Tài liệu Lịch sử Tự nhiên Việt Nam (Phần 1)

pdf 140 trang hapham 1370
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu Lịch sử Tự nhiên Việt Nam (Phần 1)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdftai_lieu_lich_su_tu_nhien_viet_nam.pdf

Nội dung text: Tài liệu Lịch sử Tự nhiên Việt Nam (Phần 1)

  1. Lịch sử Tự nhiên Việt Nam Biên tập bởi: Eleanor J. Sterling
  2. Lịch sử Tự nhiên Việt Nam Biên tập bởi: Eleanor J. Sterling Các tác giả: sterling Lê Đức Minh Phiên bản trực tuyến:
  3. MỤC LỤC 1. Lời nói đầu 2. Giới thiệu về Việt Nam 3. Con người và Môi trường 4. Địa Sinh Học của Việt Nam 5. Môi trường sống ở Việt Nam 6. Khu hệ động vật của Việt Nam 7. Miền Bắc Việt Nam Sự kết thúc của dãy Himalaya 8. Miền Trung Việt Nam và dãy Trường Sơn từ vùng núi ẩm ướt đến các khu rừng khô ráo 9. Miền Nam Việt Nam Sức mạnh của sông Mê Kông 10. Các mối đe dọa đối với đa dạng sinh học của Việt Nam 11. Bảo tồn Tương lai của môi trường sống ở Việt Nam 12. Tài liệu tham khảo 13. Phụ lục Tham gia đóng góp 1/260
  4. Lời nói đầu Cái tên Việt Nam đã một thời gợi lên những hình ảnh của những người lính đang đổ mồ hôi tại các khu rừng rậm nhiệt đới, những người dân làng mặc quần áo bằng vải sặc sỡ và đội nón, những cánh đồng lúa xanh mơn mởn có trâu đi cầy và có lẽ là các trạm nghỉ thời thuộc địa được làm trên các vùng núi gồ ghề. Đối với những người quen thuộc hơn với khung cảnh hiện nay của đất nước thì những hình ảnh phần lớn về vùng nông thôn và mang tính lịch sử này đã bị thay thế bởi những cảm nhận về những đường phố đông đúc tại thành phố và những con đường mới được xây dựng trong một nền kinh tế đang phát triển nhanh chóng. Ẩn giấu đằng sau những hoạt động náo nhiệt của con người là môi trường sống của Việt Nam: các loài thực vật và động vật, sông biển và các châu thổ, núi và đồi, các sinh cảnh và các hệ sinh thái. Cuốn sách này tập trung vào đa dạng sinh học, tức là các sinh vật ở tất cả các dạng khác nhau của chúng, của Việt Nam. Các vùng tự nhiên của Việt Nam có nhiều loài và phần nhiều trong số này không thể tìm thấy ở bất cứ nơi nào trên trái đất. Việc nghiên cứu vẫn đang tiếp tục để khám phá các loài động thực vật mới giúp làm tăng vị thế của Việt Nam trong công cuộc bảo tồn toàn cầu. Cuốn sách Lịch Sử Tự Nhiên của Việt Nam có nguồn gốc từ những nỗ lực nghiên cứu và bảo tồn do nhân viên của Trung tâm đa dạng sinh học và bảo tồn tại Bảo tàng lịch sử tự nhiên của Mỹ thực hiện ( ). Vào năm 1995, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã quyết định tăng mạng lưới các vùng đất có rừng được bảo vệ trong nước. Kể từ năm 1997, Trung tâm đã cùng làm việc với các nhóm nghiên cứu quốc tế và các nhà khoa học Việt Nam để nhằm cố vấn cho chính phủ vị trí để đặt các khu bảo tồn mới và giải quyết những ưu tiên về bảo tồn đa dạng sinh học và mối quan hệ của những người dân địa phương với đất và các tài nguyên khác. Khi thực hiện chương trình nghiên cứu này, chúng tôi không tìm được những nguồn cung cấp những thông tin khái quát và toàn diện về lịch sử tự nhiên của đất nước cho các nhà khoa học, những người quản lý bảo tồn hoặc chỉ là những người muốn tìm hiểu. Những thông tin quan trọng nằm rải rác trong nhiều loại sách và bài báo (phần nhiều trong số này là từ thời kỳ đầu của thế kỷ 20), trong các bản báo cáo ít được phổ biến và các bản thảo và các danh lục chưa ông bố cũng như dưới dạng kiến thức của các nhà khoa học. Tài liệu khoa học hiện có được viết bằng nhiều thứ tiếng trong đó có tiếng Việt Nam, tiếng Pháp, tiếng Trung Quốc, tiếng Nga và tiếng Anh. Đây là một thử thách thậm chí đối với cả những người thông thạo nhiều ngôn ngữ. Trong cuốn sách này, chúng tôi sử dụng những nguồn tài liệu này để mô tả tính đa dạng và phân bố của các loài động vật hiện có của Việt Nam và tìm hiểu nguồn gốc tiến hóa 2/260
  5. của chúng trong điều kiện địa chất khí hậu và lịch sử phức tạp của Đông Nam Á. Chúng tôi mở rộng ra ngoài phạm vi kể chuyện thường thấy ở những cuốn sách về lịch sử tự nhiên bằng cách nói thêm về những mối đe dọa đối với nguồn tài nguyên của đất nước. Như ở tất cả những nước khác, những hoạt động của con người đe dọa đa dạng sinh học của Việt Nam và nếu xem xét kỹ lưỡng chúng đều có thể được coi là mối đe dọa và thách thức đối với việc bảo tồn. Trong chương 1, chúng tôi cung cấp thông tin khái quát về môi trường tự nhiên và văn hóa của Việt Nam và giới thiệu những chủ đề chính sẽ được đề cập trong phần còn lại của cuốn sách. Chương 2 mô tả lịch sử của con người ở Việt Nam và mối quan hệ giữa con người và môi trường. Chương 3 tìm hiểu nguồn gốc tiến hóa tạo nên sự đa dạng ở Việt Nam trong bối cảnh môi trường tự nhiên biến động của khu vực. Chương 4 cung cấp thông tin khái quát về khu hệ thực vật và môi trường sống của đất nước và chương 5 nói về các nhóm động vật của Việt Nam. Chương 6, 7 và 8 theo thứ tự mô tả đa dạng sinh học của miền Bắc (Bắc Bộ), miền Trung (Trung Bộ và miền Nam (Nam Bộ) của Việt Nam. Việc sắp xếp theo vùng địa lý như vậy nêu bật sự khác nhau đáng kể về mặt sinh học cũng như văn hóa giữa các vùng này. Từng chương về các vùng địa lý sẽ mô tả địa hình, thời tiết, đa dạng về dân tộc cũng như các sinh cảnh, thực vật và động vật đặc trưng của khu vực và đưa ra những gợi ý về địa điểm quan sát thiên nhiên Việt Nam. Chương 9 đề cập đến các mối đe dọa trước đây cũng như hiện nay đối với đa dạng sinh học của Việt Nam và chương10 tổng kết những nỗ lực đang được thực hiện để làm giảm những mối đe dọa này. Trong toàn bộ cuốn sách, các loài động thực vật của Việt Nam được thể hiện chủ yếu bằng các hình vẽ bằng màu nước. Nhiều loài trong số này ít khi quan sát được và ít được các bảo tàng động vật và thực vật thu mẫu và càng ít khi được chụp ảnh trong tự nhiên. Họa sĩ, tiến sĩ Joyce A. Powzyk, đã dựa vào những bản mô tả ban đầu về các loài này, những bản khắc trước đây, các mẫu vật của bảo tàng, tài liệu hướng dẫn thực địa, số lượng ít ỏi những bức ảnh và ý kiến chung của các chuyên gia để thể hiện các loài động vật và thực vật này một cách chính xác nhất. Kinh nghiệm của Joyce Powzyk phản ảnh một chủ đề quan trọng xuyên suốt cuốn sách đó là đa dạng sinh học của Việt Nam vẫn còn chưa được hiểu biết một cách cặn kẽ. Mặc dù nhiều đợt khảo sát đã được tiến hành từ giữa thế kỷ 19, việc nghiên cứu về khu hệ động thực vật của Việt Nam đã giảm xuống mức tối thiểu trong cuộc chiến tranh Đông Dương đầu tiên bắt đầu ngay sau chiến tranh thế giới thứ 2 và kéo dài đến năm 1954 và cuộc chiến tranh Đông Dương thứ hai (còn có tên là cuộc chiến tranh Việt Nam và được gọi là cuộc chiến tranh Mỹ-Việt Nam trong cuốn sách này), kéo dài từ năm 1955 đến năm 1975. Bắt đầu từ đầu những năm 1990, những thông tin khoa học mới lại xuất hiện nhiều tại Việt Nam và đôi khi khởi xướng việc kiểm chứng những kết luận trước đây. Phần lịch sử tự nhiên được đề cập ở đây phản ánh những kiến thức đã được công bố và vẫn còn nhiều thiếu sót. 3/260
  6. Cuối cùng, một lời cảnh báo cho những người hy vọng quan sát được sự phong phú của động vật và thực vật hoang dã được mô tả trong cuốn sách này khi họ tham quan Việt Nam. Nhiều khu vực của Việt Nam rất đẹp, tuy nhiên không có khu rừng nào của Việt Nam có thể được coi là nguyên sinh và rất ít những khu rừng tự nhiên vẫn còn tương đối ít bị tác động. Con người đã sống ở Việt Nam trong hàng nghìn năm và thậm chí những khu vực cách biệt nhất cũng chỉ cách những nơi định cư gần nhất của con người vài ngày đi bộ. Những khu vực tự nhiên còn lại trên thực tế chỉ còn là các hòn đảo tách biệt trong một biển nơi cư trú của con người. Những vùng tự nhiên này thường nằm ở các khu vực nhậy cảm vì chính trị nằm dọc theo biên giới của đất nước nơi sự tiếp cận bị hạn chế và vẫn còn mìn chưa nổ. Do đó, khả năng quan sát được Saola (Pseudoryx nghetinhensis) hoặc thậm chí loài phổ biến hơn nhiều như loài hoẵng (Muntiacus muntjak) sống trong rừng là rất ít. Tuy nhiên Việt Nam vẫn là một nơi đáng chú ý, về mặt sinh học, địa chất và văn hoá, và có nhiều điều về vẻ đẹp, lịch sử, và đa dạng sinh học trong quá khứ cũng như hiện tại để chia sẻ với những người du lịch. Quy ước về ngôn ngữ, tên và ngày tháng Những câu hỏi về việc sử dụng tên thích hợp cho cả địa danh và tên người thường xuyên xuất hiện khi chúng tôi viết cuốn sách này. Chúng tôi đã cố gắng sử dụng những tên quen thuộc và tiêu chuẩn trong khi đó tránh những tên có ý nghĩa hoặc ngữ cảnh quá tiêu cực. Tên có thể không rõ ràng hoặc gây nhầm lẫn. Những nhà địa lý phương Tây có lẽ đã dùng thuật ngữ Đông Dương vào cuối những năm 1700 hoặc đầu những năm 1800. Mặc dù được định nghĩa trong Từ điển tiếng Anh Oxford là khu vực nằm giữa Ấn Độ và Trung Quốc, Đông Dương thường được coi là bao gồm 3 nước Việt Nam, Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào (Lào) và Campuchia như được sử dụng trong cuốn sách này. (Đối với khu vực lớn hơn bao gồm Myanmar, Thái Lan và bán đảo Mãlai chúng tôi sử dụng tên lục địa Đông Nam Á). Thuật ngữ Đông Dương ám chỉ Việt Nam là một vùng không có chính trị và văn hóa trước khi có sự ảnh hưởng của Ấn Độ và Trung Quốc. Điều này không đúng sự thật: những nghiên cứu khảo cổ đã cho thấy rõ là những mạng lưới buôn bán phức tạp tại những khu vực này đã tồn tại trước khi việc buôn bán với Trung Quốc và Ấn Độ gây ảnh hưởng đến khu vực này. Một số tên có nguồn gốc từ thời thuộc địa có thể gây xúc phạm đối với người Việt Nam. Cái tên tiếng Anh rất hay được sử dụng cho dãy núi lớn của Việt Nam, dãy Trường Sơn, có nguồn gốc từ thuật ngữ An Nam, bắt nguồn từ Ngân nam trong tiếng Trung Quốc. Dịch ra từ này có nghĩa là “phương Nam bị đô hộ” hoặc “miền Nam thanh bình” và xuất hiện trong thời kỳ người Trung Quốc xâm lược Việt Nam vào đầu thế kỷ 17. Chúng tôi đã thay thế những tên Việt Nam khi có thể được. Người Pháp thường sử dụng thuật ngữ Tonkin, Annam và Cochinchina cho miền Bắc, miền Trung và miền Nam của Việt Nam; những nhà điểu học vẫn sử dụng những tên này. Các thuật ngữ tương tự của người Việt Nam là Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ. 4/260
  7. Những tên thích hợp, cho cả địa danh và con người, có sự khác nhau giữa tiếng Việt và tiếng Anh hiện nay. Người Việt Nam vẫn giữ gốc tên của địa danh và con người từ tiếng Trung Quốc: xu hướng tách một từ thành các phần riêng biệt (tương đương với các ký hiệu) tượng trưng cho các phần mang ý nghĩa của nó. Do đó, Vietnam được viết là Việt Nam, Hanoi là Hà Nội và Danang là Đà Nẵng. Trong cuốn sách này, chúng tôi dùng theo các quy ước của người Việt Nam cho các tên địa danh trừ Vietnam và Hanoi vì việc sử dụng chúng trong một thời gian dài ở phương Tây đã thay thế cách viết ban đầu của chúng. Tuy nhiên, những tên khác được sử dụng như chúng được viết trên những bản đồ và từ điển địa lý của Việt Nam. Đối với các tên địa danh của Việt Nam, ngoại trừ Fan Xi Pan (Phan Si Pan), chúng tôi sử dụng theo Bản đồ Quốc gia Việt Nam (Đặng Hùng Võ, 1996). Trong trường hợp tên người, người Việt Nam sử dụng trình tự ngược so với hầu hết những quy ước về tên của phương Tây. Họ đặt tên họ đầu tiên, tên gọi cuối cùng và tên đệm, thường là theo gia đình, ở giữa. Tất cả tên của người Việt Nam được viết hoàn toàn theo kiểu Việt Nam. Bản thân tên Vietnam đã được sử dụng trong gần 2 thế kỷ. Vào đầu thế kỷ 19, vua Gia Long đã đặt tên đất nước là “Nam Việt” và đề nghị hoàng đế Trung Quốc thông qua. Hoàng đế Trung Quốc trả lời là Nam Việt quá giống với “Nam Việt Đông” một vương quốc của Trung Quốc cổ đại và để tránh sự nhầm lẫn (và tranh chấp về lãnh thổ có thể xảy ra), ông ta đã gợi ý đảo ngược tên này thành Việt Nam, có nghĩa nghĩa là “người phương Nam”. Đối với ngày tháng trong lịch sử, chúng tôi sử dụng quy ước “thời công nguyên” (C.E.) và ‘trước công nguyên” (B.C.E) theo thứ tự tương đương với A.D. và B.C. Những quy ước về hệ thống phân loại Loài là đơn vị cơ bản đối với việc phân loại thế giới sinh vật. Câu hỏi chính xác cái gì cấu tạo thành loài, hay vấn đề về loài, vẫn còn là vấn đề gây tranh cãi nhất trong sinh học và hoàn toàn không có sự nhất trí. Bất chấp thực tế này, phần lớn các nhà sinh học đều nhất trí về hai thuộc tính của loài. Thứ nhất, họ đồng ý rằng loài là những đơn vị thực được xác định bởi những khác biệt có thể đo đạc được về mặt đặc điểm như màu sắc, kích thước và tập tính. Điều này có nghĩa là loài không phải là những thực thể nhân tạo được tạo ra do mong muốn của bản thân con người nhằm phân loại thế giới xung quanh chúng ta. Thứ hai, họ đồng ý rằng loài là một hoặc nhiều nhóm tiến hóa có quan hệ họ hàng gần gũi và có hạn chế trong việc trao đổi GEN giữa những nhóm này và những nhóm khác. Mặc dù sự bất đồng giữa các nhà sinh học có lẽ mang nhiều tính hàn lâm, những khác biệt giữa các định nghĩa về loài phản ánh những quá trình tiến hóa phức tạp mà từ đó tạo ra sự đa dạng của sinh vật. Để đặt tên loài, các nhà khoa học vẫn chủ yếu dựa vào phương pháp đặt tên kép. Hệ thống này đầu tiên được nhà thực vật người Thụy Điển thế kỷ 18 Carolus Linnaeus phát triển. Trong hệ thống này, sự kết hợp 2 tên, tên giống và tên loài (ví dụ như Panthera 5/260
