Tài liệu Mấy nét tổng hợp về thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ

docx 42 trang hapham 1650
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu Mấy nét tổng hợp về thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docxtai_lieu_may_net_tong_hop_ve_thien_tai_quan_su_cua_nguyen_hu.docx

Nội dung text: Tài liệu Mấy nét tổng hợp về thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ

  1. TÂY SƠN NGUYỄN HUỆ MẤY NÉT TỔNG HỢP VỀ THIÊN TÀI QUÂN SỰ CỦA NGUYỄN HUỆ
  2. TÂY SƠN NGUYỄN HUỆ MẤY NÉT TỔNG HỢP VỀ THIÊN TÀI QUÂN SỰ CỦA NGUYỄN HUỆ A.XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI 1.Đào luyện binh sĩ. Con người và kĩ thuật là những nhân tố chủ yếu quyết định sự phát triển các phương pháp tiến hành chiến tranh và chiến đấu trong đó con người là nhân tố quyết định nhất. Người nông dân và những người yêu nước thuộc các tầng lớp khác, một khi tham gia hàng ngũ nghĩa quân, với lòng căm thù chế độ chuyên chế hà khắc của vua quan, căm thù chế độ áp bức bóc lột của địa chủ phong kiến, với lòng yêu nước chống xâm lược đều mang một phẩm chất mới vào trong quân đội Tây Sơn, điều mà các quân đội phong kiến phản động đương thời, kể cả trong nước và ngoài nước, không thể có được. Chính vì vậy mà họ đoàn kết với nhân dân, được quảng đại quần chúng ủng hộ. Đó cũng là nguồn gốc của tinh thần chiến đấu cao của binh sĩ quân đội Tây Sơn. Những người phương Tây đương thời có mặt ở Việt Nam đã hết sức ca ngợi người lính Tây Sơn, gọi người lính Tây Sơn là “những người tiên khu của chủ nghĩa xã hội cận đại”, vì họ đã thấy tận mắt quân đội Tây Sơn lấy của cải của bọn quan lại và phú hào để phân phát cho dân nghèo và thấy “những làng mạc đau khổ dưới gánh nặng thuế má hà khắc đã nhiệt liệt tuyên thệ hưởng ứng khởi nghĩa”. Cho nên bất kì ở đâu, quân đội Tây Sơn dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Huệ cũng được nhân dân hoan nghênh, ủng hộ. Trong những ngày đầu gian khổ của cuộc khởi nghĩa, đứng trước những kẻ thù lớn mạnh, chỉ có mục đích chiến đấu được xác định và tinh thần quật khởi của tướng lĩnh và binh sĩ mới có thể khiến họ chiến thắng được mọi kẻ địch. Mục đích chính nghĩa của chiến tranh nông dân và chiến tranh giải phóng dân tộc đã động viên binh sĩ, tướng lĩnh và nhân dân phát huy tinh thần chiến đấu và tính sáng tạo, tinh thần chịu đựng gian khổ sẵn sàng hy sinh quên mình. Chúng ta biết rằng các cuộc nội chiến giữa giai cấp bị áp bức bóc lột và giai cấp áp bức bóc lột, đều nổi bật tính chất khốc liệt và kiên quyết và không nhân nhượng trong hành động của hai bên giao chiến. Lê-nin đã nói: “Nội chiến nghiêm trọng và khốc liệt hơn bất cứ một cuộc chiến tranh nào. Từ những cuộc nội chiến của La Mã cổ đại, trong lịch sử các cuộc nội chiến đều như vậy, vì các cuộc chiến tranh thế giới bao giờ cũng kết thúc bằng những cuộc giao ước giữa các giai cấp giàu có và chỉ trong nội chiến giai cấp bị áp bức mới hướng mọi nỗ lực để tiêu diệt giai cấp đi áp bức đến cùng, tiêu diệt những điều kiện kinh tế đang tồn tại của giai cấp đó” [1]. Đây cũng là điều khác nhau căn bản giữa cuộc nội chiến vì tiến bộ mà quân đội Tây Sơn tiến hành với cuộc nội chiến phản tiến bộ kéo dài trong hai thế kỷ giữa quân Trịnh và quân Nguyễn. Cũng là điều khác nhau căn bản giữa binh sĩ Tây Sơn và binh sĩ Trịnh, Nguyễn. Nó cũng là nguyên nhân vì sao ngày thường thì quân lính Trịnh, Nguyễn
