiếu phim, triển lãm, trưng bày các loại văn hoá phẩm, bóng đá, bóng chuyền, tham quan các di tích danh thắng trong ngày. Lễ hội đền Đức Hoàng Mười ở xã Hưng thịnh (Hưng Nguyên). Lễ hội đền Hoàng Mười mỗi năm có hai kỳ lễ hội. Kỳ lễ rước sắc vào ngày 15 tháng 3 âm lịch và kỳ lễ khai điển vào ngày 10 tháng 10 âm lịch, ngày kỵ ông Hoàng Mười. Lễ hội có các lễ: Lễ dâng hương, lễ tạ, lễ yết cáo, lễ đại tế, lễ tưởng niệm. Các trò vui của hội có: hội rước sắc từ nhà thờ họ Nguyễn ra đền, hát chầu văn, chọi gà, đánh cờ người, rước sắc bằng thuyền từ đền về nhà thờ họ Nguyễn tại làng Xuân An. Lễ hội đền Hồng Sơn ở phường Hồng Sơn (thành phố Vinh). Xưa kia, đây là đền Võ Miếu (dân địa phương thường gọi là đền Nhà Ông) thờ Quan Vân Trường, một võ tướng thời Tam Quốc (Trung Quốc). Về sau dân rước các bài vị của các vua Hùng, của thánh Mẫu, của Trần Hưng Đạo về hợp tự tại đền và đền được đổi tên theo tên phường (địa danh nơi đền toạ lạc). 43
- Hàng năm tại đền diễn ra 3 lễ hội vào các ngày: ngày 2-3 tháng 3 âm lịch để tưởng niệm đức Thánh Mẫu; ngày 9-10 tháng 3 âm lịch để tưởng nhớ các vua Hùng; Ngày 19-20 tháng 8 âm lịch để tưởng nhớ Trần Hưng Đạo - người đã lãnh đạo nhân dân ta 3 lần đánh bại quân xâm lược Nguyên Mông. Lễ hội Thánh Mẫu và lễ giỗ Hùng Vương có các lễ yết cáo, và lễ đại tế tại đền ; lễ giỗ Trần Hưng Đạo có lễ yết cáo, lễ mít tinh kỷ niệm và rước kiệu thần từ địa điểm mít tinh về đền, lễ đại tế tại đền, lễ rước kiệu từ đền về các di tích trong vùng và lễ tạ tại đền. Trong thời gian làm các lễ giỗ có các trò chơi chọi gà, cờ thẻ, cờ người, hát chầu văn, trưng bày các văn hoá phẩm ở đền và các di tích trong vùng. Tổ chức hoạt động bóng chuyền, bóng bàn Lễ hội đền Đức Hoàng ở xã Phúc Thành (Yên Thành). Đền Đức Hoàng xưa kia thờ Hoàng Tá Thốn, một vị tướng đã có công lớn trong cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên Mông ở thế kỷ XIII, thờ Liễu Hạnh, Bạch Y công chúa và thờ thần Rắn. Trước kia vào ngày 13,14,15 tháng giêng là ngày lễ chính, sau đó lễ thánh thần và vãn cảnh đẹp vì đây là một trong tám cảnh đẹp của Đông thành xưa, gọi là " Đông Thành bát cảnh". Trong mười năm trở lại đây, vào đêm 30 tết hàng năm, chính quyền địa phương tổ chức nhiều hoạt động văn hoá chào xuân năm mới tại đền và được mọi tầng lớp nhân dân tham dự đông đúc thành những ngày hội xuân rầm rộ. Lễ hội chùa Cần Linh ở phường Cửa Nam (thành phố Vinh). Chùa Cần linh dân địa phương thường gọi là chùa Sư Nữ vì tăng ni trụ trì toàn là nữ. Đây là chùa thờ Phật, hàng năm có các ngày lễ như sau: Ngày mồng một tháng giêng âm lịch là ngày Vía đức Phật Di Lặc, ngày 8 tháng giêng là ngày cầu an đầu năm , ngày rằm tháng