  8. tigris), là đặc trưng cho mỗi loài (trong trường hợp này là hổ). Theo quy ước cả hai tên đều được viết nghiêng và khi nhiều loài trong cùng một giống được viết ra tên giống được viết tắt ở tất cả các tên trừ tên đầu tiên. Giống là bậc phân loại tiếp theo phía trên loài trong thứ bậc phân loại để nhóm các sinh vật vào những tập hợp lớn hơn. Loài có chung một tập hợp những đặc tính được nhóm vào thành một giống, nhiều giống vào một họ, nhiều họ và một bộ, nhiều bộ vào một lớp, nhiều lớp vào một ngành (hoặc nhóm đối với các loài thực vật) và cuối cùng nhiều ngành/nhóm vào một giới. Mục đích của mỗi cấp phân loại là tập hợp tất cả những loài con cháu của một nhóm tiến hóa duy nhất nằm trong nhóm này. Một cấp bậc nữa tồn tại bên dưới loài là phân loài, đôi khi được gọi là các dạng địa lý. Cũng như đối với loài, định nghĩa về phân loài cũng thay đổi. Thông thường nhất nó là một hoặc nhiều quần thể chiếm giữ một phần phạm vi phân bố của một loài và có những khác biệt dễ nhận thấy so với các quần thể khác của loài này. Điều này có nghĩa là những quần thể này khác nhau nhưng chưa đủ để có thể coi là một loài mới. Nhiều nhà sinh học nghiên cứu những mối quan hệ về tiến hóa bỏ qua việc phân loại phân loài vì cho là không thể sử dụng được do nó quá linh hoạt và nhiều mâu thuẫn. Tuy nhiên, phân loài rất hữu ích đối với việc lập bản đồ đa dạng sinh học và để nhận biết những quần thể quan trọng cho những nỗ lực bảo tồn. Chúng đôi khi có thể đại diện cho những loài trước đây chưa được biết. Việc phân loại một sinh vật tại bất kỳ một cấp bậc nào không cố định và có thể thay đổi. Những phát hiện mới và những nghiên cứu đang tiến hành về mối quan hệ tiến hóa sử dụng những kỹ thuật về hình thái, tập tính và (ngày càng nhiều) di truyền có thể dẫn đến việc phân loại lại và thay đổi tên. Để đảm bảo sự rõ ràng trong cuốn sách này, khi có thể chúng tôi chọn ra một tập hợp chuẩn những tài liệu tham khảo cho cả tên thông thường và tên khoa học. Tên khoa học của các loài thú dựa vào Corbet và Hill (1992), ngoại trừ các loài linh trưởng (Brandon-Jones và cộng sự, 2004). Những tên thông thường của các loài thú dựa vào Duckworth và Pine (2003). Tên khoa học của các loài chim dựa vào Inskipp và cộng sự (1996); tên thông thường dựa vào Robson và cộng sự (2000). Hệ thống phân loại lưỡng cư dựa vào Frost (2002); hệ thống phân loại bò sát dựa vào Uetz và cộng sự (2004). Các loài thực vật, cá và động vật không xương sống thiếu những tài liệu tổng quan đầy đủ về hệ thống phân loại trong khu vực. Trong trường hợp này, chúng tôi dựa vào lời khuyên của các chuyên gia và một số những công trình nghiên cứu đã xuất bản. Chúng tôi tham khảo những tài liệu có liên quan và đã được đồng nghiệp góp ý nhằm sửa đổi lại các nhóm phân loại và hệ thống phân loại cũng như những tên thông thường của những loài được mô tả sau ngày xuất bản của tài liệu tham khảo chuẩn. Những quy ước về tình trạng bảo tồn Tình trạng bảo tồn toàn cầu của loài là một hệ thống phân loại khác liên tục thay đổi và trong phần này chúng tôi dựa vào những đánh giá về khả năng tuyệt chủng toàn cầu Hiệp hội bảo tồn thế giới (IUCN), gọi là Danh sách đỏ của IUCN. Nhiều nhóm chuyên 6/260
  9. gia đánh giá từng loài, sử dụng thông tin về kích thước của quần thể và tốc độ suy giảm và mức độ sinh cảnh bị chia nhỏ bên trong phạm vi phân bố của chúng để xếp chúng vào 3 mức độ đe dọa phụ thuộc vào khả năng bị tuyệt chủng trong thiên nhiên: cực kỳ nguy cấp (rủi ro cực kỳ cao), bị đe dọa (rủi ro rất cao) và gần nguy cấp (rủi ro cao). Các chuyên gia cũng có thể xếp một loài vào loại gần bị đe dọa nếu nó chắc chắn sẽ đủ điều kiện để ra nhập nhóm bị đe dọa trong tương lai gần và vào loại thiếu thông tin nếu thông tin về tình trạng quần thể hoặc phân bố không đủ để đưa ra kết luận. Các hạng mục cuối cùng – tuyệt chủng và tuyệt chủng trong tự nhiên – có thể tự giải thích được qua tên của chúng. Ở mức độ quốc gia, Việt Nam đã gia nhập những nước khác trong việc xuất bản những đánh giá về bảo tồn ở trong nước dưới dạng Sách đỏ cho thực vật và động vật. Công cụ chính để kiểm soát việc buôn bán động vật và thực vật hoang dã ở mức quốc tế là Công ước Quốc tế về Buôn bán Động vật và Thực vật hoang dã (CITES). Được đưa ra vào năm 1975, công ước này đòi hỏi các nước thành viên ủy quyền việc buôn bán quốc tế đối với các loài được coi là bị đe dọa thông qua một hệ thống giấy phép nhập và xuất khẩu. Các loài được CITES xếp vào loại bị đe dọa do việc buôn bán được liệt kê trong các phụ lục tùy theo mức độ cần được bảo vệ. Những loài được liệt kê trong phụ lục 1 bị đe dọa tuyệt chủng và việc buôn bán thương mại quốc tế nhìn chung bị cấm; đối với những loài trong phụ lục 2, chúng hiện tại không nhất thiết bị đe dọa tuyệt chủng nhưng rủi ro sẽ tăng lên nếu việc buôn bán không được kiểm soát. Việt Nam đã trở thành nước thành viên của công ước này vào năm 1993. 7/260
  10. Giới thiệu về Việt Nam Việt Nam, tên chính thức là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, là một vùng lãnh thổ có rất nhiều phong cảnh tự nhiên hùng vĩ và phong phú vào bậc nhất trên thế giới. Nó bao gồm những vùng châu thổ rộng lớn, những dãy núi đá vôi bị bào mòn tuyệt đẹp, núi rừng quanh năm mây phủ, những khu rừng ven biển với những đụn cát đỏ và rừng xen kẽ trảng cỏ. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn còn chưa được nghiên cứu kỹ so với những nước khác có độ đa dạng sinh học cao. Tính từ giữa thế kỷ 20, chiến tranh và các bất ổn chính trị đã khiến việc nghiên cứu trở nên khó khăn và rất nhiều vùng trên đất nước không thể tiếp cận được. Bất luận những khó khăn trên, vì một số lý do đa dạng sinh học của Việt Nam thu hút sự chú ý của các nhà khoa học: đất nước này có độ đa dạng về các loài mang tầm quan trọng toàn cầu. Từ năm 1992, các nhà khoa học đã mô tả một số lượng rất lớn các loài mới, còn các loài đặc hữu chỉ tìm thấy ở Việt Nam (hoặc trong một số trường hợp ở các vùng lân cận) lại chiếm một tỷ lệ cao. Việt Nam cũng là nơi rất đa dạng về mặt văn hóa. Các nhà khoa học đã thống kê được 54 nhóm dân tộc tại Việt Nam. Trong cuốn sách này, chúng tôi sử dụng hệ thống phân chia dân tộc đã được công bố theo tài liệu của các chuyên gia xây dựng nên hệ thống này). Người Việt (hay người Kinh) có có số lượng nhiều nhất, chiếm hơn 85 phần trăm dân số. Sau người Việt, các nhóm dân tộc khác, mà mỗi nhóm có khoảng 1 triệu người (như dân tộc Tầy, Thái, Mường, Hoa, và Khơ Me) cho tới nhóm chỉ có vài trăm người (như người O’du và Ro’mam) (hình 1; phụ lục 1). Các nhà ngôn ngữ học phân chia các nhóm dân tộc của Việt Nam thành 8 nhóm tiếng nói thuộc 5 họ ngôn ngữ, những ngôn ngữ này bao trùm tất cả các ngôn ngữ hiện có ở Đông Nam Á nằm ở phía Nam sông Trường Giang ở Trung Quốc (bảng 1). Do phân bố rộng rãi ở khắp các vùng trên đất nước, các nhóm dân tộc có các phong tục pha trộn, bao gồm xăm, nhuộm răng đen, nhai trầu, thờ cúng động vật, vật tổ, và các nghi lễ và lễ hội khác nhau thể hiện sự trao đổi sâu rộng về văn hóa giữa các nhóm dân tộc tại Việt Nam và các nhóm dân tộc sống ở các nơi khác trong vùng Đông Nam Á. Địa hình Địa hình đóng một vai trò rất quan trọng đối với sự phân bố của các loài động và thực vật cũng như đối với tác động qua lại giữa con người và môi trường. Với diện tích đất liền 330,591 km2, Việt Nam nhỏ hơn hai phần ba diện tích của Thái Lan, gần bằng diện tích nước Đức, và bằng khoảng ba phần tư diện tích tiểu bang California. Đất nước uốn cong giống như chiếc đồng hồ cát, mở rộng về phía hai châu thổ nằm ở phía Bắc và phía Nam và nằm giữa là dải hẹp miền trung có chỗ chỉ rộng có 50km. Biên giới phía bắc của Việt Nam giáp với hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây của Trung Quốc ngay phía dưới của đường biên giới phía Bắc của khu vực nhiệt đới (23o30’) và tận cùng phía Nam giáp 8/260
  11. với vịnh Thái Lan. Việt Nam có biên giới với Lào và Campuchia về phía Tây và giáp với biển Đông (còn gọi là biển Nam Trung Quốc) về phía đông. Những mô tả về địa hình của Việt Nam thường nhấn mạnh đến phần đồi núi chiếm ba phần tư diện tích của đất nước, mặc dù một tỉ lệ lớn của phần địa hình này nằm ở độ cao trung bình. Một phần tư diện tích của đất nước nằm ở độ cao dưới 20m, chủ yếu là hai khu vực châu thổ và dải đồng bằng hẹp dọc ven biển Đông tại miền trung, trong khi một phần tư khác nằm ở độ cao trên 626m. Một nửa còn lại bao gồm đồi và dốc ở độ cao thấp hơn. Vùng núi của Việt Nam nằm ở miền Bắc và miền Trung của đất nước. Dãy Hoàng Liên Sơn, nằm ở phía Tây của sông Hồng, là phần tận cùng phía Đông Nam của dãy Himalaya. Nó chạy từ hướng Tây Bắc sang Đông Nam song song với dòng chảy của sông Hồng. Đỉnh núi cao nhất của Việt Nam làFan Xi Păng, nằm trong khu vực này và có độ cao 3.143m so với mực nước biển. Một vài dãy núi nhỏ hơn nằm ở phía Đông Bắc của Việt Nam, bao gồm cao nguyên Việt Bắc và Bắc Sơn (hình 3) và các vùng đá vôi lớn cũng xuất hiện tại đây. Các vùng cao nguyên miền Trung của Việt Nam thuộc dãy Trường Sơn (còn gọi là Annamite) có chiều dài 1.200km từ 20 độ vĩ bắc chạy dọc theo biên giới với Lào ở phía Tây và kết thúc ở phía nam của cao nguyên Đà Lạt tại phía Nam của miền Trung. Hai vùng châu thổ lớn của Việt Nam, châu thổ sông Hồng ở phía Bắc và châu thổ sông Mê Kông ở phía Nam, có lẽ đây là hai vùng địa hình được biết đến nhiều nhất. Cả hai đều nằm ở độ cao trung bình chỉ vài mét trên mực nước biển, ở đây có dân số rất đông cũng như chủ yếu làm nông nghiệp. Hai vùng châu thổ này khác nhau rất nhiều về chế độ nước, về thời gian và mức độ lũ lụt, và quần thể động vật và thực vật. Sự khác biệt này bắt nguồn từ những khác nhau về mặt địa chất cũng như khí hậu giữa hai vùng và từ đặc tính của hai con sông chảy qua hai châu thổ này. Vùng ven bờ đất liền Việt Nam là vùng nước nông rất rộng lớn, hay vùng thềm lục địa ngập nước (một phần của vùng thềm lục địa Sunda) và hàng nghìn đảo nằm rải rác dọc theo bờ biển từ Bắc đến Nam. Các vùng đảo, Hoàng Sa và Trường Sa, khu vực còn đang tranh chấp giữa Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan, Malaysia và Philippines nằm trên biển Đông giữa Việt Nam và Philippines (xem trang đầu). Những đảo không có người ở này, chủ yếu là vùng trồi san hô, có thể chứa phía dưới chúng các mỏ dầu với trữ lượng lớn. Khí hậu Do hình dạng, địa hình, và vị trí nằm dọc theo rìa đất liền phía Đông Nam của châu Á, Việt Nam có rất nhiều chế độ khí hậu khác nhau. Vùng Đông Nam Á gắn liền với khí hậu gió mùa, hệ thống gió chính đổi ngược chiều theo mùa. Kiểu lưu thông gió mùa năng động này tạo ra hai mùa chính, mùa đông lạnh, khô và mùa hè nóng, ẩm. Nằm giữa hai mùa là các giai đoạn chuyển tiếp ngắn. 9/260
  12. Mùa gió của mùa đông bắt đầu vào giữa tháng 11 và kéo dài đến tận cuối tháng 3. Trong thời gian này, gió mùa bắt nguồn từ vùng lạnh có áp suất cao nằm ở phía Đông của lục địa châu Á và đi xuống phía Nam về phía vùng nóng và áp suất thấp ở châu Úc (hình 4a). Các luồng khí đi từ cực này đi qua Siberia và Trung Quốc mang theo không khí lạnh xuống phía Bắc Việt Nam. Tháng 4 và tháng 5 là hai tháng chuyển tiếp sang mùa gió của mùa hè. Mùa gió này kéo dài đến cuối tháng 9. Trong mùa hè, gió mùa từ vùng áp suất cao ở phía Tây Nam mang không khí ẩm từ Ấn Độ Dương và vịnh Thái Lan đi vào nội địa của Trung Quốc (hình 4b). Nó gây ra mưa lớn ở Việt Nam, đặc biệt ở vùng núi. Tháng 10 và tháng 11 đánh dấu sự kết thúc của mùa mưa và chuyển tiếp tới một mùa đông khác. Sự khác biệt lớn về lượng mưa và thời gian mưa giữa các vùng khác nhau của Việt Nam chủ yếu là do các hình thức lưu thông khí này (hình 5). Địa hình của Việt Nam ảnh hưởng đến nhiệt độ, độ ẩm và các chế độ mưa với mức độ khác nhau. Ở mức độ địa phương, khi độ cao địa hình tăng lên, nhiệt độ giảm và nước sẽ biến thành dạng sương, sương mù, mưa và sương đọng lại tạo thành các vùng mát hơn và ẩm hơn như trên đỉnh đồi và các sườn núi cao hơn. Ở mức độ vùng rộng lớn hơn, đồi và núi có ảnh hưởng đến khí hậu thông qua hiệu ứng che bóng mưa. Hiệu ứng này xảy ra khi các đám mây mang khí ẩm bay lên phía sườn núi có gió thổi như sườn phía Đông của dãy Trường Sơn. Khi lên cao gặp không khí lạnh, khí ẩm biến thành mưa. Khi luồng khí khô còn lại đi xuống phía dưới, nó bị nén lại và nóng lên, gây ra hiệu ứng khô ở sườn núi và vùng đồng bằng phía bên kia của dãy núi. Khí hậu đóng vai trò rất quan trọng trong việc phân bố của quần thể động vật và thực vật trong một vùng nhất định. Cả mùa khô kéo dài và đặc biệt là mùa đông lạnh giá gây áp lực lên động vật và thực vật và tạo ra các biên giới về mặt khí hậu cho các loài không thể sống trong các điều kiện này. Ở miền Bắc Việt Nam, từ biên giới với Trung Quốc cho tới 18o vĩ bắc (khoảng đèo Ngang), cả nhiệt độ lẫn lượng mưa đều thay đổi rất nhiều theo mùa. Mùa đông lạnh và ẩm kèm theo mưa nhỏ rải rác kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4, và sương giá thường xuyên xuất hiện ở các vùng núi cao. Tùy thuộc vào từng địa điểm, các chu kỳ khô có thể kéo dài từ không cho đến sáu tháng. Mùa hè nóng, oi bức và mưa nhiều kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10. Các tháng nóng nhất ở phía Bắc là tháng 6, tháng 7, và tháng 8, khi độ ẩm đạt từ 80 đến 100%. Tiếp xuống phía Nam (tới 16o vĩ bắc), nhiệt độ ít thay đổi theo mùa hơn và thời gian của mùa mưa cũng thay đổi, đặc biệt là giữa vùng ven biển và đất liền. Mùa đông mát, kèm theo mưa kéo dài từ mùa hè qua mùa thu và sang mùa đông và mùa khô kéo dài từ không cho đến ba tháng. Quanh khu vực ven biển của thành phố Huế, mùa lạnh kéo dài từ tháng 11 đến tháng 3, kèm theo mưa phùn thường xuyên và kéo dài đến một tuần. Tại các vùng đất liền phía Nam cho đến châu thổ sông Mê Kông, nhiệt độ ít chịu sự thay đổi theo mùa hơn so với các vùng phía Bắc có mưa vào mùa hè và mùa khô kéo dài từ không đến năm tháng. Trên vùng cao nguyên miền Trung, nhiệt độ thấp hơn và ẩm hơn, với mùa khô chỉ kéo dài có 3 tháng. Các vùng ven biển có mùa mưa vào mùa thu và đông (tháng 9 đến tháng 1) tiếp nối bằng mùa khô có thể kéo dài đến bảy tháng. Đi xa 10/260