  3. kiêu ngạo, hung ác, thẳng tay đàn áp nhân dân nhưng khi giao chiến thì không có gì là dũng cảm, hy sinh, khi được điều động đi đánh quân Tây Sơn hoặc khi bị quân Tây Sơn tiến công, thì từ tướng đến quân đều đùn nhau ra trận, chưa giao chiến tướng đã trốn, quân đã chạy, khi bắt buộc phải giao chiến, thì rất “khôn ngoan” bằng cách “đánh vào lúc mặt trời lặn để khi có việc gì thì nhờ đêm tối mà rút lui”[2]. Còn quân Xiêm đứng trước quân Tây Sơn, đã luồn rừng vượt núi chạy cho mau, “sợ quân Tây Sơn như sợ cọp”. Ngay quân Thanh kiêu ngạo đến cao độ chỉ chờ cho “quân gầy đến nộp mình” thì trước sức tấn công mãnh liệt của quân Tây Sơn, đã phải rút chạy tan tành về đến Trung Quốc vẫn chưa hoàn hồn. Tinh thần chiến đấu cao, chiến đấu vì lý tưởng chống áp bức giai cấp, chống nô dịch dân tộc, đó là đặc điểm thứ nhất của người lính trong quân đội của Nguyễn Huệ. Nguyễn Huệ lấy nguyên tắc “quân lính cốt hòa thuận, không cốt đông” [3] để xây dựng quân đội và giáo dục tướng lĩnh và binh sĩ. Đoàn kết là sức mạnh. Không phải là các vua chúa, các tướng lĩnh của các quân đội phong kiến không nói đến sức mạnh của đoàn kết trong quân đội, nhất là khi có chiến tranh. Nhưng, trong thực tế, một mặt vì không tin quảng đại binh sĩ, một mặt cần duy trì chính sách chia để trị, cho nên trong các quân đội phong kiến thời đó và các thời trước đó, đều có tổ chức những loại quân đội đặc biệt làm nòng cốt, có quyền hành đặc biệt, được ưu đãi hơn các quân khác. Các đội cấm quân, quân ngự tiền, ưu binh, cấm vệ đều thuộc loại quân đặc biệt này. Ưu binh nhà Trịnh chỉ tuyển trong các trấn Thanh Hóa, Nghệ An. Thân binh nhà Nguyễn chỉ chọn trong huyện Tống Sơn. Dùng dịa vị, vật chất để mua chuộc, bọn phong kiến mưu toan xây dựng một nòng cốt vũ trang trung thành với họ. Chính đó lại là nguyên nhân khiến cho nội bộ quân đội không thể đoàn kết, thường xảy ra xung đột. Cho nên không thể có đoàn kết thực sự trong các quân đội phong kiến, cũng như trong các quân đội phản động. Khác với quân đội Trịnh, Nguyễn, trong quân đội Nguyễn Huệ không có tổ chức loại quân đặc biệt này. Trái lại trong quân đội của Nguyễn Huệ, mỗi khi có tuyển mộ lính mới, thì những người lính mới ấy được đặt ngay dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Nguyễn Huệ, được phiên chế trong những đạo trung quân sống ngay bên mình người anh hùng lỗi lạc ấy. Việc tuyển mộ lính mới và cách thức phiên chế lính mới ở Nghệ An trong khi Nguyễn Huệ tiến ra Bắc đánh quân Thanh đầu năm 1789 đã chứng minh rất rõ điều đó. Thái độ đối xử và cách thức phiên chế lính mới của Nguyễn Huệ như thế đã làm nức lòng họ, làm tăng cường tinh thần chiến đấu của họ và dưới sự chỉ huy trực tiếp của Nguyễn Huệ, kĩ thuật chiến đấu của những người lính mới ấy càng được bảo đảm. Thái độ đối xử và cách thức phiên chế ấy làm cho người lính mới cũng như người lính cũ không có gì khác biệt nhau lắm, về đãi ngộ cũng như về chuyên môn. Do đấy, họ đoàn kết, hòa hợp được với nhau dễ dàng. Đoàn kết hòa thuận, là đặc điểm thứ hai của quân đội Nguyễn Huệ. Quân đội của Nguyễn Huệ có kỷ luật nghiêm minh. Nhiều bằng chức do các giáo sĩ phương Tây,
