Tài liệu Kinh tế thị trường - Vũ Lê Thu (Phần 2)

pdf 14 trang hapham 2120
Bạn đang xem tài liệu "Tài liệu Kinh tế thị trường - Vũ Lê Thu (Phần 2)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdftai_lieu_kinh_te_thi_truong_vu_le_thu_phan_2.pdf

Nội dung text: Tài liệu Kinh tế thị trường - Vũ Lê Thu (Phần 2)

  1. Kinh tế thị trường Vũ Lê Thu PHS 19A Chương II Quá trình điều hành chính sách tỷ giá I Hoàn cảnh chung Qua hơn mười năm thực hiện đổi mới trong lĩnh vực tỷ giá chúng ta đã thu được những thành tựu bước đầu quan trọng. Đây là kết quả của quá trình cải cách sâu rộng mọi mặt đời sống kinh tế- xã hội. Trước năm1986, nền kinh tế nước ta ở trong tình trạng kế hoạch hoá tập trung cao độ mọi vấn đề về sản xuất cái gì , sản xuất như thế nào , và sản xuất cho ai hoàn toàn là do ý muốn chủ quan của các nhà hoạch định chính sách. Nền kinh tế lâm vào khủng hoảng trì trệ đòi hỏi một sự đổi mới kịp thời và toàn diện. Trong thời kỳ này quan hệ ngoại thương của nước ta chỉ bó hẹp trong khối các nước XHCN . Ngoài đồng Rúp chuyển nhượng là chính , dự trữ ngoại hối của chúng ta rất ít các đồng tiền tự do chuyển đổi khác. Đây là một khó khăn rất lớn cho chúng ta trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới. Thời kỳ này, đất nước bị đặt trong tình trạng rất nhiều thách thức lạm phát phi mã, cán cân thanh toán mất cân đối nghiêm trọng . Yêu cầu của nền kinh tế lúc này là cần nhanh chóng có một đường lối đổi mới đưa đất nước ra khỏi tình trạng khủng hoảng và suy thoái kéo dài. Năm 1986, bắt đầu công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế. Cơ chế kinh tế quan liêu bao cấp bị xoá bỏ, bắt đầu định hướng một nền kinh tế thị trường. Toàn bộ các tổ chức kinh tế được “cởi trói”, hoàn toàn tự chủ về tài chính và sản xuất bung ra làm ăn tạo nên một sinh khí mới cho nền kinh tế quốcgia. Hệ thống ngân hàng tài chính cũng bắt đầu được cải cách . Với việc tách 13
  2. Kinh tế thị trường Vũ Lê Thu PHS 19A hệ thống ngân hàng từ một cấp thành hai cấp đã phản ánh được tư duy thị trường trong hoạt động ngân hàng . Trước kia chỉ có một cấp Ngân hàng nhà nước vừa làm nhiệm vụ của cơ quan nhà nước quản lí tiền tệ vừa là người cho vay trong nền kinh tế . Việc “vừa đá bóng vừa thổi còi” đã gây nên sự mất hiệu quả trên cả hai mặt hoạt động. Nay tách ra làm hai: * Ngân hàng nhà nuớc: Cơ quan thay mặt nhà nước thiết kế và thi hành chính sách tiền tệ, nghiệp vụ người cho vay cuối cùng * Hệ thống ngân hàng Thương mại: nhiệm vụ kinh doanh tiền tệ thu lợi nhuận ,nhờ nó mà vốn được phân phối một cách có hiệu quả trong nền kinh tếPháp lệnh về các ngân hàng và các tổ cức tín dụng và sau này đuợc sửa đổi bổ sung thành luật đã pháp luật hoá và baỏ hộ quyền lợi của các tổ chức kinh tế này .Quan hệ kinh tế đối ngoại dần trở nên sôi động đòi hỏi phải cóchính sách tỷ giá phù hợp. Trong những năm đầu tiên sau đổi mới chúng ta gặp rất nhiều khó khăn về dự trữ ngoại hối và thanh toán quốc tế . Song với cách điều hành chính sách tỷ giá đúng đắn là thả nổi có kiểm soát ,nhanh chóng khắc phục thiếu sót và với sự trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế đã giúp ta nhanh chóng làm chủ công cụ tỷ giá. II. Quá trình thực hiện 1, Giai đoạn 1988 đến 1991 Từ năm 1987 đến năm 1991 là giai đoạn đầu tiên thực hiện cải cách cơ chế điều chỉnh tỷ giá đồng Việt Nam (VND) với Đôla Mỹ ( đôla Mỹ là đồng tiền đóng vai trò quan trọng trong quan hệ thanh toán của Việt Nam với nước ngoài ). Thời kỳ này tốc độ lạm phát diễn ra với tỷ lệ cao chóng mặt . Bảng1 Năm 1985 1986 1987 1988 1989 1990 1991 Tỷ lệ 191,6 587,2 416,7 410,9 176,0 167,1 167,5 lp(%) Ngày 20/10/1988 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là thủ tướng Chính phủ ) 14