  13. hơn về phía Nam của châu thổ sông Mê Kông, nhiệt độ khá nóng và ổn định trong cả năm. Mùa hè có mưa từ tháng 5 đến tháng 10, trong đó mưa nhiều nhất vào tháng 7 và tháng 8. Mùa khô có thể kéo dài từ hai đến sáu tháng. Thời điểm nóng nhất là từ tháng 3 đến tháng 5, trong đó tháng 5 có độ ẩm cao. Khí hậu cũng ảnh hưởng đến các vùng biển, với các dòng hải lưu lạnh chuyển động dọc theo các bờ biển từ Đông Bắc xuống Tây Nam và dòng hải lưu ấm chuyển động từ Tây Nam lên Đông Bắc. Phía nam của đèo Hải Vân (khoảng 16o vĩ bắc), nước biển luôn giữ ở mức 20oC quanh năm. Ngược lại, nhiệt độ nước biển ở phía Bắc có thể xuống tới 13oC vào mùa đông. Đa Dạng Sinh Học của Việt Nam Việt Nam nằm ở phía bắc của vùng chuyển tiếp sinh học nổi tiếng – đôi khi được gọi là Wallacea – là cầu nối giữa hai quần thể động vật và thực vật khác nhau của châu Á và châu Úc. Bên trong Việt Nam, sự chuyển tiếp diễn ra tại các độ cao khác nhau và tại các vĩ độ địa lý khác nhau. Ví dụ, phía Đông của sông Hồng, thực vật và động vật của vùng núi đá vôi phía Tây Bắc của Việt Nam giống với khu hệ động thực vật của Nam Trung Quốc. Về phía Tây của sông Hồng, dãy Hoàng Liên Sơn giống với vùng cận nhiệt đới chân núi phía Đông Nam của dãy Himalaya; vào mùa xuân, biển hoa đỗ quyên hồng vàng và trắng (chi Rhododendron) trang điểm sườn núi phía trên của nó. Trái lại, thảm thực vật phía Nam của Việt Nam lại giống với vùng đồng bằng nhiệt đới của lục địa Đông Nam Á vì có rừng cây rụng lá một mùa và các quần thể của đầm lầy than bùn. Dãy Trường Sơn ở miền Trung là vùng chuyển tiếp giữa những quần thể cận nhiệt đới và nhiệt đới này. Vùng này có rất nhiều loài đặc hữu. Các loài mới Hòa bình mang lại rất nhiều lợi ích như tăng khả năng tiếp cận đến các vùng biên giới của quốc gia và các vùng được bảo vệ mà trước đây các nhà khoa học chỉ được tiếp cận một cách hạn chế. Một phần vì sự nhậy cảm về chính trị, những vùng này lưu giữ phần lớn các khu rừng còn lại của Việt Nam. Sự ổn định về chính trị đi kèm với chính sách mở cửa hợp tác với các nhà khoa học nước ngoài và các nhóm nghiên cứu hỗn hợp đa quốc gia đã đóng vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu đa dạng sinh học của Việt Nam (khung 1). Kết quả là, kể từ thập kỷ cuối của thế kỷ 20, các nhà khoa học đã khám phá được những điều kỳ diệu. Những phát hiện của họ bao gồm cả những loài chưa từng được biết đến trong khoa học cũng như một số lượng lớn những loài đã biết nhưng chưa được ghi nhận tại Việt Nam (xem các phần phụ lục 3 và 4). Một trong những khám phá đầu tiên và lý thú nhất là phát hiện ra không chỉ một loài mới mà cả một giống mới của thú có móng guốc, Saola (Pseudoryx nghetinhensis; khung 2). Việc phát hiện loài bò hoang dã 11/260
  14. trông giống như linh dương này tại Việt Nam và nước láng giềng Lào vào năm 1992 đã gây được sự chú ý trên toàn thế giới bởi vì đây là loài động vật sống trên cạn lớn nhất thế giới được tìm thấy kể từ năm 1937, khi các nhà khoa học mô tả con Kouprey (Bos sauveli), một loài thú móng guốc khác ở Đông Nam Á. Cũng như Saola, nhiều động vật có vú khác được mô tả vào năm 1992 có kích thước cơ thể rất lớn, như ba loài hươu mới, Hươu sao (Tragulus versicolor), Mang lớn (Muntiacus vuquangensis), và Mang Trường Sơn (M. truongsonensis) và một phân loài Voọc Chân xám (Pygathrixnemaeus cinerea), một số người cho là đây là loài mới (P. cinerea). Những loài mới khác gồm có Dơi muỗi (Myotis annamiticus), Chuột chù Núi (Chodsigoa caovansunga), và Thỏ vằn (Nesolagus timminsi). Họ hàng gần gũi nhất của loài này chỉ có phân bố hẹp ở đảo Sumatra của Indonesia. Ba loài chim mới, đều là chim khướu, được phát hiện tại cao nguyên miền trung Kon Tum từ năm 1999: Khướu vằn Đầu đen (Actinodura sodangorum), Khướu Ngọc Linh (Garrulax ngoclinhensis), và Khướu Kon Ka Kinh (G. konkakinhensis). Những loài mới được tìm thấy tại Việt Nam trong thời gian từ năm 1992 đến năm 2004 bao gồm 3 loài rùa, 15 loài thằn lằn, 4 loài rắn, 31 loài ếch, và hơn 45 loài cá. Rất nhiều loài mới của các nhóm sinh vật ít được nghiên cứu hơn đã được mô tả: từ năm 2000 đến năm 2002, các nhà khoa học đã mô tả hơn 500 loài động vật không xương sống, và các chuyên gia ước tính là Việt Nam còn có hàng nghìn loài chưa được khoa học biết đến. Nhữngphát hiện về thực vật bao gồm hơn 200 loài thực vật có mạch, trong đó có loài thông rất đặc biệt, Bách tán Vàng Việt Nam (Xanthocyparis vietnamensis). Những khám phá này đi kèm theo việc tái phát hiện những loài được cho là đã tuyệt chủng. Năm 1988, một người thợ săn địa phương đã bắn chết một cá thể cái trưởng thành của phân loài Tê Giác Một sừng (Rhinoceros sondaicus annaniticus) tại tỉnh Lâm Đồng, cách thành phố Hồ Chí Minh khoảng 130km về hướng đông bắc. Tê Giác Một sừng là loài tê giác hiếm nhất; quần thể duy nhất được biết nằm bên ngoài Việt Nam có 50 đến 60 cá thể thuộc một loài phụ khác (R. s. sondaicus) phân bố tại vùng tây nam của đảo Java. Sau đó các nhà khoa học đã xác nhận một quần thể gồm có 5 đến 8 cá thể sống dọc theo sông Đồng Nai tại vườn Quốc gia Cát Tiên. Ba loài thú được tái phát hiện lần đầu tiên tại Đông Nam Á kể từ khi chúng được mô tả và thu mẫu: Lợn Heude (Sus bucculentus; mô tả tại Việt Nam năm 1891, phát hiện lại tại Lào năm 1997), Mang Roosevelts (Muntiacus rooseveltorum; mô tả năm 1929, phát hiện lại năm 1999 đều ở Lào), và voọc mũi hếch (Rhinopithecus avunculus; mô tả năm 1912, phát hiện lại năm 1992, đều ở Việt Nam). Hai loài chim đặc hữu tại Việt Nam cũng đã được tái phát hiện: Gà lôi Mào trắng (Lophura edwardsi) và Mi Langbian (Crocias langbianis). Khướu Mun (Stachyris herbeti) được ghi nhận tại Việt Nam vào năm 1995, đây là lần đầu tiên loài này được bắt gặp kể từ khi nó được mô tả tại Lào vào năm 1920. Mỗi loài được phát hiện (hoặc phát hiện lại) là một đóng góp cụ thể cho việc nghiên cứu đa dạng sinh học của Việt Nam. Tuy nhiên, tập hợp các danh sách liệt kê các loài mới hoặc phát hiện lại chỉ là một trong những phương pháp mô tả đa dạng sinh học của đất 12/260
  15. nước. Những danh sách này không nêu lên những loài cần đặc biệt quan tâm, chẳng hạn như loài đặc hữu hoặc bị đe dọa. Những danh sách này là sự đánh giá hoàn toàn sai lệch khi cần so sánh đa dạng sinh học giữa các vùng khác nhau. Để thống kê đầy đủ hơn khu hệ động và thực vật hiện nay của Việt Nam, các nhà khoa học cần sử dụng hai cách tính độ đa dạng sinh học khác: sự phong phú về loài và tính đặc hữu. Khung 1 Lịch sử nghiên cứu về đa dạng sinh học Nghiên cứu về đa dạng sinh học của Việt Nam có thể chia ra thành ba giai đoạn, những giai đoạn này phản ánh những mốc sự kiện quan trọng trong lịch sử của đất nước: (1) trước năm 1954; (2) từ năm 1954 đến năm 1975; và (3) từ năm 1976 đến nay. Trước năm 1954 hầu hết những nghiên cứu về đa dạng sinh học đều được thực hiện bởi các nhà khoa học nước ngoài. Trong số họ có Cecil Boden-Kloss, Herbert Stevens, Jean Delacour, các thành viên của đoàn thám hiểm Kelley-Roosvelts, J. Lewis Bonhote, Oldfield Thomas, và René Bourret. Những mẫu vật họ thu thập được chủ yếu được giữ tại các bảo tàng tại Paris, Chicago, New York, và Luân Đôn. Vào năm 1954, khi miền Bắc Việt Nam giành được độc lập từ người Pháp, các nhà khoa học Việt Nam bắt đầu tiến hành nghiên cứu về đa dạng sinh học. Cho đến năm 1960, hầu hết những nghiên cứu về đa dạng sinh học đều do một nhóm nhỏ các nhà khoa học thực hiện trên một phạm vi nhỏ. Kết quả của những nghiên cứu này được sử dụng cho việc giảng dạy ở các trường đại học và các cơ quan khác. Trong những năm 60, chính phủ Việt Nam có những bước đi chính thức đầu tiên trong việc bảo tồn thiên nhiên bằng việc ban hành những điều luật về bảo vệ một số khu rừng và một vài loài quý hiếm, như voi châu Á (Elephas maximus) và hổ (Panthera tigris). Các nhà lãnh đạo địa phương cũng ban hành các quy định về bảo vệ, và Cúc Phương, vườn quốc gia đầu tiên ở miền Bắc Việt Nam, được thành lập vào năm 1962. Trong cùng năm này, nghiên cứu sinh học lần đầu tiên được tổ chức trên quy mô lớn với sự tham gia của các cơ quan nghiên cứu, bao gồm khoa sinh trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, Viện Quy hoạch rừng, Viện Nông nghiệp, và Ủy ban Khoa học Kỹ thuật Nhà nước. Nghiên cứu sinh học được tiến hành rộng rãi ở miền Bắc Việt Nam, và nhiều mẫu động và thực vật được thu thập và giữ tại các bảo tàng và các vườn thực vật tại Việt Nam. Một trong những nhà khoa học Việt Nam đầu tiên tiến hành những nghiên cứu quan trọng về khu hệ động vật trong nước là Đào Văn Tiến. Ông đã xuất bản hơn bảy mươi cuốn sách và bài báo trong vòng hơn 20 năm. Những nhà khoa học khác được ông truyền cho sự say mê nghiên cứu gồm có Thái Văn Tr(Ch)ừng, Võ Quý, Dương Hữu Thời, Mai Đình Yên, Lê Hiền Hào, Nguyễn Thanh, Đặng Huy Huỳnh, Vũ Đình Tuấn, Đỗ Ngọc Quang, và Cao Văn Sung. Thời điểm kết thúc chiến tranh với Mỹ năm 1975 đánh dấu sự khởi đầu giai đoạn thứ ba trong nghiên cứu về đa dạng sinh học tại Việt Nam. Từ năm 1976 đến năm 1980, chính phủ Việt Nam khởi xướng một chương trình nghiên cứu và đánh giá các tài nguyên sinh 13/260
  16. học và đa dạng sinh học tập trung vào phát triển kinh tế xã hội tại cao nguyên miền Trung, Tây Nguyên (bao gồm Kon Tum, Play Ku, và cao nguyên Đắc Lắc).Trong những năm 1980, một loạt các nỗ lực đã được thực hiện nhằm đảm bảo rằng việc bảo tồn được dựa trên cơ sở khoa học vững chắc hơn. Một chương trình quốc gia đã được thành lập để nghiên cứu các vấn đề về bảo tồn và sử dụng bền vững tài nguyên. Vào thời kỳ đầu của thập kỷ này, nghiên cứu về đa dạng sinh học và tài nguyên sinh vật tập trung vào các hệ sinh thái quan trọng như rừng ngập mặn và các môi trường sống trong rừng khác, và các nhà khoa học đã hoàn thiện thêm những hiểu biết và nhận thức về phân loại về thực vật. Kể từ năm 1987, một nhóm các cơ quan nghiên cứu đã tham gia vào việc bảo vệ và giám sát chung đối với các hệ sinh thái trong cả nước. Bắt đầu vào năm 1991, hai cơ quan nghiên cứu về hải dương học có trụ sở tại Hải Phòng và Nha Trang đã tập trung vào nghiên cứu biển và sử dụng tài nguyên biển, và các dự án về Các khu Bảo tồn trên biển đã bắt đầu xuất hiện tại mức độ địa phương. Bắt đầu vào đầu những năm 1990, các nhà khoa học Việt Nam đã có những tiến bộ lớn trong việc tìm hiểu đa dạng của đất nước. Thông qua việc hợp tác với các cơ quan và chuyên gia quốc tế, những nhà khoa học này sẽ nâng cao hiểu biết về đa dạng của sự sống và những quá trình sinh học cơ bản và sẽ đề ra các kế hoạch bảo tồn đúng đắn. Lê Xuân Cảnh, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh Vật, Hà Nội Sự phong phú về loài Thuật ngữ sự phong phú về loài ám chỉ đến số lượng loài được ghi nhận ở một vùng hay một khu vực địa lý nhất định, chẳng hạn như một diện tích lấy mẫu, một khu bảo tồn thiên nhiên, một nước, hoặc một lục địa. So sánh những số lượng này giữa các quốc gia sẽ dễ bị nhầm lẫn do sự khác nhau về diện tích của các quốc gia và sự mở rộng các cuộc khảo sát. Nếu xét về mặt diện tích, Việt Nam là một quốc gia có sự phong phú về loài cao. Vào thời điểm bước sang thế kỷ 21, Việt Nam được xếp vào một trong 25 quốc gia trên thế giới đứng đầu về số lượng loài thực vật, chim, và thú trên một đơn vị diện tích. Giá trị về sự phong phú loài thường thấp hơn số lượng thực của những loài hiện có, bởi vì gần như không thể nào thu thập và định loại tất cả các sinh vật trong một vùng có diện tích lớn. Xu hướng không đánh giá đầy đủ số lượng loài này là đặc thù cho những quốc gia như Việt Nam. Ở đây, những đợt điều tra vẫn nhanh chóng phát hiện thêm những sinh vật mới để đưa vào danh các loài đã biết. Bên cạnh các loài nấm và động vật không xương sống, thực vật của Việt Nam bị ảnh hưởng nhiều nhất do sự thống kê không đầy đủ. Các nhà thực vật ước tính rằng có khoảng 13,000 loài thực vật có mạch phân bố tại Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến nay chỉ có không đến 10,000 được ghi nhận. Xu hướng nghiên cứu đang tăng nhanh khiến cho những ước tính về đa dạng sinh học thay đổi liên tục. Từ năm 1999 đến năm 2004, số lượng lưỡng cư (Bộ không Đuôi: ếch và cóc; Bộ có Đuôi: cá cóc và Sa giông; Bộ không Chân: ếch giun) phân bố tại Việt Nam tăng từ 100 đến 157, tăng 57% về sự phong phú loài. 14/260