giêng là lễ thượng nguyên cầu cho Quốc thái dân an. Ngày 8 tháng 2 âm lịch là ngày vía đức phật Thích ca xuất gia, Ngày 15 tháng 2 âm lịch là ngày vía phật Thích ca nhập Niết bàn, ngày 19/2 âm lịch quan thế âm Bồ Tát giáng sinh, ngày 15 tháng 4 âm lịch Phật Thích Ca giáng sinh, ngày 19 tháng 6 âm lịch quan Thế Âm Bồ Tát xuất gia, ngày 15 tháng 7 âm lịch lễ Vu Lang Bồn (Đại lễ cầu siêu, báo hiệu trọng ân) . Đông vui và náo nhiệt hơn là ngày lễ Phật Thích ca giáng sinh thường gọi là ngày Phật Đản , được coi là ngày đại lễ của lễ hội chùa Cần Linh. 44
- Lễ Noel ở các nhà thờ Thiên Chúa Giáo như ở nhà thờ Xã Đoài (Nghi Diên ,Nghi Lộc), nhà thờ Cầu Rầm (Hồng Sơn , thành phố Vinh) Lễ hội Noel diễn ra vào ngày 24-25/12 dương lịch hàng năm để mừng chúa Giêsu giáng sinh. Lễ hội Noel có các lễ nghi theo Thiên Chúa Giáo như đọc kinh, cầu nguyện. Cầu nguyện diễn tả lại giờ phút ra đời của chúa Giêsu và nơi chúa Giêsu ra đời. Sau các lễ là hội của các bài thánh ca, chúc phúc, cầu nguyện. Lễ hội Noel thu hút ngày càng đông người về tham dự, nhất là tầng lớp trẻ thanh thiếu niên. Là dịp gặp gỡ, giao lưu của tuổi trẻ trong vùng. Lễ hội rước Hến ở xã Hưng Lam (Hưng Nguyên) Lễ hội được diễn ra tại đền Thanh Liệt nơi thờ các nhân thần: Hoàng Tá Thốn, Nguyễn Biểu và các phu thần như: Long Vương, Liễu Hạnh, Sơn Liêu độc cước. Lễ hội rước Hến ở đền Thanh Liệt của các cư dân vùng sông nước để tưởng nhớ công lao của các vị danh tướng, lương thần có công đánh giặc giữ nước, có công cứu giúp dân lành thoát khỏi hoạn nan, làm ăn yên ổn, mùa màng bội thu đời sống thịnh vượng. Lễ hội diễn ra trong hai ngày 5-6 tháng 2 âm lịch hàng năm. Lễ hội rước Hến có các lễ: lễ khai quang, lễ yết cáo tại đền, lễ rước kiệu thần , các đồ tế khí bằng thuyền trên sông Lam (đây là lễ thiêng liêng nhất của hội), lễ tạ tại đền. Hội của lễ hội rước Hến là các trò chơi: đánh vật, chạy thi, chơi đu, đặc biệt là đua thuyền trên sông Lam rất tưng bừng và náo nhiệt của môt vùng sông nước, biểu diễn nghệ thuật , hát ví, hát giặm , chiếu phim, bóng đá, bóng chuyền Lễ hội đền thờ Trần Trùng Quang ở xã Hưng Lộc (thành phố Vinh). Lễ hội diễn ra trong hai ngày 19-20 tháng 2 âm lịch hàng năm để tưởng nhớ tới vị vua cuối cùng của vương triều Trần, người đã phất cao lá cờ đánh đuổi quân xâm lược Minh thế kỷ XV (1409-1414). Lễ hội có các lễ: Lễ tiên thưởng, lễ dâng hương tại khu lăng mộ, lễ đại tế tại đền thờ, lễ tạ tại đền thờ. Lễ hội có các trò chơi: đánh cờ, chọi gà, múa lân, hát chầu văn, ca trù, vịnh thơ. Nay còn có thêm các hoạt động văn nghệ thể thao như: bóng đá, bóng chuyền, cầu lông, chiếu phim, biểu diễn nghệ thuật quần chúng, đi tham quan các di tích trong vùng Lễ hội đền thờ quốc công Nguyễn Xí ở xã Nghi Hợp (Nghi Lộc). Lễ hội diễn ra trong hai ngày 30 và ngày 01 tháng giêng âm lịch hàng năm. Lễ hội có các lễ: lễ khai quang tâỷ uế, lễ yết cáo, lễ chính tế dâng hương tại đền và lăng mộ, lễ tại di tích. Trong lễ hội có các trò chơi: đốt pháo bông, biểu diễn văn 45