  4. do các thương nhân ngoại quốc để lại, đã nêu bật sự hà hiếp, áp bức, cướp bóc của các quân đội Trịnh, Nguyễn đối với nhân dân, nêu bật tình trạng kém kỷ luật trong chiến đấu của các binh sĩ trong các quân đội này. Đồng thời nêu bật tinh thần kỷ luật của binh sĩ Tây Sơn, trong chiến đấu và đối với nhân dân. Quân đội Tây Sơn tiến đến đâu, giải phóng đến đâu thì trật tự an ninh được lập lại ở đấy. Một hành động có thể được xem là gương mẫu cho tinh thần kỷ luật của quân đội Tây Sơn là việc Nguyễn Huệ trả lại các tặng phẩm cho nhân dân chỉ lấy một ít bánh chưng làm tượng trưng cho lòng tốt của nhân dân mà thôi. Bằng hành động dũng cảm trong chiến đấu, luôn luôn tiến lên trước trong những trường hợp nguy hiểm, gay go nhất, bằng hành động giữ kỷ luật, nhất là lúc đang chiến thắng mạnh mẽ Nguyễn Huệ đã nêu tấm gương sáng để giáo dục tinh thần dũng cảm và tinh thần kỷ luật cho quân đội. Có tinh thần kỷ luật cao, đó là đặc điểm thứ ba của quân đội Nguyễn Huệ. Những đặc điểm trên nêu lên cái khác nhau căn bản về nhân tố tinh thần về binh sĩ Tây Sơn và binh sĩ các quân đội phong kiến đương thời. Phẩm chất quý báu đó của tướng lĩnh và binh sĩ Tây Sơn được phong trào khởi nghĩa và Nguyễn Huệ bồi dưỡng, phát huy, khiến họ có thể hoàn thành bất kỳ nhiệm vụ nào, với tinh thần dũng cảm phi thường, tinh thần chịu đựng gian khổ cao độ, tinh thần kỷ luật trong mọi trường hợp. Song quân đội Nguyễn Huệ không chỉ có tinh thần chiến đấu. Họ còn được huấn luyện chu đáo, nắm vững được vũ khí có trong tay, biết phát huy uy lực của vũ khí. Nguyên tắc xây dựng và huấn luyện quân sự của Nguyễn Huệ là: “Quân lính cốt tinh nhuệ không cốt nhiều” [4]. Cũng như các tướng lĩnh thời đó, Nguyễn Huệ đã tiếp thu tư tưởng của Tôn Tử và nhất là các nhà quân sự Việt Nam như Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi .song, tính sáng tạo của Nguyễn Huệ là ở chỗ biết vận dụng nguyên tắc xây dựng, huấn luyện quân đội trong những điều kiện mới. Nội dung của “tinh nhuệ” đã phong phú hơn xưa. Vũ khí của thời Nguyễn Huệ đã khác so với thời đại Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn và Lê Lợi. Người lính bộ binh không những có giáo, kiếm mà đã có súng trường. Tác chiến không phải chỉ là đánh giáp lá cà, mà đã bao gồm các giai đoạn dùng hỏa lực từ xa và xung phong giáp chiến. Sự hiệp đồng giữa nhiều binh chủng trở nên phức tạp. Nhiều hình thức chiến đấu mới xuất hiện. Chiến trường cũng trở nên phức tạp, có nhiều loại địa hình khác nhau. Tác chiến xảy ra lúc thì ở địa hình hẹp ít đồng bằng nhiều rừng núi như Thuận- Quảng, lúc thì ở khu vực đồng bằng rộng rãi có nhiều sông ngòi, kênh đào, đất xốp như ở Gia Định, hoặc ở khu vực có nhiều đồng bằng rộng rãi như ở ruộng nước xen kẽ đồng bằng khô như ở Bắc Hà. Tất cả những điều đó đòi hỏi muốn giành được thắng lợi, binh sĩ phải được huấn luyện chu đáo, công phu từ ngày bắt đầu khởi nghĩa đến khi đánh tan cuộc xâm lược của nhà Thanh, trải gần 20 năm, quân đội của Nguyễn Huệ lúc nào cũng ở trong điều kiện tác chiến liên tục. Nhân dân ta vốn có truyền thống thượng võ, quần chúng thanh niên