  17. Việt Nam có mức độ đa dạng cao ở những nhóm có sự phong phú về loài đạt mức cao nhất tại châu Á. Đông Nam Á được biết đến nhiều nhất vì mức độ đa dạng của chim khướu, với tổng số 200 loài chim hót thuộc họ khướu Timaliidae. Khu hệ chim của Việt Nam gồm có gần hai phần ba là các loài khướu của Đông Nam Á thuộc hai nhóm chính: 67 % (26 trong số 39) là khướu (phân họ Garrulacinae) và 64% (76 trong số 119) là phân tộc khướu (Timaliini). Rùa nước ngọt và rùa cạn có mức độ đa dạng cao tập trung ở lục địa châu Á. Cho đến nay, 89 loài bản địa đã được liệt kê. Trong số này, Việt Nam có 29 loài, và được xếp vào một trong 5 nước có sự phong phú về loài cao nhất sau những quốc gia có diện tích lớn hơn là Trung Quốc, Ấn Độ, Miến Điện, và Indonesia. Việt Nam cũng là nơi có sự phong phú về các loài thiên tuế cao nhất (các họ Cycadaceae, Stangeriaceae, và Zamiaceae). Đây là nhánh tiến hoá cổ nhất của thực vật có hạt và là nhóm cần có mức độ quan tâm bảo vệ cao. Việt Nam có 24 loài, nhiều hơn tất cả các nước châu Á khác (kể cả Trung Quốc cũng chỉ có 21 loài). Con số này tương đương với 38% tổng số các loài thiên tuế của châu Á và 8% tổng số các loài trên thế giới. Do những đánh giá về sự phong phú loài khi coi tất cả các loài đều như nhau: hiếm và phổ biến, đặc hữu và phân bố rộng, những con số này chỉ mang tính thống kê các loài có trong một khu vực được quan tâm nghiên cứu. Khi mô tả đa dạng sinh học của một quốc gia, các nhà khoa học còn quan tâm đến các khía cạnh đặc biệt của nó. Tính đặc hữu Một số lượng lớn các loài của Việt Nam là loài đặc hữu. Một số đặc hữu trong nước, trong khi đó một số khác đặc hữu tại những vùng nhỏ kéo dài sang cả những quốc gia lân cận. Thuật ngữ loài có phạm vi phân bố hẹp thường phù hợp với việc mô tả những sinh vật có phạm vi phân bố nhỏ có thể vượt ra ngoài biên giới lãnh thổ, bởi vì thuật ngữ này nhấn mạnh đến phạm vi phân bố chứ không phải vị trí của vùng phân bố tương ứng với biên giới của quốc gia. Tính đặc hữu không phân bố đồng đều trong các nhóm động vật và thực vật tại Việt Nam. Một số nhóm nổi bật vì tỷ lệ đặc hữu về loài cao (xem phần phụ lục 2). Hầu hết 27 loài và phân loài linh trưởng của Việt Nam (19 loài và 8 phân loài) có phạm vi phân bố hẹp. Hơn một phần tư (7 loài) là đặc hữu của Việt Nam, bao gồm 2 loài là đặc hữu của đảo và 4 loài voọc đại diện cho 3 giống riêng biệt (Trachypithecus, Pygathrix và Rhinopithecus). Bảy loài khác phân bố hẹptrong những vùng nhỏ nằm giữa Việt Nam và các nước lân cận như Lào và Campuchia và 2 loàicó phân bố kéo dài đến phía bắc Đông Nam Á và vượt qua biên giới Trung Quốc đến phía Nam của tỉnh Quảng Tây và Quảng Đông. Trong số các loài khướu, 5 loài chỉ có ở Việt Nam, còn 7 loài khác có phạm vi phân bố nằm giữa Lào và Việt Nam và một số loài khác sang tận Campuchia. Mức độ đặc hữu cao ở thực vật có mạch được thể hiện ở thiên tuế, trong đó, hơn một nửa (13 trong số 24 loài) là đặc hữu của Việt Nam, còn ở phong lan, có 19% số loài của họ này chỉ phân bố ở Việt Nam và 16% chỉ có phân bố tại Đông Nam Á. 15/260
  18. Tính đặc hữu không phân bố đồng đều trong các hệ sinh thái tại Việt Nam. Các đảo trong khu vực Côn Đảo nằm ngoài khơi của bờ biển Đông Nam và Vịnh Hạ Long (kể cả đảo Cát Bà) ở miền Bắc là nơi tụ họp các loài thú, bò sát, cá và thực vật rất đặc biệt, bao gồm cả thiên tuế và cọ. Điều này không phải là bất bình thường: việc các quần thể nằm trên đảo bị tách khỏi các quần thể trên đất liền thường thúc đẩy sự tiến hoá của các dạng đặc biệt. Những điều kiện sinh thái không thuận lợi cũng giúp hình thành các loài đặc hữu thích nghi với các điều kiện địa phương. Những dãy núi đá vôi bị bào mòn chứa ít nước với tầng đất mỏng và cằn cỗi là những khu vực có độ đặc hữu về thực vật cao, đặc biệt là phong lan mọc trên đá (sống trên đá) và sống phụ sinh (mọc trên các thực vật khác). Các loài đặc hữu như thân mềm, bò sát, cá sống trong hang, còn nhóm Voọc Francois (Trachypithecus francoisi) cũng sống tập trung trên dạng địa hình này. Những núi đá vôi nằm trơ trọi giữa vùng đồng bằng như những đảo có môi trường sống thích hợp thường có những nhóm loài khác nhau. Những vùng có mức độ đặc hữu cao dường như không thực sự tách biệt hoặc gắn liền với sự khác biệt lớn về sinh thái, địa chất hoặc khí hậu. Trường Sơn là một vùng như vậy. Các loài mang và các loài thú lớn khác được phát hiện gần đây trong vùng núi này là những loài có phạm vi phân bố hẹp. Ba loài khướu núi được mô tả gần đây cũng có các đặc điểm tương tự. Voọc chân Đỏ, Xám và Đen (giống Pygathrix) cũng hầu như có phân bố hẹp trong các khu rừng thường xanh hoặc bán thường xanh. Những ghi nhân mới này trùng hợp với những bằng chứng trước đây về tính đặc hữu cao của Trường Sơn, gồm có Gà lôi Mào trắng (1896), Khướu Đầu đen (Garrulax milleti:1919), Ếch cây Trung Bộ (Rhacophorus annamensis: 1924), và Thông Lá dẹt (Pinus krempf: 1921). Trường Sơn là dãy núi dài có độ cao trung bình và chủ yếu được bao phủ bằng rừng thường xanh và không có các điều kiện bất lợi cũng như đặc biệt nào. Nó cũng không thực sự tách biệt khỏi các vùng núi và môi trường sống tương tự khác, đặc biệt đối với những loài di chuyển nhiều như chim. Mức độ đặc hữu cao hiện nay của Trường Sơn có thể phản ánh những rào cản về khí hậu, môi trường sống và địa chất trong quá khứ mà đến nay không còn tồn tại nữa. Những nghiên cứu về ếch và phong lan đưa ra giả thuyết là miền Bắc Việt Nam và vùng lân cận phía Nam Trung Quốc có thể là một vùng có mức độ đặc hữu cao khác. Số lượng lớn những loài đặc hữu tại Việt Nam thật là kỳ lạ. Tuy nhiên, điều này cũng có thể tạo ra sự nhầm lẫn về thực tế phân bố của đa dạng sinh học. Đặc biệt đối với những loài mới được phát hiện và những loài nằm trong những nhóm ít được biết đến. Nếu tiếp tục điều tra, một số loài đặc hữu chỉ được biết đến ở một hoặc hai địa điểm có thể sẽ trở thành có phân bố rộng hoặc là loài phổ biến. Những đợt điều tra ở các vùng vúi phía Đông Bắc Việt Nam cho thấy quần thể ếch nằm về phía Tây của sông Hồng, mà nhiều nhà khoa học cho rằng là đặc hữu của vùng này, trên thực tế lại có chung một số loài với quần thể nằm ở phía Đông. Các nhà sinh học đã dựa vào nhiều phương pháp nghiên cứu, bao gồm những phương pháp điều tra thực địa mới, như sử dụng ảnh viễn thám (xem khung 18), kỹ thuật phân 16/260
  19. tích GEN để khám phá và lập bản đồ đa dạng sinh học của Việt Nam. Những kỹ thuật mới xuất hiện như đặt bẫy chụp ảnh là các công cụ nghiên cứu quan trọng trong điều tra thực địa những loài có kích thước lớn và khó quan sát, đặ biệt ở vùng xa xôi (như Saola và hổ, Panthera tigris). Các nhà khoa học đặt máy chụp ảnh có thiết bị phát hiện chuyển động tại vùng nghiên cứu; khi có động vật đi qua, bẫy này nó sẽ làm thiết bị sẽ tự động phát hiện và máy ảnh sẽ chụp ảnh (hình 7). Kỹ thuật này đặc biệt có lợi cho việc thu thập thông tin đối với các động vật hoạt động về đêm, có mật độ thấp, và/hoặc khó quan sát. Các nhà khoa học sử dụng các hình ảnh chụp được để nghi nhận sự có mặt của một loài nhất định, khi các cá thể được định loại cụ thể, và để thu thập thông tin về mật độ và sự di chuyển của các cá thể. Vào cuối những năm 1990, các nhà khoa học của Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật đã sử dụng các bẫy chụp ảnh để phát lại hiện loài Rái cá Mũi lông (Lutra sumatrana), một loài đã từng được cho là tuyệt chủng tại Việt Nam (xem khung 14). Việt Nam hiện nay Sự quan tâm đặc biệt đối với tài nguyên sinh vật của Việt Nam trùng hợp với sức ép đang gia tăng đối với tài nguyên thiên nhiên của đất nước, chủ yếu do dân số lớn 80 triệu người và đang tăng nhanh cộng thêm nền kinh tế thị trường mở cửa. Việt Nam đang trải qua thời kỳ chuyển đổi về kinh tế và chính trị trong những thập kỷ gần đây, chính sự phát triển này có tác động quan trọng đối với đa dạng sinh học của đất nước. Vào năm 1986, nhà nước Việt Nam thực hiện chính sách Đổi mới, một động thái có suy tính trước và từng bước chuyển từ hoạt động do nhà nước quản lý tiến tới cá nhân chịu trách nhiệm trong nông nghiệp và ở mức độ lớn hơn đối với các hoạt động thương mại. Các doanh nghiệp cỡ nhỏ bắt đầu tăng nhanh vào cuối những năm 1980, và nhà nước thận trọng trong việc tìm kiếm vốn đầu tư nước ngoài. Việc mở rộng nền kinh tế thị trường đã thay đổi đời sống hàng ngày tại Việt Nam, mang lại mức độ phồn vinh mới và mức tiêu thụ chưa từng có. Nó đồng thời cũng làm tăng khoảng cách giữa người giàu và người nghèo và có khả năng tác động nghiêm trọng đến các cộng đồng thiểu số tại các vùng nông thôn. Phát triển kinh tế đã làm gia tăng những nhu cầu đối với tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam. Nhu cầu về gỗ, chất đốt, cháy rừng, xung đột vũ trang, và các hoạt đông du canh, chuyển đổi với quy mô lớn sang trồng cây xuất khẩu và với mật độ dân số và loại cao nhất ở Đông Nam Á đã gây ra tỷ lệ phá rừng rất cao tại Việt Nam. Với những lý do về kỹ thuật, chính trị, và ý nghĩa của nó, những đánh giá chính xác về diện tích rừng bao phủ hoàn toàn chỉ có tính tạm thời. Những ước tính về diện tích đất có rừng bao phủ một phần (gồm cả rừng ngập mặn) nằm trong khoảng từ 17.4% đến 27.5% diện tích cả nước. Tuy nhiên, chỉ có một phần nhỏ trong số này có thể được coi là rừng ở trạng thái tốt. Chính phủ đã cố gắng vượt qua những vấn đề gây ra bởi mật độ dân số cao, đặc biệt là ở vùngchâu thổ sông Hồng và sông Mê Kông. Đáng tiếc là người dân ở vùng đồng bằng thường được chuyển đến những vùng có mật độ dân số thấp hơn và môi trường ít bị xuống cấp hơn như các vùng cao nguyên ở miền Trung Việt Nam, điều này làm tăng tốc 17/260
  20. độ tàn phá môi trường ở những vùng mới này. Những khu rừng tự nhiên còn lại của Việt Nam hiện nay chủ yếu chỉ còn phân bố ở các vùng núi biệt lập ít được nghiên cứu nhưng nhiều khả năng có độ phong phú về loài và tính đặc hữu cao. Những thị trường buôn bán các loài động vật và thực vật tại địa phương và trên phạm vi quốc tế, môi trường sống tiếp tục bị chia nhỏ, du nhập của các loài ngoại lai và sự ô nhiễm đang đe doạ phần đa dạng sinh học còn lại của Việt Nam. Như vậy, Việt Nam đang đứng trước thời điểm quyết định trong việc khám phá và bảo tồn đa dạng sinh học của đất nước. Vào năm 1995, chính phủ đã quyết định giải quyết các vấn đề về khai thác quá mức và làm mất môi trường sống bằng việc tăng mạnh diện tích của hệ thống các vườn quốc gia và khu bảo tồn. Chính phủ đã quyết định tăng diện tích rừng trong các vườn quốc gia và khu bảo tồn từ 1.3 triệu hecta (hay là 4% diện tích đất) lên đến 2 triệu hecta (hay là 6%) và loại bỏ những vùng bị xuống cấp và có giá trị bảo tồn thấp ra khỏi hệ thống này. Những nỗ lực tương tự cũng đang được mở rộng cho các hệ sinh thái khác, như hệ sinh thái biển. Những thách thức trong thời kỳ đầu của thế kỷ 21 là tìm cách bảo vệ phần đa dạng sinh học quý giá còn lại của Việt Nam trong khi vẫn đảm bảo được nhu cầu của dân số đang gia tăng. Khung 2 Các nhà sinh học Việt Nam và nước ngoài đã tìm thấy các mẫu vật đi săn thuộc về một loài thú lớn chưa định loại được treo trên mái nhà của dân địa phương trong một chuyến đi khảo sát thực địa tại khu bảo tồn Vụ Quang miền Trung Việt Nam vào năm 1992. Nghiên cứu trong những năm sau đó đã giúp thu thập được 20 mẫu vật không đầy đủ, gồm có 3 bộ da hoàn chỉnh và 2 xương sọ, cùng một số bức ảnh chụp được nhờ máy ảnh điều khiển từ xa. Kiểm tra những bằng chứng này giúp các nhà khoa học mô tả một loài mới, Saola (Pseudoryx nghetinhensis). Tên giống của Saola ám chỉ đến cái sừng hơi cong uốn ra phía sau, gần với linh dương sừng kiếm (giống Oryx), một nhóm nhỏ thuộc linh dương thích nghi với cuộc sống ở những vùng khô cằn ở châu Phi và Ả Rập. Saola chỉ có họ hàng xa với nhóm động vật này (hình 6). Tên loài ám chỉ vùng phân bố đầu tiên được biết đến thuộc địa bàn tỉnh có tên cũ là Nghệ Tĩnh. Các cộng đồng cư dân địa phương đã biết đến loại động vật này từ lâu và gọi nó là Saola (sao có nghĩa là con suốt và la có nghĩa là cột) bởi vì sừng dài của nó giống với hai cột nhọn nằm song song ở trên đầu, thường được dùng trong các máy quay sợi tại địa phương. Cân nặng từ 85 đến 100kg, Saola trông chắc nịch với bộ lông chủ yếu mầu nâu và thẫm hơn về phía sau và có các đốm trắng trên mặt, mông và mắt cá. Các tuyến lớn khác thường nằm ở bên dưới mắt và mũi được che dưới phần da cơ mà Saola có thể đẩy lên đẩy xuống. Những tuyến này tiết ra chất nhớt có mùi hăng mà Saola có thể sử dụng trong việc liên lạc. Những phân tích di truyền chỉ ra rằng Saola là một thành viên cổ đại 18/260