- nghệ, hát chầu văn, lễ rước các loại kiệu: kiệu rước phong sắc của vua ban, kiệu rước bằng công nhận di tích lịch sử văn hoá của Bộ Văn hoá Thông tin cấp, chọi gà, cờ người, cờ thẻ, đấu vật, kéo co, bóng đá, bóng chuyền, đi tham quan lăng mộ Nguyễn Sư Hồi, bãi biển cửa lò, núi Cờ, núi Kiếm, núi Voi. Lễ hội đền Vạn Lộc ở phường Nghi Tân (thi xã Cửa Lò). Lễ hội diễn ra trong hai ngày 14-15 tháng giêng âm lịch hàng năm để tưởng nhớ Nguyễn Sư Hồi- người có công trấn giữ vùng biển và lập ra làng Vạn Lộc ngày nay.Lễ hội có các lễ: Lễ khai Quang tẩy uế, lễ yết cáo, lễ rước phong sắc bài vị của Thái Uý Nguyễn Sư Hồi, lễ rước kiệu ảnh Bác Hồ, rước bằng công nhận di tích lịch sử văn hoá, lễ tạ. Sau lễ là các trò chơi hoạt động văn hoá như cắm trại, chơi cờ thẻ, cờ người, đu tiên, chọi gà, bóng chuyền, biểu diễn văn nghệ, đua thuyền trên sông, biển. Lễ hội dòng họ Hồ ở xã Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu). Lễ hội diễn ra tại nhà thờ họ Hồ vào các ngày 11-12 tháng giêng âm lịch hàng năm để tưởng niệm các bậc tiên liệt của dòng họ là những vị đại khoa, những người khai cơ làng Quỳnh "tơ lụa thủ khoa ba đời" Hồ Hân, tiến sĩ Hồ Ước, tiến sĩ Đông Các đại học sĩ - thượng thư Duệ quân công Hồ Sỹ Dương, tiến sĩ thượng thư Quận Công Hồ Phi Tích, tiến sĩ Hồ Sỹ Tân, tham đốc ngự sử - ban quận công Hồ Sĩ Đống, nhà yêu nước Hồ Học Lãm, chiến sỹ cộng sản tiền bối Hồ Tùng Mậu Đến ngày lễ hội tổ họ, con cháu dòng họ từ mọi miền tổ quốc về làm lễ yết bái tổ tiên. Lễ yết bái được tiến hành theo nghi lễ tế thần truyền thống của dân tộc.Trong lễ hội diễn ra nhiều sinh hoạt văn hoá tốt đẹp như: ôn lại công tích của các vị tổ tiên, cùng nhau noi gương sáng của tổ tiên, và báo công với tổ tiên. Học hỏi trau dồi kinh nghiệm trong công tác, trong học tập, lao động, sản xuất. Động viên nhau phát huy truyền thống tốt đẹp của cha ông. Sinh hoạt của lễ hội đã trở thành những ngày hội văn hóa của dòng họ, làm phong phú thêm văn hóa làng Quỳnh. Lễ hội dòng họ Nguyễn Cảnh ở Tràng Sơn (Đô Lương). Lễ hội diễn ra tại nhà thờ đại tôn dòng họ vào ngày 15 tháng3 âm lịch của năm Giáp (10 năm một lần) để tưởng nhớ các bậc tiên tổ như thái phó Trấn Quốc Công Nguyễn Cảnh Hoan và các vị quận công khác cuả dòng họ là những danh tướng đã có công với dân với nước trong sự nghiệp "bảo quốc hộ dân" ở các thế kỷ XV, XVIII. 46