  5. ta ở các thời đại trước lại có tập quán thường xuyên luyện tập võ nghệ, cho nên một khi ra tòng quân là họ có khả năng chiến đấu, khả năng xuất trận được ngay. Với truyền thống ấy và khả năng ấy, người lính trong quân đội Nguyễn Huệ lại được giác ngộ tinh thần chiến đấu vì dân tộc vì giai cấp, được tôi luyện không ngừng trong điều kiện chiến đấu liên tục, nên họ có khả năng chiến đấu cao đánh đâu thắng đấy. Chỉ cần nêu lên những trận tiến công Gia Định, Ba Vát, Đồng Tuyên, trận đổ bộ Phú Xuân, trận đánh thủy quân Trịnh ở cửa Luộc, các trận tiêu diệt quân Trịnh ở Thúy Ái, Vạn Xuân, Thăng Long và nhất là các trận Ngọc Hồi, Khương Thượng, khi đánh quân Thanh cũng đủ để chứng minh rằng trình độ chiến thuật, kỹ thuật của tướng lĩnh và binh sĩ của Nguyễn Huệ rất cao, đánh giặc co mưu mẹo, biết cơ trí, linh hoạt, động tác chiến đấu rất mãnh liệt. Khác với binh sĩ của các quân đội thời đó, quân đội của Nguyễn Huệ rất cơ động, linh hoạt trong tác chiến. Thọc rất sâu đánh rất bất ngờ, cơ động rất táo bạo, xung phong mạnh, khuếch trương chiến quả mạnh, truy kích mạnh, đó là đặc điểm vè kỷ năng chiến đấu của quân đội Nguyễn Huệ. Nguyễn Huệ trong khi giáo dục lòng quả cảm và kỹ thuật chiến đấu cho tướng lĩnh, binh sĩ Tây Sơn, ông không quên nói đến mưu trí. Trong thư gửi Thang Hùng Nghiệp, Nguyễn Huệ cũng nói: “người khéo thắng là thắng ở chỗ rất mềm dẻo, chứ không phải lấy mạnh đè yếu, lấy nhiều hiếp ít”[5]. Mềm dẻo nói ở đây tức là cơ trí, linh hoạt. Đánh thắng không phải chỉ vì số lượng, mà vì mưu trí. Ở đây Nguyễn Huệ đã “gặp” một trong những người nổi tiếng ở nước Nga ở thời đại đó, là Ru-mi-an-xép, người đã giáo dục cho tướng lĩnh và binh sĩ Nga theo tinh thần: “Phải cố gắng đánh địch nhiều bằng mưu trí hơn là thực lực và dùng biện pháp tiến công để bù vào sự thiếu sót của lực lượng”[6]. Có trình độ chiến thuật và kỹ thuật cao đó là đặc điểm thứ tư của quân đội Nguyễn Huệ. Cho nên quân đội Nguyễn Huệ vừa có tinh thần chiến đấu cao, có kỷ luật chặt chẽ lại vừa có tài nghệ. Điều đó khiến họ trở nên gan dạ, dũng cảm, một người địch nổi mười người, đánh đâu được đấy như chúng ta đã biết. Chúng ta biết rằng nhân tố tinh thần tác động rất mạnh đến tính chất các kế hoạch chiến lược và kế hoạch chiến dịch. Khi làm kế hoạch chiến lược, song song với việc tính toán các nhân tố khác, phải tính toán đến tình trạng tinh thần của nhân dân và quân đội của cả hai bên. Điều đó, tất nhiên bọn vua chúa, tướng lĩnh phong kiến, bọn Tôn Sĩ Nghị, Hứa Thế Hanh, bọn chiêu Tăng, chiêu Sương . Không thể tính toán chính xác được. Kế hoạch chiến lược của họ biểu hiện sự mất cân đối giữa mục đích chiến lược quá cao và khả năng chiến lược quá thấp, vì họ đánh giá quá cao lực lượng bản thân, đánh giá quá thấp lực lượng của đối phương. Còn Nguyễn Huệ vốn xuất thân từ nhân dân lao động, có một tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, lý tưởng, ý trí chiến đấu như quảng đại quần chúng lao động nên đã “tính toán” được những khả năng vô tận của nhân tố tinh thần, đã biến được sức mạnh tinh thần thành sức mạnh vật chất.