  21. của phân họ Bò (Bovinae) mặc dù những đặc điểm bên ngoài và các đặc điểm về xương sọ lại giống với dê hoặc sơn dương (Caprinae). Saola chỉ phân bố ở chân núi của dãy Trường Sơn, nơi nó có phạm vi phân bố thuộc hàng nhỏ nhất thế giới trong số các loài thú. Nó cũng không phân bố đồng đều trong vùng được biết, mà rải rác ở các khu nhỏ. Mặc dù số lượng quần thể chưa được biết, các nhà khoa học ước tính trong khoảng vài trăm cá thể. Mặc dù được quan tâm theo dõi nhiều, các nhà khoa học vẫn chưa nhìn thấy Saola trong môi trường tự nhiên. Hầu hết các thông tin về sinh thái và tập tính của Saola đều thu được từ thợ săn và các nhà khoa học có một số kinh nghiêm ít ỏi khi nuôi Saola. Saola có lẽ ưa thích các suối nhỏ và dốc trong rừng thường xanh ẩm ướt. Những quần thể nhỏ, có thể từ 1 đến 3 cá thể, có lẽ đây là các nhóm gia đình. Những mối đe dọa đối với Saola bao gồm việc săn bắn, đánh bẫy không chủ ý và việc mất rừng. Những nỗ lực nhằm nuôi Saola cho đẻ đều thất bại, bởi vì tất cả các cá thể đều chết khi bị bắt hoặc trong khi nuôi. 19/260
  22. Con người và Môi trường Tại Việt Nam, những tác động qua lại phức tạp giữa con người và môi trường đã kéo dài hàng nghìn năm. Lần theo tiến trình và quá trình phát triển phức tạp trong thời gian dài như vậy không hề dễ dàng. Các học giả vẫn đang khám phá thời tiền sử ở Đông Nam Á. Do đó kiến thức về những liên hệ ban đầu giữa con người và môi trường tự nhiên giống như một tập truyện cổ rách nát, mực bị ố hay bị mất nhiều trang. Lịch sử sơ khai nhất được thể hiện qua các bằng chứng về khảo cổ học và các truyền thuyết truyền miệng, như các truyện kể thần thoại và truyện cổ tích. Dù sau này khi được viết lại và thêm thắt vào, những truyện thần thoại và cổ tích này thường là những nguồn thông tin duy nhất về thời tiền sử. Trong lịch sử, những học giả và nhà thám hiểm người Trung Quốc và châu Âu là những người ghi chép chính về cuộc sống tại Việt Nam. Họ đã bị thu hút bởi các vua chúa, cung điện, đền chùa, và thường bỏ qua các hoạt động và các mối quan tâm lo lắng của quần chúng nhân dân. Những văn bản của người Trung Quốc đề cập đến các vấn đề trên quan điểm của kẻ ngoại xâm, thường xuyên coi nhẹ lịch sử trước thời Trung Quốc và các phong tục địa phương. Tương tự, những ghi chép của các học giả châu Âu cũng bị bóp méo bởi vì họ thường không nhận thức được đâu là nghệ thuật tiên tiến và các loại hình văn hoá thuộc về những người bản xứ. Trong một số trường hợp họ thậm chí còn dựng lên lịch sử phức tạp mô tả các dạng nghệ thuật đồ đồng của Đông Nam Á có nguồn gốc từ châu Âu. Đáng ngạc nhiên là khi các học giả Việt Nam tiếp nhận công việc xây dựng lịch sử, họ cố gắng đẩy lùi ngày xuất hiện của dân tộc, nhà nước, và nền văn hoá Việt Nam đầu tiên đôi khi quá mức. Tuy nhiên, một điều rõ ràng là các phần của Việt Nam (đáng chú ý là châu thổ sông Hồng) nằm trong số những khu vực có môi trường thiên nhiên liên tục bị biến đổi lâu đời nhất trên thế giới . Lịch sử sơ khai Lịch sử Việt Nam bắt nguồn từ miền Bắc. Những dấu vết đầu tiên của người hiện đại tại Việt Nam, được tìm thấy tại khu vực của tỉnh Thanh Hoá hiện nay, có thể có niên đại từ 30.000 năm trước đây. Tuy nhiên, các nhà khoa học còn chưa nhất trí về thời điểm này do có sự khác nhau giữa các phương pháp xác định thời gian và cách diễn giải kết quả. Các bằng chứng đã được công nhận cho rằng con người đã sống trong hang và những nơi chú ẩn bằng đá nằm trong khu vực núi đá vôi nằm ở châu thổ sông Hồng trong khoảng thời gian từ 18.000 đến 9.000 năm trước đây. Mặc dù nguồn gốc của những người này vẫn còn chưa rõ ràng, những nhà nhân chủng học cho rằng một số trong số họ thuộc nhóm Mã Lai – Pôlinêdi, hậu duệ của những người sống trên các đảo tại Đông Nam Á và Thái Bìng Dương. Các dụng cụ, đồ dùng, lò sưởi, vỏ trai, xương, tranh vẽ bằng đất đỏ tìm thấy tại các hang ở miền Bắc Việt Nam cho thấy đây là các trung tâm văn hoá đã định hình. Trong thời điểm này, con người thường đẽo các dụng cụ từ đá chứ không phải từ xương hoặc sừng. Săn bắn và hái lượm là các hoạt động chính. Không có 20/260
  23. bằng chứng về nông nghiệp hoặc thuần hoá động vật, có thể có một ngoại lệ là chó. Con người săn bắn thú có móng guốc bao gồm bò hoang dã (giống bò, Bos) và tê giác (có thể là Tê Giác Một sừng, Rhinoceros sondaicus), Voi châu Á (Elephas maximus), gấu (giống gấu, Ursus), và linh trưởng (bộ Primates), và bắt cá và động vật có vỏ như tôm, cua, hến. Khoảng 10.000 đến 8000 năm trước công nguyên, các cộng đồng đánh cá phát triển dọc theo bờ biển tại khu vực tỉnh Nghệ An hiện nay, được thể hiện qua các gò (gọi là đống) tạo nên bởi các vỏ sò bỏ đi cao từ 5-6 mét và rộng hàng trăm mét vuông. Các đống này cũng có xương của thú có móng guốc và chó. Các dụng cụ bằng đá tại các vùng ven biển cũng như vỏ trai sò trong các hang đá nằm sâu trong đất liền chứng tỏ có sự mua bán trao đổi giữa các vùng vào thời kỳ này. Đáng tiếc là, không có thêm nhiều thông tin khác về các nền văn hoá này. Mực nước biển tăng sau thời kỳ băng hà và trầm tích đi cùng nó đã nhấn chìm rất nhiều vùng ven biển, xoá đi tất cả các bằng chứng về nơi ở của con người. Việc đưa cây vào trồng trọt và sự xuất hiện của nông nghiệp đã có tác dụng to lớn và lâu dài lên con người và môi trường trên thế giới. Những bằng chứng đầu tiên của việc trồng lúa ở châu Á xuất hiện tại khu vực bao gồm phía Nam của Trung Quốc, phía Bắc của Thái Lan, và phía Bắc của Việt Nam. Con người có lẽ đã thuần dưỡng cây lúa rồi sau đó chính thức đưa vào trồng trọt ở châu Á trên châu thổ sông Trường Giang khoảng 6.400 năm trước công nguyên, và các cộng đồng về phía Nam, tại Việt Nam ngày nay, bắt đầu trồng lúa khoảng từ 3.000 đến 2.000 năm trước công nguyên. Vào cuối thời kỳ đồ đá mới, khoảng 2.000 năm trước công nguyên, những người từ vùng mà ngày nay là Nam Trung Quốc di cư đến Đông Nam Á, pha trộn với người bản xứ và văn hoá của họ. Vào thời điểm này, phần lớn châu thổ sông Hồng vẫn bị ngập trong nước biển từ hàng nghìn năm và nước biển cũng bắt đầu rút xuống. Ở vùng chân núi bao quanh châu thổ và vùng cao nguyên về phía Nam, một nền văn hoá riêng biệt bắt đầu được hình thành. Con người ở những vùng này bắt đầu trồng lúa ở vùng trung du và vùng đồng bằng, thay đổi kỹ thuật trồng trọt tùy theo từng loại đất khác nhau ở những độ cao khác nhau. Đến nay kỹ thuật làm đất trồng lúa của họ vẫn chưa được biết. Sự khác biệt rất lớn về kỹ thuật trồng lúa hiện nay giữa vùng trung du và đồng bằng có thể giúp làm sáng tỏ những biến đổi về môi trường trước đây do những người Việt Nam đầu tiên gây ra. Ngày nay, những người nông dân ở vùng đồng bằng phát quang thực vật hiện có và biến vùng đất ngập nước, trảng cỏ, hoặc rừng ở vùng đồng bằng thành ruộng lúa. Bờ ruộng bằng đất dày giúp giữ nước trong ruộng lúa. Nông nghiệp lúa nước là công việc rất nặng nhọc, đòi hỏi có tổ chức xã hội và hợp tác ở mức độ cao trong việc cấy lúa, kiểm soát sâu bệnh, điều hoà mực nước, và thu hoạch. Mối liên kết chặt chẽ trong gia đình thường là nền tảng trong việc hợp tác sản xuất nông nghiệp. 21/260
  24. Tại các vùng trung du, người nông dân trồng lúa cạn, tưới tiêu dựa vào mưa. Sử dụng kỹ thuật thường gọi là du canh du cư, người nông dân phát quang đất cho việc trồng trọt và thu hoạch mùa màng trong vài năm cho đến khi đất không còn chất dinh dưỡng. Sau đó họ bỏ đất hoang để cho đất hồi phục lại và có khả tiếp tục phục vụ việc trồng trọt. Có hàng trăm, hoặc có thể hàng nghìn, loại du canh khác nhau, phụ thuộc vào các yếu tố như thời gian khu vực đó được trồng trọt, thời gian bị bỏ hoang, mức độ đất bị xuống cấp, loại cây trồng, diện tích của vùng trồng trọt, và người nào trong cộng đồng được quyền trồng và thu hoạch. Các hệ thống du canh khác nhau có tác dụng khác nhau lên môi trường tự nhiên và lên các quá trình tái sinh của rừng. Dấu vết còn lại của các khu vực trồng trọt nông nghiệp cũng có thể làm sáng tỏ sự tương tác giữa con người và môi trường vào thời kỳ sơ khai ở Việt Nam. Các bằng chứng về khảo cổ học có niên đại từ lúc bắt đầu của thời kỳ trồng lúa gợi ý là những người sống bên ngoài thiên nhiên ở miền Trung Việt Nam, thuộc tỉnh Gia Lai, Đắc Lắc, sản xuất dìu, dao, dụng cụ đánh bóng, cuốc bằng đá và đồ gốm theo kiểu khác hẳn so với các vùng khác ở Việt Nam. Tuy nhiên, không có thêm thông tin nào khác về họ cũng như các phương pháp làm nông nghiệp của họ. Về phía Nam, nằm trong lưu vực của sông Đồng Nai ngay phía bắc của thành phố Hồ Chí Minh ngày nay, có những bằng chứng rõ ràng về nông nghiệp trồng lúa vào thời kỳ đồ đá mới tại xấp xỉ 50 khu vực. Văn hoá Đồng Nai trồng lúa nương (lúa khô) và có thể là khởi thủy của nền văn hoá Ốc Eo xuất hiện tại châu thổ sông Mê Kông và thế kỷ đầu tiên của thời kỳ này. Khi nông nghiệp và thuần hóa động vật được coi trọng hơn so với săn bắn và hái lượm, con người ngày càng trở nên ít di chuyển và những nhu cầu cho cuộc sống hàng ngày bắt đầu có tác dụng rộng lớn hơn lên môi trường tại địa phương. Để đáp ứng được các nhu cầu về nông nghiệp, con người trên khắp đất nước bắt đầu chặt cây và phát quang một diện tích lớn. Họ săn bắn động vật bằng ống thổi và bắt đầu thuần hoá vật nuôi. Khi nghề gốm phát triển, nó làm tăng tác động lên môi trường xung quanh. Mặc dù đồ gốm ban đầu có thể chỉ được nung nhẹ, khi men và các phần hoàn thiện khác trở nên dày hơn và tinh vi hơn, nhiệt độ lò nung cần nóng hơn và do đó cần nhiều nhiên liệu hơn. Hai nền văn hoá quan trọng và đặc biệt, Đông Sơn và Sa Huỳnh, phát triển ở Việt Nam giữa thời kỳ 1.000 năm trước công nguyên và bắt đầu công nguyên. Văn hoá Đông Sơn, được đặt tên theo một địa danh ở tỉnh Thanh Hoá nơi các trống đồng nổi tiếng được tìm thấy, hưng thịnh vào khoảng 3.000 năm trước công nguyên. Các nhà khảo cổ học tìm thấy các cổ vật Đông Sơn tại rất nhiều nơi ở Đông Nam Á và Trung Quốc, cho thấy mạng lưới trao đổi buôn bán rộng lớn, nhưng đáng chú ý nhất là từ Việt Nam, đặc biệt là từ các thung lũng sông Hồng, sông Mã, và sông Cả. Các hình trang trí trên trống thể hiện việc nhận thức và sử dụng môi trường trong thời kỳ này. Các hình minh hoạ mô tả mặt trời, các đàn dê, chim nước, và con người mặc áo choàng trang chí bằng lông chim nước. Nhiều các cổ vật khác cung cấp bằng chứng về sự tiếp tục phát triển của nông nghiệp trồng lúa, bao gồm cả lưỡi cày bằng đồng, các lưỡi và liềm cắt cỏ, tranh miêu tả con người đang trồng và giã gạo. 22/260
  25. Vào cuối thiên niên kỷ đầu tiên trước công nguyên, một nền văn minh đáng chú ý khác là nền văn hoá Sa Huỳnh, phát triển tại khu vực giữa đèo Ngang và vùng biên giới của tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình ngày nay trên lưu vực của sông Đồng Nai. Các hoạt động kinh tế chủ yếu của nền văn hoá này là trồng lúa và các cây có hạt khác trên đất đồi hoặc đất phẳng và đánh cá. Tuy nhiên săn bắn động vật rừng cũng có thể đóng vai trò quan trọng. Các hoa tai bằng ngọc có niên đại khoảng 2.000 năm trước đây thuộc về nền văn hoá Sa Huỳnh, có vẽ đầu con vật có thể là của Saola (Pseudoryx nghetinhensis). Mặc dù loài này mới chỉ được các nhà khoa học biết tới 1992, những người dân địa phương đã biết nó trong hàng nghìn năm. Các nhà khoa học vẫn còn tranh cãi về mối liên hệ về văn hoá Sa Huỳnh và vương quốc Chăm Pa được hình thành ở cùng đồng bằng ven biển Việt Nam trong thế kỷ đầu tiên sau công nguyên. Sự phát triển của một nhà nước Các nhà sử học Việt Nam cho rằng nhà nước đầu tiên xuất hiện tại tỉnh Bắc Ninh nằm ở phía Bắc Hà Nội khoảng 2.000 năm trước đây. Theo truyền thuyết, Lạc Long Quân là chúa, con cháu của thần rồng, cưới Âu Cơ là tiên và đẻ ra 100 người con trai. Sau này khi hai người chia tay, 50 người con theo mẹ lên núi và tất cả những người con còn lại trừ một người theo bố xuống vùng đồng bằng và vùng ven biển về phía Nam. Một số nhà khảo cổ học giải thích truyền thuyết này là sự đánh dấu hình thức cưới xin giữa những người chuyên đi biển và những người sống trong lục địa hoặc giữa những người vùng cao và người vùng đồng bằng để tạo ra nhà nước Việt Nam. Truyền thuyết này còn nói rằng người con còn lại trở thành người sáng lập ra các vua Hùng của nhà nước Văn Lang. Mặc dù Thần Rồng và Tiên Chúa vẫn còn là truyền thuyết, các bằng chứng về khảo cổ học ủng hộ sự tồn tại của nhà nước Văn Lang, xuất hiện vào khoảng 700 năm trước công nguyên ở miền Bắc Việt Nam. Theo truyền thuyết, 18 vua Hùng sau đó cai trị đất nước, tổ chức xã hội theo chế độ phong kiến với sự giúp đỡ của các viên chức dân sự và quân sự. Nhà nước này ngày nay cũng đóng vai trò là biểu tượng, và có lẽ là do lý tưởng hóa, của sự quản lý tốt nhà nước. Cũng theo truyền thuyết này, vua Hùng thứ 18 có một người con gái xinh đẹp là Mỵ Nương. Hai chàng trai cầu hôn dạm hỏi nàng: Sơn Tinh (Thần Núi) và Thuỷ Tinh (Thần Nước). Vua hứa gả con gái mình cho ai đến trước cùng với các lễ vật đám cưới cần thiết. Sơn Tinh đã thắng và mang người con gái lên núi. Thuỷ Tinh tức giận dâng nước lên để tấn công núi, nhưng Sơn Tinh và vợ mới cưới chỉ đơn giản di chuyển lên núi cao hơn và Thuỷ Tinh phải rút lui. Các trận lụt hàng năm có thể tàn phá vùng châu thổ thấp ở miền Bắc được cho là bắt nguồn từ trận đánh mang tính lịch sử này. Truyền thuyết này phản ánh cuộc đấu tranh liên tục để kiểm soát nước của châu thổ sông Hồng, một vùng đất chắc chắn đã đóng góp cho sự phát triển của các cộng đồng tập trung. Quản lý nước hiệu quả nhất khi các cá nhân tụ họp lại với nhau. Vào thế kỷ thứ ba trước công nguyên, nhóm người Lạc Việt của nhà nước Văn Lang sát nhập vào nhóm Âu Việt (tổ tiên của các nhóm dân tộc thiểu số vùng cao tại miền 23/260