  3. Kinh tế thị trường Vũ Lê Thu PHS 19A ra quyết định số 271/CT cho phép Ngân hàng Nhà nước được phép điều chỉnh tỷ giá phù hợp với sự bién động giá cả trong nước theo nguyên tắc thời giá trừ lùi10% đến 30% cá biệt đến 50%. ở Việt Nam ,từ khi xoá bỏ chế độ bao cấp qua hệ thống giá cả cho đến nay ,hầu hết giá cả được hình thành trên thị trường và nó được biến động theoquy luât cung cầu ,thì tỷ giá Việt Nam cũng phải được điều chỉnh một cách linh hoạt hơn phù hợp với sự biến động giá cả trong và ngoài nước . Khi bước sang cơ chế thị trường mọi chế độ , chính sách cũng như cơ chế điều hành trong thời kỳ tập trung bao cấp đều phải chuyển đổi phù hợp với cơ chế kinh tế mới để đáp ứng nhu cầu phát triẻn của nền kinh tế thị trường . Tỷ giá là một yếu tố hết sức nhạy cảm đối với hoạt động của nền kinh tế thị trường. Đang từ chế độ tỷ giá cố định và đa tỷ giá chuyển sang cơ chế tỷ giá thị trường biến động theo cung cầu và thống nhất môt tỷ giá là cả một vấn đề không đơn giản . Nếu không có những bước đi thận trọng , tính toán trước những tác động của tỷ giá và cơ chế điều hành linh hoạt của Ngân hàng trung ương thì khó có thể chuyển đổi thành công cơ chế tỷ giá cố định sang cơ chết thả nổi có kiểm soát . Từ năm 1987 đến năm 1991, trong sự biến động chung của giá trong nước và quốc tế , tỷ giá cũng được bước đầu điều chỉnh mặc dù chỉ số giá cả hằng năm biến động rất lớn. Nếu tính đơn thuần về mặt số học và các công thức lý thuyết về sức mua ngang giá của đồng Việt Nam với ngoại tệ thì tỷ giá đồng Việt Nam phải phá giá rất lớn . Tuy nhiên , với chức năng chính của Ngân hàng trung ương là đảm bảo sự ổn định giá cả trong nước thúc đẩy xuất khẩu , đồng thời khuyến khích tối đa nguồn vốn trong nước và quốc tế , nếu một chính sách tỷ giá mà không đảm bảo tính ổn định tương đối thì không thể khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước bỏ vốn ra đầu tư vì rủi ro tỷ giá quá lớn. Với trách nhiệm hết sức nặng nề , làm sao vừa từng bước chuyển đổi cơ chế điều hành tỷ giá theo hướng thị trường nhưng vẫn phải đảm bảo khuyến khích xuất khâủ , kích thích đầu tư trong nước và ngoài nước mà không tạo những cú sốc 15
  4. Kinh tế thị trường Vũ Lê Thu PHS 19A đến hoạt động của nền kinh tế trong bối cảnh của Việt Nam lúc đó hết đang sức khó khăn về cán cân thương mại và thanh toán quốc tế thâm hụt trầm trọng . Để giải quyết vấn đề trên , trước hết Ngân hàng Nhà nước đã từng bước đưa dần tỷ giá lên(tức phá giá đồng Việt Nam ) , mặc dù giá cả biến động lớn nhưng Ngân hàng Trung ương đã xem xét mức độ ảnh hưởng của tỷ giá khi đưa lên quá cao sẽ lại trực tiếp ảnh hưởng đến giá đầu vào của sản phẩm và đẩy giá đầu ra lên cao,gây bất ổn định cho cho mức giá cả trong nước . Thực tế của Việt Nam trong những năm 1988,1989 xuất