  6. Chiến thuật trực tiếp gắn liền với sự hoạt động của đông đảo quần chúng binh sĩ và chỉ huy. Vì vậy chiến thuật là nơi phản ánh rõ ràng chất lượng tinh thần và khả năng chiến đấu của quân đội. Với cùng một loại vũ khí, làm sao quân đội Nguyễn Huệ có thể giải quyết thành công vấn dề chọc thủng các thành lũy kiên cố, điều mà quân Trịnh, quân Nguyễn tỏ ra bất lực? Cùng có những phương tiện đảm bảo vận động tương tự, cùng hành động trên một địa hình, vì sao quân đội Nguyễn Huệ lại tỏ ra có tính cơ động rất cao, cao hơn đối với bất cứ quân đội nào hồi đó? Vì sao Nguyễn Huệ có thể vượt hẳn từng khu vực đất đai rộng lớn, đưa quân đội nhảy sâu vào trong lòng địch, sâu vào trong lưng địch? Vì sao Nguyễn Huệ có thể đề ra những yêu cầu rất cao đối với quân đội, đề ra những nhiệm vụ rất nặng đối với binh sĩ và chỉ huy thuộc quyền? Không có tinh thần chiến đấu cao và trình độ chiến thuật, kỹ thuật cao của toàn quân thì không thể làm nỗi những việc đó. Tính cơ động cao, khả năng giải quyết những nhiệm vụ nặng nề phức tạp của quân đội Nguyễn Huệ bắt nguồn từ tinh thần dũng cảm và thành thạo về kỹ năng chiến đấu của quân đội. Công lao của Nguyễn Huệ là đã biết sử dụng nhân tố tinh thần đó làm cơ sở cho những phương pháp chiến đấu mới, những hình thức đấu tranh mới. Do đó những kế hoạch chiến lược, chiến dịch, những nhiệm vụ chiến thuật mà Nguyễn Huệ đã đề ra là phù hợp với khả năng chiến lược, chiến dịch và chiến thuật. Quân đội Tây Sơn dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Huệ là một quân đội bách chiến bách thắng. Ở nước ta thời bấy giờ, nơi nào và lúc nào có quân đội đó, có Nguyễn Huệ, thì có thắng lợi. Những điều trên nói lên vai trò quyết định của con người binh sĩ của Nguyễn Huệ trong việc phát triển nghệ thuật giữa quân sự của nước ta trong thời đại đó. 2.Sử dụng vũ khí. Ở nước ta trong việc trang bị vũ khí và phương tiện kỹ thuật cho các quân đội phong kiến ở thế kỷ XVII và XVIII, đã có nhiều thay đổi quan trọng so với các thế kỷ trước. Những thay đổi này biểu hiện chủ yếu theo các mặt sau đây: Trong bộ binh, bên cạnh các thứ vũ khí bạch binh như gươm, trùy, giáo, nỏ, cung, các loại máy ném đá Đã xuất hiện các loại vũ khí thuốc cháy như các loại súng trường. Các phương tiện hỏa công trên biển và hỏa hổ trên đất, dùng các loại nhựa để đốt cháy, đã dần dần được thay thế bằng các loại súng đại bác với số lượng nhiều hơn (ở thế kỷ XV, XVI đã có đại bác, song tác dụng của nó còn kém, trọng lượng nặng, số lượng ít, căn bản chưa hoàn thành một binh chủng độc lập). Trong thủy quân có hai biến đổi quan trọng: bên cạnh những thuyền chèo đã có những thuyền buồm với trọng tải ngày càng lớn và trên các thuyền chiến có đặt nhiều đại bác. Ở thời đại đó nước ta chưa có các loại khí tài kỹ thuật có máy móc, động cơ, nhưng so với trước, các loại vũ khí kiểu mới đó đã là một trong những nhân tố tác động quyết định sự thay đổi phương pháp và hình thức chiến đấu, ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển nghệ thuật quân sự lên một bước mới cao hơn. Song so