  26. Bắc Việt Nam) để tạo thành nhà nước Âu Lạc có thủ đô nằm tại Cổ Loa (ngày nay nằm trong một quận của Hà Nội) và người dân được thần Rùa Vàng dẫn dắt. Các nghiên cứu về khảo cổ học đã phát hiện hệ thống hào và thành lũy bao quanh một thành phố rộng khoảng 600 héc ta. Cùng lúc, người Hán từ lưu vực sông Hoàng Hà đang thống nhất Trung Quốc và kéo xuống phía Nam, đe dọa miền Bắc của đất nước Việt Nam sơ khai. Người Trung Quốc coi Việt Nam là nguồn cung cấp hàng hoá như ngọc trai, gỗ thơm để làm hương, ngà voi, sừng tê giác, mai đồi mồi (Eretmochelys imbricata), san hô, và lông vẹt và vẹt đuôi dài (Họ vẹt – Psittacidae), chim bói cá (Họ bói cá – Acedinidae và Halcyonidae), và gà lôi (Họ gà lôi – Phasianidae) để trang trí. Các vua Âu Lạc cố gắng giữ độc lập cho đến khi Chao Tô, kẻ ngoại xâm từ phía Nam Trung Quốc, xâm chiếm đất nước vào cuối thế thứ ba trước công nguyên và liên kết miền Bắc Việt Nam và miền Nam Trung Quốc thành một đơn vị chính trị gọi là Nam Việt, có nghĩa là đất nước của dân tộc phía Nam. Đơn vị chính trị này sau đó bị hoàng đế nhà Hán xâm chiếm vào năm 111 trước công nguyên. Các tài liệu lịch sử sau này cho thấy người Việt Nam cống cho triều đình của đế quốc Trung Quốc ngà voi, ngọc trai, san hô, gỗ đàn hương (giống Santalum), voi và tê giác sống. Trong vòng 600 năm sau đó, các vua chúa Trung Quốc tiếp tục coi Việt Nam vừa là bàn đạp để mở rộng xâm chiếm sang các nước khác ở Đông Nam Á vừa là thuộc địa để khai thác, tạo thêm sức ép lên tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam. Mặc dù người Việt Nam chỉ đôi khi nổi dậy đánh thắng Trung Quốc, họ đã khơi dậy ý thức của cả dân tộc. Trong thế kỷ thứ 9, những cuộc nổi dậy nhân lên gấp bội, và nhà nước Việt Nam sơ khai giành được độc lập vào thế kỷ thứ 10, khi Trung Quốc bị yếu đi do sự hỗn loạn gây ra bởi sự đổ nát của triều đại nhà Đường. Trong toàn bộ quá trình đấu tranh chống lại ách xâm lăng của Trung Quốc, người Việt Nam ở miền Bắc đã đồng thời hấp thụ các hoạt động văn hoá, chính trị và tín ngưỡng của Trung Quốc. Bất chấp nỗi lo phải đánh đuổi ngoại xâm Trung Quốc, người Việt Nam ở miền Bắc tiếp tục phát triển các kỹ thuật nông nghiệp và trồng trọt đi kèm với các thay đổi về cách sử dụng đất. Các bằng chứng khảo cổ học và văn bản ghi lại cho thấy việc trồng lúa đã được đưa vào thâm canh vào thế kỷ thứ nhất sau công nguyên cùng với việc sử dụng phân bón để tăng sản lượng lên đến hai vụ một năm. Quá trình thâm canh này có lẽ đã liên quan đến việc tăng dân số ở miền Bắc Việt Nam. Các ghi chép của người Trung Quốc ước tính dân số ở miền Bắc là 1 triệu người trong thế kỷ đầu tiên sau công nguyên. Nông dân đa dạng hóa các loại cây trồng bằng việc trồng khoai tây, mía và dâu. Họ cũng thu lượm các tài nguyên khác từ thiên nhiên, bao gồm tằm (ấu trùng sản sinh ra tơ thuộc Bộ Lepidoptera), trầu không hoặc hạt cau (Areca catechu), tre (cây nằm trong tộc Bambuseae) và mây (phân họ Calamoideae). Quá trình thâm canh và đa dạng hóa nông nghiệp đã làm thay đổi hẳn cảnh quan môi trường. Các công trình thủy lợi như đê và mương để tưới cho cây trồng có mặt khắp nơi ở vùng nông thôn. 24/260
  27. Việc quản lý nước đóng vai trò trung tâm trong các nền văn minh của châu Á trong hàng nghìn năm. Thúc đẩy bởi các lý do về tôn giáo và kinh tế xã hội, các vua chúa ở vùng Đông Nam Á giám sát việc xây dựng các mạng lưới thủy lợi, hồ chứa nước, cống thoát nước và đập chứa nước đồ sộ. Quần thể Angko hùng vĩ nằm ở phía Tây Bắc của Campuchia chỉ là một trong các ví dụ về một thể chế chính trị được xây dựng trên các hệ thống thủy lợi. Khi các thể chế chính trị xuất hiện tại các vùng ngày nay là miền Bắc Việt Nam, các hệ thống thủy lợi cũng được xây dựng. Tại châu thổ sông Hồng, mối đe doạ chủ yếu của môi trường đối với cộng đồng này là lũ lụt không kiểm soát được và con người xây dựng các hệ thống đê thô sơ ở đây vào thế kỷ thứ nhất sau công nguyên. Tuy nhiên phải đến một nghìn năm sau đó, các công trình thủy lợi lớn mới xuất hiện để hạn chế các ảnh hưởng khốc liệt của lũ lụt và hạn hán và đảm bảo có nước tưới trong mùa khô. Mặc dù ít chịu ảnh hưởng của lũ lụt hơn so với miền Bắc Việt Nam, những người định cư ở châu thổ sông Mê Kông phải rất cố gắng để có được đủ lượng nước sạch và tương tự công việc này chi phối sự tương tác của họ với môi trường. Các chi tiết về sự định cư ban đầu ở châu thổ sông Mê Kông diễn ra trước khi lịch sử ghi lại hoặc nằm trong các tài liệu lịch sử cổ đã bị mất. Tuy nhiên, các ghi chép của các triều đại Trung Quốc cho rằng những người thuộc thể chế chính trị Fu Nan (vương quốc trên núi) đã sống ở phía Tây của châu thổ sông Mê Kông từ thế kỷ thứ nhất đến thế kỷ thứ bảy sau công nguyên. Họ định cư ở Ốc Eo, nơi đất phù sau mầu mỡ có thể trồng lúa để cung cấp thực phẩm cho các thủy thủ giúp họ có thể chờ đợi hàng tháng trước khi có gió thuận để đưa họ quanh vùng biển tận cùng phía Nam Việt Nam. Những con người miền biển này sử dụng các kỹ thuật tinh vi vào việc tưới tiêu cho nông nghiệp, xây dựng kênh mương cho việc vận chuyển cũng như thoát nước các vùng đất ngập nước và tưới cho mùa màng. Các kênh này nối liền với vịnh Thái Lan và biển Đông rút ngắn quãng đường từ Ấn Độ đến Trung Quốc. Tại địa phương, người dân sáng chế ra các thiết bị quản lý nước mới và tạo ra các hệ thống xã hội để điều chỉnh việc tiếp cận với nước sạch suốt cả năm theo các tiêu chuẩn như giới tính và địa vị xã hội. Những người Fu Nan có mặt khắp mọi nơi và phát triển mạnh trong khu vực này trong một thế kỷ , buôn bán trong một phạm vi rộng và thu thập các đồng xu và các vật đeo ở cổ của người Ba Tư và La Mã, đồ trang sức của Hy Lạp- La Mã, các con dấu của Ấn Độ và gương của Trung Quốc. Các tài liệu của Trung Quốc cho rằng người Ấn Độ đã ảnh hưởng lên văn hoá của người Fu Nan, đặc biệt là trong hệ thống chữ viết. Quyền bá chủ trong khu vực của người Fu Nan giảm sút vào thế kỷ thứ 4 khi người các thương gia Trung Quốc và Ấn Độ chọn các cảng mới xuất hiện ở Iđônêsia làm nơi buôn bán vì họ có thể cung cấp các đồ gia vị mà người Fu Nan không có như hạt ớt, đinh hương, hạt nhục đậu khấu và vỏ hạt này. Nền văn hoá Fu Nan biến mất vào khoảng năm 550 khi bị người Khơ Me từ Campuchia tiến xuống từ phía Nam tiêu diệt. Mặc dù nền văn hoá của họ đã bị xoá sạch, người Fu Nan đã để lại dấu ấn lâu dài trên vùng châu thổ thể hiện qua hệ thống kênh mương rất phát triển của họ. 25/260
  28. Vào khoảng thế kỷ thứ 2 hoặc thứ 3, các tài liệu của Trung Quốc đề cập đến một hệ thống chính trị lớn thứ ba đang phát triển tại Việt Nam, vương quốc Chăm Pa (mặc dù tên của vương quốc này đến thế kỷ thứ 7 mới xuất hiện). Người Chăm, có nguồn gốc từ Inđônêsia nhưng bị ảnh hưởng sâu sắc bởi các nền văn minh Hinđu tại Nam và Đông Nam Á, định cư tại vùng đồng bằng ven biển hẹp nằm ở vùng nằm giữa địa phận tỉnh Quảng Bình và Quảng Nam ngày nay. Nền kinh tế của họ phụ thuộc vào nông nghiệp, đánh cá biển, và buôn bán. Họ cung cấp muối và các sản phẩm kim loại cho các dân tộc thiểu số sống ở dãy Trường Sơn để đổi lấy các tài nguyên rừng như vỏ quế, ớt, ngà voi, sừng tê giác, và gỗ. Người Chăm lại đổi các tài nguyên rừng này lấy lụa và các hàng hoá khác từ nước ngoài. Việc trồng lúa nước phát triển nhanh trong khu vực và người Chăm phát triển các giống lúa mới chín sớm. Các xung đột giữa người Chăm và người Việt ở phía Bắc xuất hiện vào thế kỷ thứ ba tiếp tục cho đến giữa thế kỷ thứ 13. Tại thời điểm này, sự thù địch giữa hai nhóm người này tạm thời lắng xuống vì họ cùng phải đối phó với mối đe doạ chung từ Kublai Khan và quân đội Mông Cổ của ông ta. Chỉ có cách tập trung lực lượng thì người Chăm và người Việt ở phía Bắc mới có thể đẩy lùi được sự xâm lăng của Mông Cổ. Sự thù địch tái diễn ngay sau đó. Cuối cùng người Việt ở phía Bắc đã đánh thắng Chăm vào năm 1471. Vương quốc Chăm tiếp tục mất lãnh thổ vào tay người Việt ở phía Bắc và người Khơ Me ở phía Nam và chế độ quý tộc này tan rã và đầu thế kỷ 19. Một vài triều đại vua (đáng kể nhất là nhà Lý vào thế kỷ thế kỷ 11 và 12, nhà Trần vào thế kỷ 13 và 14, và nhà Lê từ thế kỷ 15 đến 18) tiếp tục thống nhất và tổ chức các vùng phía Bắc cả về mặt chính trị và kinh tế. Xã hội chủ yếu làm nông nghiệp phát triển qua một vài giai đoạn. Cho đến những năm 1400, vua sở hữu toàn bộ đất đai và phân phát các bất động sản quan trọng cho các chức sắc trong triều đình và các tu viện của Phật giáo. Bên trong các bất động sản này, nông dân cày cấy cho tầng lớp quý tộc này. Theo thời gian, đặc biệt trong thế kỷ thứ 15, các làng xã có nông dân là địa chủ tăng lên về số lượng. Tỷ lệ tăng dân số cao đi kèm với đất đai khan hiếm đã tạo ra các xung đột giữa nông dân và người cầm quyền. Nội chiến cuối cùng đã nổ ra tại miền Bắc, gây ra do sự căng thẳng ngày càng gia tăng giữa tốc độ tăng dân số và việc đất đai không có khả năng cung cấp đủ lương thực. Đến cuối thế kỷ thứ mười sáu, cuộc nội chiến này diễn ra cùng với cuộc khủng hoảng về nông nghiệp đã khiến các gia đình người Việt di cư về phía Nam, đầu tiên đến miền Trung, sau đó đến miền Nam Việt Nam. Ở miền Trung, những người di cư gặp các thương gia ở các địa điểm như Hội An, nằm ngay phía Nam của Đà Nẵng dọc theo bờ biển miền Trung. Các doanh nhân ở Hội An chuyên buôn bán tổ chim yến (yến hông xám, Collocalia germani) bắt đầu vào thế kỷ 17 (xem khung 22 và hình 69). Đầu tiên, các dân làng lân cận thu hoạch các tổ chim yến khi có cơ hội. Sau đó chính phủ bắt dân làng đi thu tổ chim yến một cách hệ thống và trả thuế cho tài nguyên này cho nhà nước. Việc buôn bán tổ chim yến phát triển mạnh trong một vài thế kỷ sau đó và trở thành một trong những sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của cảng này. Các sản phẩm khác, tất cả đều 26/260
  29. có nguồn gốc từ thiên nhiên, bao gồm sừng tê giác, mai rùa biển (họ Cheloniidae), ngà voi và các gia vị. Đầu thế kỷ 19, triều đại cuối cùng của Việt Nam, nhà Nguyễn, được thành lập tại Huế. Triều đại này giám sát việc xây dựng hệ thống kênh mương rộng lớn cho việc liên lạc và vận chuyển và châu thổ sông Mê Kông trở thành vùng sản xuất gạo chính. Trong thời kỳ trước thuộc địa, mặc dù các nhánh sông và dòng chảy nhỏ đều được sử dụng, không ai nghĩ ra cách khai thác các dòng sông lớn ở châu Á và sông Mê Kông không phải là ngoại lệ. Dọc theo chiều dài của sông, các cộng đồng phát triển các mối liên hệ khác nhau với sông Mê Kông phụ thuộc vào các chu kỳ lũ lụt và nước rút hàng năm. Những người ở vùng đồng bằng tổ chức cuộc sống của họ theo các chu kỳ lũ thường lệ. Trong khi đó, những người sống ở vùng thượng lưu thích nghi với việc hầu như không có lũ. Sông Mê Kông vẫn hoàn toàn là một bí ẩn và từng cộng đồng duy trì những quan niệm và cách sống riêng của mình. Tình hình này kéo dài đến khi các cường quốc thực dân bắt đầu chú trọng vào Việt Nam và đặc biệt là vào vùng sông Mê Kông. Thời kỳ thuộc địa Những năm 1800 là thời kỳ của các mưu đồ chính trị trong khu vực. Nước Xiêm (tên gọi của Thái Lan cho đến năm 1939) đánh nhau với Việt Nam để tranh giành quyền kiểm soát Campuchia và Lào, và các thế lực ở châu Âu đã có sự quan tâm đến sông Mê Kông. Sự tiếp cận đến các thị trường ở Trung Quốc là phần thưởng cho những kẻ thực dân ở châu Âu và ban đầu dòng sông này có vẻ sẽ là con đường vận chuyển thương mại miễn phí đến hàng ngàn nhà sản xuất và người tiêu dùng. Nhà tự nhiên học và nhiếp ảnh Henri Mouhot đã khiến người châu Âu chú ý đến sông Mê Kông khi ông ta thu thập tài liệu về sự suy tàn tại Angkor ở Campuchia vào năm 1860. Ông ta chết một năm sau đó vì một thứ bệnh ông mắc phải trên đường đi lên thượng lưu. Sáu năm sau, cùng thời điểm với cuộc hành trình đi tìm nguồn gốc của sông Nin, một cuộc thám hiểm sông Mê Kông do người Pháp tổ chức nhằm điều tra các vực nước ở vùng cao có cũng có số phận bất hạnh tương tự. Những nhà thám hiểm, ban đầu bị đánh lừa bởi các đường sông chảy chậm dễ dàng đi lại ở phía hạ lưu đã tiến lên phía thượng lưu và gặp phải ghềnh, thác và các chướng ngại vật tương tự ở trung lưu và cuối cùng là thượng lưu của con sông này. Một vài nhà thám hiểm khác đã cố gắng tìm ra nguồn gốc của sông Mê Kông một cách vô ích, cho đến khi một khám phá được thông báo vào năm 1894. (Vị trí chính xác của nguồn sông Mê Kông cho đến nay vẫn còn chưa được thống nhất. Các cuộc thám hiểm và những năm 1990 đã tìm ra một vài nguồn khác xa hơn so với vị trí được đánh dấu vào năm 1894, mặc dù ngày nay sự tranh cãi chỉ còn là sự khác nhau vể khoảng cách theo đơn vị m chứ không phải km giữa những nơi có thể là nguồn.) Lưu vực sông Mê Kông trải qua những thay đổi sâu sắc và biến đổi thành đất nông nghiệp trong những năm giữa và cuối thế kỷ 19. Với sự xuất hiện của thực dân Pháp ở đây vào những năm 1860, tốc độ định cư đi kèm với sự thoái hoá của môi trường tăng lên rõ rệt. Người Pháp giám sát việc nạo vét các kênh cũ và mới, chia cắt các vùng tự 27/260