khẩu chỉ bằng 1/3 nhập khẩu . Vì vậy, khi nâng tỷ giá cao đột ngột sẽ gây tác động mạnh đến mức giá trong nước . Xuất phát từ thực tế trong cách điều chỉnh tỷ giá đồng Việt Nam với ngoại tệ (chủ yếu là USD) là mức giá cả dù biến động lớn như trong bảng 1, nhưng tỷ lệ điều chỉnh tỷ giá chỉ khoảng từ 10-30% so với mức thay đổi giá thực tế. Những năm đầu khi khoảng cách tỷ giá danh nghiã với tỷ giá thực tế còn cách xa thì các bước điều chỉnh trên dưới 10%mỗi lần và cụ thể riêng trong năm 1989 đã điều chỉnh giá đồng Việt Nam 43%trong khi tỷ lệ lạm phát là 176% là tương đối phù hợp . 2. Giai đoạn 1991_1994 Thời kỳ 1991-1994 là giai đoạn tiếp theo của quá trình chuyển đổi cơ theo hướng thị trường . Trong giai đoạn này , đứng về phương diện thanh toán quốc tế, Việt Nam lại chịu thêm một sức ép vô cùng khó khăn. Tất cả các nước XHCN cũ có quan hệ thanh toán với Việt Nam đều đồng loạt chuyển sang thanh toán với Việt Nam bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi trong cả quan hệ mậu dịch và phi mậu dịch . Việc chuyển đổi có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng thanh toán của Việt Nam bằng dự trữ ngoại tệ tự do chuyển đổi Vì từ trước những năm 1991 hầu hết nguồn thu ngoại tệ của Việt Nam đều bằng đồng Rúp chuyển nhượng, chỉ có một tỷ lệ rất nhỏ bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi. Cán cân thanh toán quốc tế và cán cân thương mại của Việt Nam thiếu hụt lớn, nhập khẩu gấp ba lần xuất khẩu, sự thiếu hụt trong cán cân thưong mại được bù đắp bằng các khoản viện trợ , cho vay của các nước XHCN và chủ yếu của Liênxô cũ. 16
  5. Kinh tế thị trường Vũ Lê Thu PHS 19A Đứng trước tình thế hết sức khó khăn về cung cầu ngoại tệ của nền kinh tế và nhu cầu bức bách về ngoại tệ cho thanh toán quốc tế để phát triển kinh tế , làm thế nào để giải quyết được vấn đề trên mà không tác động mạnh đến tình hình giá cả trong nước, ổn định giá trị đồng tiền, ổn định sản xuất và phát triển kinh tế. Xử lý vấn đề này không phải chỉ có ngành ngân hàng mà phải phối hợp đồng bộ giữa các chính sách lớn của chính phủ và của các ngành . a, Các chính sách lớn của chính phủ Nghị quyết Đại hội thanh toán quốc tế lần thứ 6 đề ra 3 chưong trình kinh tế lớn mà Đảng ,Nhà nước , Chính phủ phải tập trung chỉ đạo: - Chương trình sản xuất hàng hoá xuất khẩu; - Chương trình khuyến khích sản xuất hàng tiêu dùng ; - Chương trình lương thực thực phẩm. Với ba chương trình kinh tế lớn đó đã hỗ trợ đắc lực cho cung ngoại tệcủa nền kinh tế và giảm nhu cầu chi ngoại tệ tạo nên thế cân bằng cho cán cân thanh toán của Việt Nam. b, Về phía Ngân hàng Nhà nước Là cơ quan được Nhà nước giao cho trọng trách quản lý nguồn ngoai tệ vào ra của nền kinh tế, phục vụ đắc lực cho nhu cầu phát triển kinh tế của đất nước và xây dựng điều hành chính sách tỷ giá, năm 1988 với sự tham của Ngân hàng Nhà nước, Chính phủ đã ban hành văn bản quản lý ngoại hối mới trong đó có một số điểm thay đổi cơ bản nhằm khuyến khíchmọi nguồn ngoại tệ chuyển vào Việt Nam và tập trung thu hút nguồn ngoại tệ trong nước cho mục tiêu phát triển kinh tế đất nước . Thành lập quỹ điều hoà ngoại tệ: Ngân hàng Nhà nước đã tham mưu cho Chính phủ thành lập quỹđiều hoà ngoại tệ tại Ngân hàng Nhà nước để tập trung đáp những nhu cầu thiết yếu của nền kinh tế trong giai đoạn đầu còn khó khăn và can thiệp thị trường để ổn định tỷ giá . 17