  7. với các quân đội cùng thời ở châu Âu thì vũ khí mới đó của ta còn có những nhược điểm như: súng trường là loại súng nòng trơn, tầm bắn xa chừng 100m, lại là loại súng hỏa mai, chưa có lưỡi lê. Do đó nó có thể sát thương địch ở tầm xa, nhưng bắn không chuẩn xác lắm và bên cạnh người lính cầm súng vẫn còn có người lĩnh cầm bạch binh đi kèm để xung phong. Tách rời người lính cầm bạch binh, tác dụng của người lính cầm súng giảm đi và ngược lại. Do đó chiến đấu vẫn là đánh gần, kết hợp cả hai yếu tố hỏa lực và xung lực để sát thương địch. Vì tốc độ bắn chậm, súng trường chưa được trang bị cho kỵ binh. Kỵ binh vẫn dùng bạch binh để phóng, chém. Đại bác có những nhược điểm như nạp đạn từ đầu nòng, nặng nề, cồng kềnh, thường chỉ đặt cố định trong thành lũy. Việc sử dụng đại bác trong chiến thuật còn nằm trong phạm vi phòng ngự, chưa thành một vũ khí lợi hại của tiến công, trừ khi tiến công có tính chất trận địa đánh thành và các đồn lũy phòng thủ. Trong thủy quân thuyền buồm của ta không khác thuyền buồm của phần lớn các nước châu Âu, trừ thủy quân của Anh- Pháp lúc đó đã có thuyền chiến chạy bằng máy. Các loại khí tài khác chưa có thay đổi nào đáng kể. Vận động chủ yếu vẫn phản dựa vào hai chân của người lính bộ binh. Voi được dùng làm sức mạnh dùng để đột kích. Về trang bị trong những năm đầu vũ khí chủ yếu của nghĩa quân Tây Sơn là gậy gộc, giáo mác, súng ống, đạn dược có rất ít. Tới những chiến dịch đánh Gia Định, theo báo cáo của Bá Đa Lộc tại triều đình Pháp[7] thì nghĩa quân Tây Sơn khi ấy, năm người mới có một người có súng và thủy quân Tây Sơn đã có đại bác đặt trên thuyền chiến, còn lục quân chưa có đại bác. Những năm từ 1786 trở đi, với những chiến dịch đánh ra Bắc của Nguyễn Huệ, quân đội Tây Sơn đã có hỏa lực rất mạnh, có nhiều súng, nhiều đại bác và một loại hỏa lực đặc biệt gọi là “hỏa hổ”. Như vậy, về mặt trang bị vũ khí và phương tiện kỹ thuật, quân đội Tây Sơn về căn bản không khác gì quân đội Trịnh, Nguyễn, Xiêm, Thanh thời đó. Vậy thì vũ khí và binh khí kỹ thuật đã đóng vai trò và gây tác dụng như thế nào trong việc phát triển nghệ thuật quân sự của quân đội Nguyễn Huệ? Trước hết chúng ta nhận thấy rằng, ngay trong điều kiện trang bị còn kém xa so với các quân đội phong kiến, quân đội Tây Sơn vẫn chiến thắng oanh liệt. Tinh thần chiến đấu cao của nghĩa quân đã biến thành sức mạnh vật chất áp đảo các quân đội phong kiến có vũ khí nhiều hơn, tốt hơn nhưng tinh thần chiến đấu kém. Thắng lợi càng nhiều, càng lớn, trang bị vũ khí càng được tăng cường, cải tiến, sử dụng vũ khí càng thành thạo, thục luyện, thì tất cả những cái đó sẽ tác động trở lại tinh thần chiến đấu của nghĩa quân, khiến sức chiến đấu của nghĩa quân càng được nâng cao, nghệ thuật quân sự càng phát triển nhanh chóng và vững chắc. Điều đó nói lên rằng, bên cạnh tác dụng quyết định của tinh thần chiến đấu, vũ khí đã đóng một vai trò quan trọng. Nó biểu hiện trên các mặt: tăng cường vũ khí về số lượng, cải tiến vũ khí về chất lượng, tăng thêm tính năng chiến thuật và sử dụng một cách đúng đắn.
  8. Trong quân đội Tây Sơn, dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Huệ, tỷ lệ trang bị súng trường đã ngày càng cao. Việc tăng cường số lượng súng trường đã thực tế tăng sức mạnh của bộ binh, vì rằng súng trường là “hỏa lực” của người lính bộ binh. Từ các trận đánh ở Gia Định và trên miền Bắc, số lượng bạch binh tuy còn khá lớn, nhưng súng trường đã chiếm một tỷ lệ quan trọng. Chiến đấu làm sự tiến triển từ xa đến gần, là sự phát huy tương đối nhịp nhàng tác dụng của bạch binh và súng trường. Từ đó dẫn đến một sự thay đổi quan trọng trong chiến thuật: từ chiến đấu của bộ binh chủ yếu dựa vào xung lực để đột kích, đã chuyển hóa thành đột kích bằng xung lực- hỏa lực. Tuy rằng về mặt chất lượng, súng trường chưa có những cải tiến đáng kể, nhưng chiến thuật đã phát triển lên một bước mới. Cho nên sức chiến đấu của bộ binh Tây Sơn tăng lên rất nhiều: trong điều kiện quân số ít hơn, nhưng có ưu thế tinh thần và ưu thế hỏa lực, bộ binh Tây Sơn vẫn mạnh ngang hoặc mạnh hơn bộ binh của