  30. nhiên của châu thổ thành các hệ thống kênh rạch chằng chịt – có chiều dài tổng cộng hơn 2.375 km - để nối các tỉnh và huyện nằm ở trung tâm. Những người định cư Việt Nam di cư theo các kênh rạch này và định cư sâu hơn vào bên trong vùng châu thổ. Các kênh rạch và các hoạt động kèm theo đã làm thay đổi cảnh quan, làm rút mực nước bề mặt và thay đổi chế độ lũ lụt tự nhiên. Nạo vét và thoát nước đã biến hàng ngàn hecta đất ngập nước thành đồng lúa có khả năng trồng một vài vụ trong một năm. Các công trình thủy lợi này cho phép diện tích các vùng đất trồng lúa tăng gấp bốn lần từ năm 1880 đến năm 1930. Tuy nhiên mức tiêu thụ lúa của từng người dân lại bị giảm sút trong cùng thời kỳ này. Địa chủ là những người Việt Nam giàu có cộng tác với người Pháp hoặc nhà đầu cơ người Pháp. Những người thuê đất Việt Nam không có đất phải trồng và thu hoạch các vụ mùa và phải trả tiền thuê lên đến 60% sản phẩm thu được. Một tầng lớp địa chủ Việt Nam mới bán những sản phẩm thu hoạch tại Sài Gòn (ngày nay là thành phố Hồ Chí Minh) phục vụ xuất khẩu. Các con số xuất khẩu gạo tăng lên thể hiện diện tích trồng trọt được mở rộng và việc tăng cường bóc lột sức lao động của người nông dân. Khi sự quan tâm của người Pháp vào khu vực cũng như tài nguyên của vùng này tăng lên vào thế kỷ 19, người Việt Nam tập trung vào các xung đột bên trong giữa tầng lớp quý tộc và nông dân. Một phần vì triều đại nhà Nguyễn quá bận rộn với việc đàn áp với những cuộc nổi loạn chống lại chính quyền, người Pháp đã kiểm soát được đất nước. Đầu tiên, người Pháp đã sáp nhập vùng phía Nam thành thuộc địa vào những năm 1860. Trong một vài năm sau đó, họ đã thành lập chế độ bảo hộ ở miền Trung và miền Bắc Việt Nam. Sau khi đã kiểm soát được các vùng đồng bằng dễ tiếp cận ở Việt Nam, người Pháp tiến tới các vùng núi để mở rộng vùng thuộc địa. Nhóm người Việt chiếm đa số ở vùng đồng bằng đã trao đổi buôn bán với người vùng cao nguyên từ lâu nhưng mặt khác họ tránh các vùng núi tại Việt Nam. Họ tránh các vùng núi một phần vì sợ bệnh tật, thú dữ, và quỷ thần mà họ tin là thường lui tới các vùng núi và một phần vì họ tin rằng những nhóm dân tộc thiểu số ở các vùng cao là nguyên nhân của những sự bất ổn của xã hội. Những nhóm người miền núi khác hẳn so với những người sống ở vùng đồng bằng về mặt văn hoá, kinh tế, chính trị, tín ngưỡng, và các mối quan hệ với môi trường. Trái ngược với nền nông nghiệp lâu đời và ổn định ở vùng đồng bằng, người dân vùng cao sinh sống bằng nông nghiệp du canh, săn bắn, đánh cá, và đôi khi trao đổi buôn bán với các thương gia vùng ven biển. Biên giới chia cắt người vùng cao với người vùng đồng bằng thay đổi thường xuyên vì những xung đột diễn ra theo chu kỳ. Trong thời gian đầu thế kỷ 20, người Pháp đã mở rộng vùng cao nguyên cho việc phát triển, xây dựng đường sá đến những vùng trước đây vẫn còn biệt lập. Họ hy vọng sẽ kiếm lợi từ những tài nguyên thiên nhiên trên các vùng núi (khung 3 và 4), và họ coi những vùng này là các vị trí chiến lược, thiết lập các vị trí tiền đồn và các thiết bị quân sự khác ở đây. Người Pháp cũng coi các vùng núi là nơi nghỉ ngơi và khu giải trí. Từ năm 1893 đến năm 1933, người Pháp đã xây dựng 7 nơi nghỉ ngơi an dưỡng ở miền Bắc và miền Trung Việt Nam: Bạch Mã, Ba Na, Ba Vì, Tam Đảo, Đà Lạt và Sa Pa. Những khu nghỉ này cung cấp nơi nghi ngơi theo mùa cho những người xa xứ mệt mỏi bởi cái nóng vùng nhiệt đới, bệnh tật, và những sự khó chịu khác mà họ không thể quen được. 28/260
  31. Rõ ràng là khu nghỉ nổi tiếng nhất là Đà Lạt. Nhà thám hiểm về động vật không xương sống và nhà lịch sử tự nhiên Tiến sĩ Alexandre Yersin là người đầu tiên giới thiệu vùng Đà Lạt cho người Pháp. Tiến sĩ Yersin sinh ra tại Thụy Sĩ sống ở Nha Trang và đã nghiên cứu cùng Louis Pasteur. Ông ta được biết đến nhiều nhất nhờ phát hiện ra khuẩn que Yersinia pestis, nguyên nhân gây ra bệnh dịch hạch, và tìm ra huyết thanh chữa bệnh này. Yersin là người ủng hộ nhiệt tình cho việc xây dựng các khu nghỉ làm nơi chữa bệnh và các trung tâm giải trí. Các khu nghỉ đã thực hiện chức năng này trong nhiều năm. Ngày nay chúng là những nơi du lịch nổi tiếng cho những khách du lịch địa phương và nước ngoài. Tuy nhiên sự mở rộng và phát triển những khu nghỉ này đã gây ra áp lực rất lớn lên tài nguyên thiên nhiên và môi trường sống mà từng một thời được ca ngợi. Khu nghỉ mát Đà Lạt được xây dựng làm khu an dưỡng một phần vì những khu rừng thông tuyệt đẹp nằm trên triền núi. Ngày nay, bất chấp những hạn chế về khai thác rừng, những khu rừng này đang biến mất do khai thác lấy nhiên liệu lấy gỗ và cho các hoạt động khác. Cho đến cuối thế kỷ 19, người Pháp bắt đầu phát triển cơ sở hạ tầng để giúp ích cho đa dạng sinh học. Họ thành lập các viện nghiên cứu, như Cục Địa Lý và Địa Chất và một trường lâm nghiệp, nhằm tăng cường hiểu biết về các tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam. Người Pháp tiến hành các cuộc khảo sát sâu về các vùng rừng, thống kê việc mất rừng và rừng xuống cấp. Họ cũng thành lập sở lâm nghiệp và tuyển các nhân viên kiểm lâm để bảo vệ môi trường trong một số khu vực lựa chọn. Các cơ quan này tồn tại đến khi người Pháp rời khỏi đất nước sau khi Việt Nam giành được độc lập vào năm 1954. Độc lập và thống nhất Các phong trào giành độc lập trong nước xuất hiện tại Việt Nam và đầu thế kỷ 20 và tăng thêm sức mạnh sau Thế chiến thứ nhất. Các nỗ lực liên tiếp nhằm đánh đổ người Pháp lên đến đỉnh điểm trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất bắt đầu vào cuối những năm 1940 giữa người Pháp và một mặt trận dân tộc dành độc lập có tên gọi là Việt Minh chủ yếu do những người cộng sản tham gia. Hồ Chí Minh, người sáng lập ra Việt Minh, là một trong những nhà lãnh đạo có ảnh hưởng lớn nhất của thế kỷ 20 và hơn nữa có ảnh hưởng lên việc quản lý sử dụng đất của đất nước với những chính sách của mình khi ông đã trở thành chủ tịch của miền Bắc Việt Nam. Sau khi đất nước chính thức bị chia cắt thành hai nửa tại hội nghị Geneve vào năm 1954, chính phủ của cả miền Bắc (Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam) và miền Nam (Việt Nam Cộng Hòa) Việt Nam thiết lập các chương trình di dân lớn để phát triển các vùng cao, gây ảnh hưởng to lớn tới môi trường thiên nhiên vùng cao. Những vấn đề gây tranh cãi nhất về tác động của con người lên đất nước Việt Nam vào cuối thế kỷ 20 rõ ràng là liên quan đến ảnh hưởng của cuộc chiến tranh với Mỹ. Trong nỗ lực nhằm tránh sử dụng số lượng lớn bộ binh, chính phủ Mỹ đã sử dụng các loại vũ khí tinh 29/260
  32. vi và tấn công từ xa. Mục đích là nhằm hạn chế sự di chuyển của quân đội phương bằng cách phá hủy rừng che phủ và tàn phá mùa màng tại địa phương và giảm bớt các nguồn thực phẩm địa phương. Quân đội Mỹ đã sử dụng các hoạt động phá hoại môi trường có tác động lâu dài và trên diện rộng làm chiến lược quân sự, sự dụng thuật ngữ diệt môi trường làm ngôn từ chung. Các phương pháp phá sạch cảnh quan rất đa dạng và hiệu quả, bao gồm các chất nổ có sức công phá mạnh, chất gây rụng lá, máy phát quang đất, hệ thống thoát nước cho đất ngập nước, và các kỹ thuật khác (khung 5). Có lẽ chiến thuật quân sự nổi tiếng nhất và vẫn còn là bí ẩn nhất được sử dụng trong cuộc chiến tranh này là việc rải thuốc diệt cỏ từ năm 1961 đến năm 1971. Trong thời kỳ trước khi nhận thức về môi trường lan rộng trên khắp nước Mỹ (mặc dù cuốn sách Mùa Xuân Yên Lặng của Rachel Carson, xuất bản năn 1962, đã bắt đầu kêu gọi sự chú ý đến các chất gây ô nhiễm), rất ít người nghĩ tới ảnh hưởng lâu dài của các hoá chất này lên cả con người và môi trường. Quân đội Mỹ và quân đội Việt Nam Cộng Hoà đã phun hơn 72 triệu lít các chất hoá học, chất độc mầu da cam, mầu trắng, mầu xanh da trời, mầu xanh lá cây, mầu hồng và mầu đỏ tía. Chúng được đặt tên theo mầu của các thùng chứa và để làm rụng lá cây, phá hoại mùa màng dọc theo biên giới của khu vực quân sự, và diệt cây trồng của phe đối phương. Chất độc mầu da cam (chiếm khoảng 2 phần 3 tổng số lượng chất gây rụng lá được sử dụng), cũng như chất mầu đỏ tía và chất mầu hồng chứa dioxin, một sản phẩm phụ của quá trình sản xuất chất diệt cỏ, rất độc với con người. Chất mầu xanh da trời, chủ yếu được sử dụng để phá hoại mùa màng, phần lớn có chứa hợp chất arsenic hữu cơ. Trong cuộc chiến tranh này, những chất hoá học này đã làm giảm độ che phủ của lá rừng và giúp cho binh lính của Mỹ và Việt Nam Cộng Hoà tìm ra những chiến sĩ của quân đội miền Bắc Việt Nam và làm giảm số thương vong của họ. Các nhà khoa học vẫn còn đang cố gắng tìm hiểu các tác động lâu dài của những chất gây rụng lá này lên môi trường cũng như lên những người phục vụ trong quân đội và dân thường của cả hai bên tham gia chiến tranh. Việc phun thuốc tập trung dọc theo các sông suối có tính chiến lược và như vậy gây ảnh hưởng nặng nề lên thực vật ven bờ cũng như đất ngập nước. Các vùng có môi trường tự nhiên đa dạng và chưa bị tác động như rừng U Minh ở châu thổ sông Mê Kông, là nơi ẩn náu lý tưởng cho bộ đội miền Bắc Việt Nam, và họ đã mang theo hoả lực đến môi trường sinh thái quan trọng này. Rất khó có thể tìm được số liệu định lượng đáng tin cậy về diện tích rừng bị ảnh hưởng, một phần vì có rất ít những ước tính về phạm vi phân bố rừng trước năm 1960. Về những ảnh hưởng tới môi trường, chất gây rụng lá thường làm cho đất rắn lại và xuống cấp, ngăn cản sự tái sinh của thực vật. Việc sử dụng chất gây rụng lá trên diện rộng và liên tục đôi khi làm chết toàn bộ thực vật. Những loài cỏ sống dai như Alang-alang (còn gọi là Cogon hay cỏ Mỹ; Imperata cylindrica) thường mọc nhanh ở những nơi đất trống, chiếm ưu thế so với các loài thực vật khác và ngăn cản sự tái sinh bình thường. Trong nhiều năm, loại cỏ này tiếp tục chi phối cảnh quan trong nhiều thập kỷ sau khi phun các chất gây rụng lá (hình 8). 30/260
  33. Các nhà khoa học đã tìm thấy chất dioxin ở các động vật sống trong nước nhiều thập kỷ sau chiến tranh. Nguyên nhân có thể là do sự có mặt của dioxin trong bùn của các ao nuôi trồng thủy sản nhỏ. Vịt và cá khuấy động và ăn bùn này, tích trữ dioxin vào trong mỡ. Các tác dụng trực tiếp và lâu dài của các chất hoá học này lên động vật nuôi vẫn chưa hề được biết tới. Hiểu biết vể ảnh hưởng lên động vật hoang dại thì thậm chí còn ít hơn. Hàng loạt những vấn đề ảnh hưởng lên sức khỏe con người và những bằng chứng về quái thai của động vật trong phòng thí nghiệm sau khi tiếp xúc với dioxin để ngỏ khả năng là chất này có thể ảnh hưởng lên động vật hoang dã. Bên cạnh các tác dụng trực tiếp lên các cá thể riêng lẻ, các chất gây rụng lá này rõ ràng là có lẽ đã làm thay đổi vĩnh viễn kiểu phân bố loài thông qua sự xuống cấp và mất môi trường sống, đặc biệt là các hệ thống đất ngập nước. Việc trực tiếp phá hoại rừng không phải là các hoạt động duy nhất của quân đội gây ảnh hưởng lên môi trường của Việt Nam. Trong cuộc chiến tranh, quân đội Mỹ đã thả 14 triệu tấn bom hoặc bom chùm xuống miền Bắc và miền Nam Việt Nam, Lào và Campuchia tạo ra khoảng 10 đến 15 triệu hố bom lớn và một lượng lớn bom đạn chưa nổ. Tác động của các loại bom này, hoặc bom napalm, mìn và các công nghệ chiến tranh khác lên các quần thể sinh vật của Việt Nam vẫn còn ít được biết tới. Bên cạnh đó, chiến tranh như thường thấy tạo điều kiện cho những người có vũ khí tiếp cận với động vật hoang dã. Các ghi chép và nhật ký của quân đội cung cấp những giai thoại về việc săn bắn động vật hoang dã làm chiến lợi phẩm của binh lính Mỹ, gồm có hổ (Panthera tigris) và Tê Giác Một sừng cũng như việc săn bắn các loài động vật khác để cung cấp thực phẩm cho quân đội Việt Nam. Quân đội Mỹ cũng xuất bản các cuốn sách hướng dẫn thực địa chi tiết về thú và bò sát của Việt Nam cho các nhân viên quân y tại chiến trường trong chiến tranh. Các ấn phẩm này vẫn là những nguồn thông tin quan trọng về lịch sử tự nhiên. Chiến tranh giữa Mỹ và Việt Nam và các cuộc xung đột khu vực khác vào thế kỷ 20 có thể đã giúp giữ lại một phần đã dạng sinh học của đất nước. Các vùng quân sự chiến lược và vùng phi quân sự chia cắt miền Bắc và miền Nam Việt Nam, có những vùng rừng ít bị tác động nhất còn sót lại, một phần vì chính phủ hạn chế việc tiếp cận đến các vùng này và một phần khác vì không thể sinh sống và đi lại ở các khu vực này do một số khu vực như khu phi quân sự vẫn còn có rất nhiều mìn. Khung 3 Vua cao su Cây cao su ở miền Nam Việt Nam (Hevea brasiliensis) được đưa vào Việt Nam từ Braxin qua Vườn Thực Vật Kew của Anh, Sri Lanka và Singapore. Do các kỹ thuật sản xuất hàng loạt của Henry Ford thúc đẩy việc mở rộng công nghiệp chế tạo ôtô, nhu cầu đối với cao su tăng lên gấp bội trong những năm đầu thế kỷ 20. Để đáp ứng nhu cầu này, các công ty Pháp đã đầu tư hàng triệu Frăng và biến hàng trăm ngàn hecta đất thành 31/260