  6. Kinh tế thị trường Vũ Lê Thu PHS 19A Việc thành lập quỹ điều hoà ngoại tệ tạo điều kiện để có thể điều hành một cách linh hoạt theo cơ chế thị trườngđầy biến động, kịp thời can thiệp khi có biến động lớn về tỷ giá trên thị trường. Trong thời gian qua với việc điều hành quỹ điều hoà một cách rất linh hoạt và hiệu quả , một mặt tạo cho ngân hàng Trung ương một lực thực sự để can thiệp có hiệu quả nhằm ổn định chính sách tỷ giá , đáp ứng nhu cầu bức thiết của nền kinh tế về ngoại tệ để thanh toán quốc tế , mặt khác thông qua việc mua bán ngoại tệ qua quỹ điều hoà không những quỹ không giảm mà còn tăng lên mức đáng kể trong khi tỷ giá được ổn định một cách tương đối. Thành lập hai trung tâm giao dịch ngoại tệ : Năm 1991 là năm đánh dấu mốc lịch sử về việc hình thành nền móng thị trường hối đoái tại Việt Nam , đó là việc NHNN đã hình thành hai trung tâm giao dịch tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 8 vag tháng 11 năm 1991.Việc thành lập hai trung tâm giao dịch là bước ngoặt đầu tiên của hệ thống ngân hàng trong quá trình đổi mới thực sự cơ chế theo hướng thị trường . Nó là tiền than của thị trường hối đoái sau này . Thông qua mua bán trên trung tâm giao dịch ngoại tệ mà Ngân hàng Trung ương là người tổ chức và điều hành ,Ngân hàng Trung ương kịp thời nắm bắt được cung cầu ngoại tệ trên thị trường để điều hành chính sách tiền tệ cũng như tỷ giá theo tín hiệu thị trường . Thông qua việc mua bán ngoại tệ tại hai Trung tâm giao dịch ngoại tệ Ngân hàng Trung ương đã hướng nhu cầu ngoại tệ vào các mục tiêu thiết yếu của mình. Việc các ngân hàng thương mại và các tổ chức kinh tế tham gia vào giao dịch tại hai trung tâm là bước tập dượt đầu tiên trong giao dịch ngoại tệ theo cơ chế thị trường . Tỷ giá ngoại tệ và đồng Việt Nam được hình thành tương đối khách quan theo quan hệ cung cầu trên thị trường . Cách thức giao dịch mua bán ngoại tệ theo phương thức đấu giá . Trong thời kỳ đầu hoạt động của trung tâm giao dịch ngoại tệ, cung ngoại tệ còn thấp hơn cầu ngoại tệ rất nhiều, nếu để tỷ giá hình thành theo quan hệ thị trường cung cầu, tỷ giá sẽ biến động rất lớn, điều này tác động không tốt tới mức giá trong nước . Vì vậy thông qua hình thức can thiệp của Ngân hàng 18
  7. Kinh tế thị trường Vũ Lê Thu PHS 19A Trung ương, tỷ giá biến động với một mức độ hợp lý , một mặt vẫn phản ánh quan hệ cung cầu mặt khác không gây tác động tới giá cả và tạo một tâm lý ổn định cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước cũng như dân chúng yên tâm đầu tư và gửi tiền để phát triển kinh tế. Sau một thời gian dài từ năn 1992 đến năm 1993, Ngân hàng Trung ương kiềnt quan điểm ổn định tỷ giá và toạ lòng tin cho dân chúng vào sự ổn định của đồng Việt Nam cũng như tâm lý ổn định của thị trường đã thu hút được nguồn ngoại tệ lớn lao từ kiều hối, đầu tư nước ngoài, vay nợ vào Việt Nam; mặt khác việc duy trì lãi suất thực dương đồng Việt Nam cao đã khuyến khích các tổ chức cá nhân bán ngoại tệ đẻ gửi đồng Việt Nam. Cả hai yếu tố trên đã đồng thời ảnh hưởng tích cực đến sự ổn định giá trị đồng Việt Nam và tăng dự trữ ngoại tệ quốc gia. Sự ổn định giá