Trịnh, Nguyễn. Cũng từ đó mà có quan điểm: “Quân lính cốt tinh nhuệ, không cốt nhiều” của Nguyễn Huệ. Từ thế kỷ thứ XVII, pháo binh đã giữ một vai trò quan trọng trong phòng ngự thành lũy và trong thủy chiến. Quân đội Tây Sơn là một quân đội tiến công, cho nên vấn đề đặt ra là làm sao phát huy được uy lực sẵn có của pháo binh, biến các khẩu đại bác thành phương tiện vừa dùng để phòng ngự, vừa dùng để tiến công, vừa đặt cố định ở thành lũy, vừa di chuyển được khi chiến đấu dã ngoại. Quân đội Tây Sơn lại là một quân đội có tính cơ động cao, việc di chuyển pháo theo bộ binh là một vấn đề khó giải quyết. Để khắc phục khó khăn đó, quân đội Nguyễn Huệ phát triển việc dùng voi để di chuyển đại bác. Do đó pháo binh dã chiến phát triển, mặc dù trình độ kỹ thuật còn hạn chế, chưa dùng được trên nhiều loại địa hình. Từ một phương tiện chuyên dùng để phòng ngự trong tay quân đội Trịnh, Nguyễn có tác dụng làm cho đối phương hoảng sợ vì tiếng nổ nhiều hơn là tác dụng phá hoại, sát thương, pháo trong tay quân đội Nguyễn Huệ trở thành một phương tiện có tác dụng phá hoại, sát thương thực sự, cộng với những tác dụng tâm lý và che mắt, làm ngạt thở (đạn nổ có nhiều khói). Pháo binh bắt đầu trở nên đắc lực tăng thành phần hỏa lực trong chiến đấu lên rất nhiều. Pháo binh dã chiến xuất hiện đã thực sự tăng thêm thành phần chiến thuật (hỏa lực) cho lục quân. Khi tác chiến, pháo binh chuẩn bị và yểm hộ cho bộ binh, tượng binh xung phong vào trận địa. Quân đội Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy được trang bị đại bác với số lượng khá lớn so với các quân đội đương thời và có đủ các loại đại bác nhẹ, nặng. Đó cũng là một ưu thế của quân đội Tây Sơn. Chúng ta biết rằng, các chúa Nguyễn, chú Trịnh thường mua súng trường, đại bác của người phương Tây. Chắc chắn rằng những khẩu đại bác đó đã chuyển về tay quân đội Nguyễn Huệ. Những chiến lợi phẩm này và những khẩu đại bác tự sản xuất, đã tăng mức độ lên số lượng khá lớn trong quân đội Tây Sơn. Những con số đại bác mà quân Nguyễn thu được trong những trận phản công thắng lợi (sau
  9. khi Nguyễn Huệ chết) chứng minh sức mạnh của pháo binh Tây Sơn. Như trong trận Khố Sơn năm 1793, với 4000 quân phòng ngự, quân đội Tây Sơn có trên 35 đại bác gang và đồng[8], năm 1801 tại cửa ải La Qua, quân Tây Sơn đã đặt trên 80 đại bác để phòng thủ, trên trận rút lui trên sông Gianh năm 1802, sau khi đột phá lũy Trấn Ninh không thành công, quân Tây Sơn đã để lại một số lượng đại bác rất lớn: 700 khẩu. Cũng cần nói thêm rằng, về mặt tính năng kỹ thuật, chiến thuật và uy lực sát thương phá hoại, đại bác Tây Sơn hoàn toàn không kém đại bác của các nước phương Tây mà quân đội nhà Nguyễn có, là loại đại bác gang, nặng 100kg mỗi khẩu, với đạn có đường kính 10 tấc. Sử sách nhà Nguyễn và các sĩ quan thực dân Pháp giúp Nguyễn Ánh khi mô tả các trận chiến đấu, đã nêu lên sức mạnh đáng sợ của pháo binh Tây Sơn. Trong quân đội Nguyễn Huệ, ngoài sử dụng sức mạnh pháo binh, còn trang bị một cách rộng rãi hỏa hổ, là một loại súng dùng để tung lửa, có thể xem hỏa hổ là một loại pháo hạng nhẹ, tuy tác dụng của nó chỉ là đốt phá, loại phương tiện đặc biệt này được trang bị cho tất cả các binh chủng thuộc lục quân: bộ binh, lục binh, kỵ binh. Đây cũng là một ưu thế của quân đội Tây Sơn. Khi chiến đấu xa sự chi viện của pháo binh, hoặc sự chi viện đó không cần thiết nữa thì bộ binh, kỵ binh, tượng binh dùng hỏa hổ để đốt cháy doanh trại, công sự, sinh lực của địch. Trước những đám lửa nhựa tung ra, bám vào thân thể, cả người lẫn voi, ngựa của địch đều hoảng sợ. Trong