  34. vùng trồng cao su trên khắp thuộc địa của Pháp tại lục địa Đông Nam Á. Bằng việc sản xuất cao su cũng như gạo để xuất khẩu, Việt Nam trở thành nhà sản xuất nguyên liệu thiên nhiên chính cho Pháp. Khung 4 Cuộc chiến tranh về cà phê Cà phê được phát hiện ra ở Ethiopia trước thế kỷ thứ 10, khi một người chăn dê nhận thấy đàn dê của mình xuất hiện các biểu hiện hưng phấn sau khi ăn một loại quả đỏ cứng. Vào những năm 1700, người Hà Lan bắt đầu các vùng trồng cà phê mới ở Java. Hòn đảo này nhanh chóng trở thành khu vực sản xuất cà phê lớn nhất thế giới. Người Pháp ban đầu trồng cà phê trên vùng cao nguyên nằm ở phía bắc thành phố Hồ Chí Minh (lúc đó là Sài Gòn) vào đầu thế kỷ 20. Họ trồng giống Arabica, có chất lượng cao và được ưa thích hơn so với loại kém chất lượng hơn là Robusta nhưng lại khó trồng hơn bởi vì nó rất dễ bị bệnh và thích sống trên các sườn dốc trên 1.000 m. Sau khi giành được độc lập từ người Pháp, những cộng đồng thiểu số sở hữu ít đất đã đầu tư và cà phê vào năm 1960. Giá cả thời chiến đã mang lại cho họ rất nhiều lợi nhuận cho những người sản xuất nhỏ này, tuy nhiên đất ở Việt Nam không thích hợp cho trồng cà phê Arabica. Vào năm 1975 khi chính phủ quốc hữu hoá các thị trường trong nước, chưa đến 8000 hecta được khai thác sử dụng. Các chương trình tái thiết và tái định cư sau chiến tranh tập trung vào nông nghiệp, đặc biệt là vào cà phê, mặc dù việc trồng trọt vẫn chỉ ở mức độ hạn chế. Xuất khẩu chủ yếu cho các thị trường Đông Âu. Các thị trường này chi phối nền kinh tế Việt Nam từ năm 1976 đến năm 1986. Sau khi chính phủ cho phép các cá nhân sản xuất nhỏ trở lại điều hành vào giữa những năm 1980, người Việt Nam đã trồng loại cà phê Robusta kém chất lượng hơn và sản lượng gia tăng. Giá cà phê đạt đến mức cao nhất trong 10 năm vào năm 1994, và Việt Nam nằm trong số 10 nước trên thế giới sản xuất nhiều cà phê nhất. Chính phủ đã dự định đưa Việt Nam trở thành quốc gia đứng thứ năm trên thế giới về sản xuất cà phê vào năm 2000. Với việc tăng diện tích trồng cà phê thêm 400.000 hecta trong khoảng từ năm 1990 đến năm 2000, Việt Nam đã vượt mức đặt ra và thay thế Columbia trở thành nước xuất khẩu cà phê lớn thứ hai trên thế giới, chỉ đứng sau Braxin. Ban đầu có vẻ đây là một động thái tốt, đặc biệt là khi sương giá gây ảnh hưởng đến vụ cà phê của Braxin trong năm 1997 làm cho giá cà phê tăng đột ngột và những người nông dân Việt Nam được hưởng lợi. Nhưng thành công của họ rất ngắn ngủi. Vào năm 1999, giá cà phê tụt xuống mức thấp nhất trong cả thế kỷ. Việt Nam bị coi là nguyên nhân của sự tụt giá này vì đã cung cấp quá nhiều cà phê và làm xáo trộn cân bằng mỏng manh giữa cung và cầu. Thị trường cà phê Robusta giá rẻ và chất lượng thấp lớn mạnh khiến vị thế của Việt Nam trên thị trường cà phê thế giới tăng nhanh tuy nhiên với cái giá là mất rừng và những biến đổi môi trường khác. Các tổ hợp chế biến cà phê đa quốc gia đã phát triển những công nghệ làm sạch bằng hơi mới để loại bỏ các hương vị thô của Robusta. Họ cũng bắt 32/260
  35. đầu bán cà phê có thêm hương vị, như hương của quả phỉ, vanilla, và cà phê Ailen để giấu vị cà phê kém chất lượng của Robusta. (Một số các quán ăn ở Việt Nam bán cà phê đặc biệt và hương vị Robusta được che giấu bằng cách ngâm các hạt cà phê vừa rang xong vào bơ và nước mắm hoặc cho các hạt cà phê đi qua hệ thống tiêu hoá của chồn [họ Viverridae] hoặc culi [họ Lorisidae] và sau đó trộn cà phê với một lượng lớn đường và sữa đặc.) Khung 5 Chiến tranh thời tiết Vào năm 1966 quân đội Mỹ tiến hành một chương trình thử nghiệm có mật mã là Popaye, nhằm thay đổi khí hậu ở miền Tây Bắc Việt Nam và miền Đông Lào. Máy bay bay thả những ống chứa thiết bị phun iốt bạc và iốt chì để làm nhân tố tạo mây, qua đó kích thích mưa rào tại những vùng này. Công nghệ này đã được sử dụng trước đó ở Mỹ và những nơi khác để chống lại hạn hán, nhưng ở Việt Nam mục đích là nhằm tăng cường và kéo dài mùa mưa trong mùa hè nhằm cản trở sự di chuyển của quân đội miền Bắc Việt Nam và đạn dược về phía Nam dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh bằn cách mở rộng sông suối làm ngập lụt các con đường và làm cho các khe núi thiết yếu không thể qua lại được. Các quân nhân Mỹ biết rằng bất cứ thay đổi nào về chu kỳ thời tiết tại Việt Nam cũng có thể có ảnh hưởng rất lớn đến lên dân thường và cuộc tranh cãi kín đã khuấy động chính quyền Johnson về chiến lược không tiền khoáng hậu này. Do những hiểu biết khoa học về thời tiết và sự thay đổi thời tiết vẫn còn hạn chế và những dẫn chứng bằng tư liệu chưa thu thập được, không thể đánh giá một cách chính xác kết quả của chiến dịch này. Miền Bắc Việt Nam đã trải qua mùa lũ lớn vào năm 1971, năm mà chương trình này đạt tới đỉnh điểm. Tuy nhiên Việt Nam cũng trải qua những mùa lũ lớn tương tự và những năm trước chiến tranh. Thời gian kéo dài của chương trình này cùng với khối lượng lớn chất hoá học được thả xuống đặt ra câu hỏi về phạm vi tác động môi trường của chương trình Popeye. Mặc dù một số số liệu cho thấy iốt bạc có thể làm chậm quá trình phát triển của các sinh vật thủy sinh, gồm có tảo, động vật không xương sống và cá, hầu hết các bằng chứng gợi ý rằng những lượng nhỏ của các hoá chất sử dụng để tạo mây không có tác dụng gây thiệt hại đáng kể lên sức khỏe con người hoặc các hệ sinh thái và không đáng kể so với lượng thải ra từ các hoạt động tại mỏ, công nghiệp, và rửa ảnh. Việc tạo mây có thể ảnh hưởng lên mật độ và phân bố của các loài, phụ thuộc vào lượng mưa quá mức ảnh hưởng tốt hay xấu lên các loài khác nhau. Và nó có thể dẫn đến xói mòn các địa hình đồi núi. Công chúng biết đến chiến dịch thay đổi thời tiết này khi thông tin xuất hiện phương tiện truyền thông vào năm 1971 và năm 1972 và dẫn đến phiên toà điều tra trước Phân Ban 33/260
  36. về Biển và Môi Trường Quốc Tế thuộc Ủy Ban về Quan Hệ Đối Ngoại. Những cuộc đàm phán quốc tế sau đó kết thúc bằng việc ký các thoả thuận quốc tế vào năm 1977 nhằm cấm sử dụng các kỹ thuật thay đổi môi trường để chống lại kẻ thù. Nhìn chung mọi người đều công nhận là tại thời điểm hiện nay hiệp ước này sẽ đặt chương trình Popeye ra ngoài vòng pháp luật. Walt Bachman, Trung tâm Đa dạng Sinh học và Bảo tồn, Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Hoa Kỳ, New York. 34/260
  37. Địa Sinh Học của Việt Nam Những hiểu biết của chúng ta về thực vật và động vật hoang dã của Việt Nam vẫn chưa đầy đủ, nhưng khi chúng ta xem xét những số liệu chúng ta đã biết về động vật và thực vật của đất nước, chúng ta sẽ thấy những kiểu phân bố thú vị. Môn địa sinh học – là một môn khoa học nghiên về sự phân bố địa lý trong quá khứ cũng như hiện tại của các loài động thực vật – có thể giúp chúng ta phân biệt được các kiểu phân bố này và suy ngẫm về các nguyên nhân gây ra chúng. Những nhà địa sinh học coi sinh thái của một loài và mức độ liên quan về mặt tiến hoá trong các loài là chìa khoá cho việc tìm hiểu các quy luật phân bố. Khi nghiên cứu phân bố tại thời điểm hiện tại của một loài (hay một nhóm loài) họ xem xét các vùng phân bố của họ hàng gần nhất với chúng và những thông tin về thời điểm những loài này phân nhánh thành cá dạng riêng biệt. Khi họ tìm thấy sự tương đồng (hoặc không tương đồng) của các kiểu phân bố trong các loài, họ tìm kiếm các giải thích chung dựa vào, ví dụ như, những hiểu biết chắc chắn về thời điểm lịch sử khi thời tiết và địa chất có ảnh hưởng lên phân bố của các loài và sự hình thành loài mới. Kiểu phân bố dễ nhận thấy nhất – và đơn giản nhất – của các loài ở Việt Nam kéo dài từ vùng cận nhiệt đới ở phía Bắc đến vùng nhiệt đới phía Nam. Động vật và thực vật của miền Bắc thuộc phân nhóm của khu hệ nằm trong vùng Himalaya và Nam Trung Quốc cũng như các loài có họ hàng gần gũi về tiến hoá với chúng. Ví dụ như nhóm gà lôi (Phasianidae) sống ở độ cao lớn có phạm vi phân bố trải dài dọc theo chân dãy Himalaya và voọc mũi hếch (Rhinopithecus avunculus), có quan hệ gần gũi với các loài linh trưởng thuộc cùng một giống của Trung Quốc mà những loài này có khả năng sống trong rừng tuyết phủ và rừng ôn đới có thành phần chủ yếu là cây đỗ quyên (chi Rhododendron), cây bulô (chi Betula), cây óc chó (chi Juglans), và các loài thực vật chịu lạnh khác. Đi xuống phía Nam, những thay đổi nhỏ về thời tiết và địa hình khiến tính đa dạng đặc trưng cho miền Bắc này dần bị thay thế bằng thực vật và động vật ưa thời tiết ấm và ít thay đổi theo mùa. Các quần thể ở miền Nam Việt Nam có mối liên hệ khăng khít về mặt tiến hoá với các quần thể vùng nhiệt đới phân bố ở bán đảo Mã Lai và các quần đảo của Đông Nam Á. Rất nhiều loài đặc trưng cho miền Nam sống trong những vùng đất ngập nước hoặc các vùng ven biển, gồm có rừng ngập mặn. Ví dụ như rái cá mũi lông (Lutra sumatrana), cò lạo xám (Mycteria cinerea), trăn cộc (Python curtus) và rùa cổ bự (Siebenrockiella crassicollis). Sự chuyển tiếp tương tự diễn ra theo độ cao địa hình tại Việt Nam. Các loài chiếm ưu thế thay đổi từ các loài nhiệt đới đến cận nhiệt đới tại độ cao khoảng 1000m, mặc dù sự chuyển tiếp xảy ra ở độ cao thấp hơn tại miền Bắc. Sự thay đổi về thành phần loài có thể thấy rõ nhất ở ếch, thú nhỏ, và các quần thể thực vật. Ranh giới này không phải lúc nào cũng rõ ràng và chính xác. Thực tế là, tính đặc trưng của các khu vực địa sinh học khác nhau thay đổi theo các điều kiện tại địa phương tạo ra khu hệ động thực vật phức tạp và đặc hữu. 35/260
  38. Tuy nhiên, bên trong kiểu phân phân bố chung này, một số thay đổi theo hướng từ Bắc vào Nam diễn ra trong một pham vi rất nhỏ và không thể giải thích chỉ bằng sự thay đổi theo vĩ độ. Ví dụ ở miền Trung Việt Nam hai nhóm linh trưởng không có quan hệ họ hàng lại có sự thay thế về thành phần loài giống nhau: Vượn đen má trắng và vượn đen má vàng (họ Hylobatidae) và chà vá (họ Cercopithecidae). Mỗi nhóm này bao gồm có 3 taxon và tất cả đều đặc hữu ở vùng trung tâm của Đông Dương. Những taxon này lần lượt phân bố từ Bắc đến Nam dọc theo dãy Trường Sơn (hình 9). Trong mỗi nhóm, các đại diện ở miền Bắc và ở miền Trung có quan hệ họ hàng gần gũi hơn là giữa chúng với các đại diện phân bố ở phía Nam. Sự thay đổi từ khu hệ cận nhiệt đới sang nhiệt đới không thể dùng để giải thích sự phân bố của chúng. Do đó các nhà khoa học đã tìm các cách giải thích khác. Kiểu phân bố tương tự cũng đã quan sát được ở những nhóm khác. Một nghiên cứu về GEN thực hiện vào năm 2004 đã phát hiện ra hiện tượng phân bố này ở phức hợp loài của rùa hộp trán vàng (Cuora galbinifrons, C. bourreti, và C. picturata), một nhóm có phân bố từ Nam Trung Quốc đến Lào và miền Bắc và miền Trung Việt Nam. Không phải tất cả các loài ở Việt Nam đều có phạm vi phân bố đan xen hoặc nằm gần với các loài có họ hàng gần gũi. Ở một số loài, phạm vi phân bố của chúng và các loài có họ hàng gần gũi lại cách xa nhau. Kiểu phân bố này được gọi là phân cách. Đây là đúng là trường hợp của bách tán vàng Việt Nam (Xanthocyparis vietnamensis) và bách tán Nooka (Chamaecyparis nootkatensis) có phân bố ở phía Tây của Bắc Mỹ. Hai loài có họ hàng gần gũi này bị tách rời bởi chiều rộng của biển Thái Bình Dương. Những vùng có điều kiện môi trường không thích hợp đã ngăn cách các quần thể của cùng một loài. Trĩ sao (Rheinardia ocellata), một loài gà lôi rất đẹp có phân bố giới hạn trong rừng thường xanh lá rộng, sống ở hai vùng núi riêng biệt, dãy Trường Sơn và bán đảo Mã Lai, bị ngăn cách bởi vùng đồng bằng rộng lớn. Những yếu tố lịch sử chỉ xảy ra một lần và thường là phức tạp quyết định sự tiến hoá và phân bố của từng loài. Những điều kiện về địa hình và thời tiết hiện tại cũng như các sự kiện diễn ra trong quá khứ, như sự chuyển động của các lục địa trong thời kỳ địa chất (trôi giạt lục địa), thay đổi thời tiết và sự lên xuống của mực nước biển, là những yếu tố chủ yếu quyết định các kiểu phân bố hiện có. Những mô tả về tự nhiên và khí hậu của Việt Nam trong chương 1 là các điều kiện hiện tại - Việt Nam không phải lúc nào cũng có hình dạng như hiện nay và nó cũng không phải lúc nào cũng có các kiểu khí hậu hiện nay. Các dãy núi được hình thành khi nào? Việt Nam có khí hậu gió mùa từ khi nào? Những yếu tố về tự nhiên và khí hậu này đã ảnh hưởng đến đa dạng sinh học của Việt Nam như thế nào? Lịch sử địa chất của Đông Nam Á Về mặt địa chất, Đông Nam Á được ghép lại từ các mảnh lục địa có kích thước khác nhau tại điểm hội tụ của 3 mảng lục địa: mảng Âu-Á, mảng Ấn Độ-Mã Lai và mảng Philipin (hình 10). Lớp phía ngoài của trái đất (vỏ trái đất) được hình thành bởi các mảng 36/260