trị đồng Việt Nam không phải chỉ về danh nghĩa mà cả về giá trị thực . Việc ổn định tỷ giá có ảnh hưởng tốt tới mặt bằng giá trong nước dẫn đến chỉ số lạm phát được duy trì ở mức chấp nhận được và có chiều hướng đi xuống , trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam qua các năm không ngừng tăng làm cho quan hệ tiền hàng được đảm bảo và giá trị của đồng Việt Nam được ổn định tạo ra môi trường ổn định vững chắc vĩ mô cho phát triển kinh tế ở Việt Nam. Giai đoạn đầu khi mới bắt đầu điều hành tỷ giá theo vơ chế thị trường , việc can thiệp của Ngân hàng Trung ương rất chặt chẽ trên thị trường, tuy nhiên thời gian tiếp theo khi nguồn vốn ngoại tệ vào Việt Nam tăng lê, quan hệ cung cầu không còn khoảng cách quá lớn thì Ngân hàng Trung ương đã từng bước giảm sự can thiệpvà để cho tỷ giá hình thành một cách khách quan hơn trên thị trường theo quy luật cung cầu. Việc điều hành can thiệp của Ngân hàng Trung ương rất linh hoạt có lúc phải bán ngoạitệ ra đẻ giảm bớt việc xuống giá của đồng Việt Nam quá mạnh những năm 1991, nhưng có lúc phải mua vào rất nhiều như cuối năm 1992 và năm 1995 cũng như 6 tháng đầu năm 1996 nhằm hạn chế việc lên giá của đồng Việt Nam . Tỷ giá chính thức đồng Việt Nam trước kia được Ngân hàng Trung ương tính toán trên cơ sở kinh tế mang tính chát chưa phản ánh quan hệ cung cầu 19
  8. Kinh tế thị trường Vũ Lê Thu PHS 19A và các yếu tố thị trường khác. Từ khi Trung tâm giao dịch ra đời thì tỷ giá chính thức của đồng Việt Nam được xác định có căn cứ vào tỷ giá đóng cửa tại các phiên giaodịch ngoại tệ tại hai trung tâm. Sau một khoảng thời gian dài khoảng hơn 3 năm hoạt động của hai trung tâm giao dịch ngoại tệ đã phát huy tích cực vai trò trong việc điều hoà cung cầu ngoại tệ, tạo ra phương thức kinh doanh giao dịch mang tíhn thị trường góp phần ổn định tỷ giá , giá cả. Tuy nhiên,với nhu cầu phát triển kinh tế và nhu cầu giao dịch ngoại tệ của cả nước, cũng như tính nhanh nhạy kịp thời trong giao dịch và thanh toán của cơ chế thị trường ngày càng sôi động. Thực tế đòi hỏi phải có mô hình mới linh hoạt hơn và mang tính thị trường trong cả nước hơn chứ không phải chỉ có Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. 3 Giai đoạn từ tháng 10/1994 đến 1997 Tháng 10/1994 để đáp ứng nhu cầu bức thiết trong nhu cầu giao dịch,thanh toán ngoại tệ của nền kinh tế, với các điều kiện khách quan và chủ quan thuận lợi, hệ thống ngân hàng thương mại đã phát triển cao về mặt số lượng cũng như về mặt chất lượng, các điều kiện về mặt kỹ thật trang thiết bị cho phép , trình độ giao dịch của các ngân hàng đã nâng cao. Nguồn ngoại tệ của nền kinh tế dồi dào, thị trường ngoại tệ Liên ngân hàng ra đời đã chính thức ra đời với số thành viên tham gia đầu tiênlà 24 ngân hàng thương mại và đến nay là đã có hơn 40 thành viên. Thành viên tham gia thị trường Liên ngân hàng ngoài các ngân hàng thương mại còn có cả những nhà xuất khẩu lớn và các tổ chức có thu ngoại tệ lớn. Thời gian giao dịch hầu hết các ngày làm việc trong tuần , hình thức giao dịch gián tiếp thông qua hệ thống máy vi tính, cung cầu ngoại tệ trên thị trương này lớn phản ánh hầu như toàn bộ cung cầu ngoại tệ trong nền kinh tế. Tỷ giá hình thành trên thị trường ngoại tệ Liên ngân hàng mang tính thị trường cao , linh hoạt ,sâu rộng và khách quan. Từ đó tỷ giá đồng Việt Nam với ngoại tệ cũng được hình thành một cách khách quan hơn và phản ánh 20
  9. Kinh tế thị trường Vũ Lê Thu PHS 19A tương đối thực tế sức mua của đồng Việt Nam. Đó là bước phảttiển mớivà ở mức độ sâu hơn , cao hơn của hoạt động ngoại tệ ở Việt Nam . 4. Từ 1997 đến nay: Giai đoạn điều hành tỷ giá linh hoạt có sự điêu tiết của nhà nước . Chủ trương điều hành tỷ giá một cách linh hoạt theo tình hình trong nước và quốc tế nhằm khuyến khích xuất khẩu , hạn chế nhập khẩu và tăng dự trữ ngoại tệ. Trong năm 1997 ,cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực nổ ra và gây hậu quả nghiêm trọng cho các nền kinh tế trong khu vực, đặt Việt Nam trước sức ép phá giá nội tệ. Việt Nam đã thận trọng và nhiều lần điều chỉnh tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam bằng nhiều hình thức. Năm 1999 , Ngân hàng Trung ương thực hiện một bước đổi mới về cơ bản về điều hành tỷ giá , từ quản lý có tính chất hành chính sang điều hành theo hướng thị trường có sự quản lý của nhà nước . Từ ngày 26/12/1999 thay bằng việc công bố tỷ giá chính thức ,Ngân hàng Trung ương công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Với cơ chế điều hành mới, tỷ giá đồng Việt Nam được hình thành trên cơ sở giao dịch trên thị trường và phản ánh tương đối khách quan sức mua của đồng Việt Nam so với ngoại tệ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động hơn trong kinh doanh đồng thời vẫn đảm bảo được vai trò kiểm soát của Nhà nước. III.Đánh giá Tóm lại, kể từ khi bước sang giai đoạn phát triển kinh tế mới theo hướng kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước, về chính sách tỷ giá cơ chế điều hành và diễn biến tỷ giá của đồng Việt Nam với ngoại tệ đã chuyển hướng phù hợp với tình hình thực tế của Việt Nam góp phần không nhỏ vào sự thành công của đất nước sau 10 năm đổi mới và phát triển kinh tế. Các bước đi trong chính sach tỷ giá, cơ ché điều hành tỷ giá và diễn biến tỷ giá của đồng Việt Nam so với ngoại tệ là đúng đắn. Một mặt giữ vững giá trị đồng Việt Nam không những giá trị danh nghĩa mà cả giá trị thực của nó, góp phần ổn định mặt bằng giá trong nước và kìm chế lạm phát, mặt khác vẫn khuyến khích xuất khẩu tăng lên hàng năm, thu hút nguồn ngoại tệ lớn 21
  10. Kinh tế thị trường Vũ Lê Thu PHS 19A và Việt Nam đáp ứng nhu cầu nhập khẩu của nền kinh tế ngày một tăng mà còn tăng đáng kể dự trữ ngoại tệ quốc gia . Sự thành công khong phải chỉ trên lý thuyết mà nó được thể hiện trong mối tương quan với các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô khác có liên quan như: chỉ số lạm phát , dự trữ ngoại tệ quốc gia, xuất nhập khẩu, diễn biến tỷ giá trong hệ thống ngan hàng, tỷ giá thị trường tự do,tốc độ phát triển kinh tế , cán cân thanh toán quốc tế được thể hiện dưới đây. GDP Lạm XK NK Tỷ giá Tỷ giá TT Dự trữ Năm (tỷ phát (tr$) (tr $) chính tự do ngoại đồng) % thức đ/USD tệ 1990 38.167 167,1 2404 2752,4 6.500 5601 từ mứcdự 1991 76.707 167,5 2087,1 2338,1 12.240 9.920 trữ không 1992 110.535 117,5 2580,7 2540,8 11.200 11.230 đáng 1993 136.571 105,2 2985,2 3924 10.642 10.636 kể,tăng lên 1994 170.000 114,4 4054 5826 10.956 10.978 hơn hai 1995 112,7 5198 8381 11.021 11042 tháng nhập khẩu 22
  11. Kinh tế thị trường Vũ Lê Thu PHS 19A Chương III giải pháp điều hành chính sách tự do tỷ giá ở Việt Nam I. Những bất lợi của Việt Nam nếu thực hiện tự do hoá trong điều kiện hiện nay. Đối với Việt Nam trong thời gian trước mắt chưa thể thực hiện được mậu tự do hoàn toàn nênkhông thể áp dụng chế độ linh hoạt, thả nổi hoàn toàn, bởi vì: Thứ nhất, do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất chưa cao, độ co giãn của cung hàng hoá xuất khẩu củaViệt Nam chưa nhiều, nên nếu thả nổi tỷ giá thì xuất khẩu cũng không tăng lên mạnh mẽ và nhập khẩu cũng không thểgiảm nhiều được, cũng không thể kỳ vọng vào việc thả nổi tỷ giá để tự điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế được . Ngược lại, việc thả nổi tỷ giá hoàn toàn lại có khả năng làm cho thương mại không ổn định và dẫn đến nạn đầu cơ tỷ giá mang lại hậu quả tiêu cực cho nền kinh tế. Thứ hai ,do nền kinh tế thị trường chưa phát triển , chưa có điều kiện thả nổi tỷ giá hoàn toàn. Đặc biệt là do thị trường tài chính tiền tệ chưa phát triển, chưa có thị trường chứng khoán, nên chưa tạo điều kiện thật tốt cho xuất khẩu-nhập khẩu hàng hoá tư bản. Tất cả điều đó làm cho việc thả nổi tỷ giá sẽ không mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế Việt Nam . II. Giải pháp cho vấn đề tự do hoá tỷ giá 1- Tiếp tục hoàn thiện thị trường ngoại hối và thị trường nội tệ 2- Tập trung tích luỹ ngoại tệ do Ngân hàng Trung ương quản lý 23
  12. Kinh tế thị trường Vũ Lê Thu PHS 19A 3- Hoàn thiện các văn bản pháp quy về quản lý ngoại hối ,cách thức điều hành tỷ giá . 4- Tiến hành tự do hoá lĩnh vực tài chính , tự do hoá tài khoản vốn và đưa đồng Việt Nam trở thành có khả năng chuyển đổi. 5- ổn định kinh tế vĩ mô, giảm lạm phát thực hiệ các chương trình sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu nhằm cân đối cán cân thanh toán 6- Cần tiếp tục duy trì cơ chế điều hành tỷ giá hiện nay trong thời gian ngắn tới theo hướng nới rộng kiểm soát cho phép tỷ giá được hình thành khách quan hơn theo các quy luật của thị trường . 24
  13. Kinh tế thị trường Vũ Lê Thu PHS 19A Kết Luận Xác định cơ chế điều hành tỷ giá và sử dụng tốt công cụ này đòi hỏi một sự phối hợp đồng bộ và nhịp nhàng giữa chính phủ và toàn bộ các chủ thể trong nền kinh tế . Một chế độ tỷ giá đưa ra được coi là hợp lý khi mà nó làm tăng những yếu tố tích cực của các biến số kinh tế vĩ mô. Tỷ giá được tính toán trên cơ sở sao cho không ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu và còn thu hút được nguồn vốn ngoại tệ của các nhà đâu trong và ngoài nước. Hơn mười năm đổi mới cách điều hành tỷ giá nước ta, chúng ta đang tích cực chuyển sang cơ chế tỷ giá thả nổi có kiểm soát của nhà nước. Cơ chế này là bước trung gian trong quá trình tự do hoá . Với chính sách tỷ giá đúng đắn Việt Nam đã vượt qua đã vượt qua được những cam go thử thách đảm bảo nguồn dự trữ ngoại tệ đủ mạnh cho khả năng thanh toán và chống đỡ được với những cú sốc từ bên ngoài. 25
  14. Kinh tế thị trường Vũ Lê Thu PHS 19A Danh mục tài liệu tham khảo 1. Kinh tế vĩ mô N.Gregory.Mankiw Nxb Thống kê 1999 2. Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính Frederic.S. Mishkin Nxb Khoa học kỹthuật 1999 3. Các tạp chí chuyên ngành 26