tay Nguyễn Huệ, voi trở thành một phương tiện chiến đấu có nhiều tác dụng lợi hại. Các quân đội phong kiến đương thời đều sử dụng voi thành một phương tiện đột kích. Đội tượng binh quân đội Trịnh là một đội tượng binh nổi tiếng. Quân đội Tây Sơn cũng có một đội tượng binh lợi hại dùng để đột kích. Bản thân con voi có sức vận động dẻo dai. Nó dùng vòi và sức mạnh của toàn thân để đánh phá. Để tăng thêm tính năng chiến đấu của voi, Nguyễn Huệ đã cho voi mang đại bác trên mình hoặc kéo theo sau. Do đó voi vừa là phương tiện cơ động, vừa là phương tiện đột kích, vừa là phương tiện của hỏa lực. Đoàn tượng binh của Nguyễn Huệ tự nhiên trở thành một binh chủng hợp thành, có đầy đủ 3 thành phần chiến thuật: cơ động, đột kích, hỏa lực. Đó là một chất lượng mới mà các đội tượng binh của quân đội Nguyễn, Trịnh, Thanh không có, và nó chính là một ưu thế của quân đội Nguyễn Huệ. Đoàn tượng binh Tây Sơn đã là nỗi khiếp sợ cho các quân đội phản động phong kiến đương thời, kể cả trong nước và ngoài nước. Trong thủy quân, công lao của Nguyễn Huệ cũng rất lớn, Nguyễn Huệ có nhiều kinh nghiệm trong các trận thủy chiến với quân Nguyễn, quân xiêm, là hai quân đội có nhiều sở trường về thủy chiến. Thấy rõ tính chất địa hình và địa thế của nước ta, thấy rõ vai trò của thủy quân, Nguyễn Huệ dồn nhiều nỗ lực để xây dựng thủy quân hùng mạnh. Cuối đời, Nguyễn Huệ, thuyền chiến Tây Sơn có những thay đổi quan trọng: sức trọng tải và hỏa lực của thuyền chiến được tăng lên khá cao. Theo Ba-di-đi, một người Pháp đã từng giúp chúa Nguyễn Ánh chống lại
  10. Tây Sơn, thì thủy quân mà Nguyễn Huệ để lại cho Nguyễn Quang Toản là một thủy quân mạnh, gồm đủ các loại hạm thuyền lớn nhỏ. Ba-di-đi kể rằng: trong trận Thi Nại năm 1801, thủy quân có 9 thuyền chiến loại lớn, mỗi thuyền chiến được trang bị 60 đại bác và có 700 lính, 5 thuyền chiến loại vừa, mỗi cái mang 50 đại bác và có 500 lính, 40 thuyền chiến loại nhỏ, mỗi cái mnag 16 đại bác và có 200 lính, cùng 500 thuyền chiến khác, trang bị 1 đại bác loại lớn hoặc loại nhỏ, chở từ 50, 70 đến 150 lính mỗi thuyền. Vẫn theo Ba-di-đi trong trận đó, Nguyễn Ánh có 26 thuyền chiến, mỗi cái mang 1 đại bác và chở 200 lính. Những tài liệu trên có thế cho chúng ta thấy rằng, về các mặt kỹ thuật đóng tàu, trang bị, sức trọng tải, thuyền chiến Tây Sơn mạnh hơn hẳn so với quân đội Nguyễn và quân Trịnh thời đó. Do được trang bị nhiều pháo binh và chở nhiều lính chiến đấu, mỗi thuyền chiến của thủy quân Tây Sơn đã trở thành một đơn vị chiến thuật có khả năng hoàn thành những nhiệm vụ tương đối phức tạp, một lực lượng đột kích đường biển đáng sợ cho các quân đội phong kiến phản động. Se-nhô, một sĩ quan Pháp đã từng tác chiến với thủy quân Tây Sơn cũng đã viết: “Trước khi nhìn thấy thủy quân của địch (chỉ huy quân Tây Sơn- tác giả chú thích), tôi rất khinh thường, nhưng tôi bảo đảm với các anh rằng đó là sai lầm. Họ có những thuyền chiến mang 50, 60 đại bác lớn ”. Với thủy quân đó, Nguyễn Huệ đã từng đánh tan thủy quân Nguyễn, Trịnh, Xiêm trong nhiều trận thủy chiến ác liệt nhưng rất oanh liệt, phát huy cao độ truyền thống Bạch Đằng quang vinh của thời đại trước. Từ những nghiên cứu trên, chúng ta thấy rõ ràng: về chất lượng, vũ khí và phương tiện kỹ thuật của quân đội Tây Sơn chưa có những cải tiến lớn lao, nhưng vì số lượng được tăng cường, vũ khí, thuốc cháy các loại được sử dụng với một tỷ lệ khá lớn và ngày càng tăng, cho nên thành phần và sức mạnh trong quân đội Tây Sơn trở thành mạnh hẳn lên. Pháo binh của lục quân và pháo binh thủy quân trở thành một binh chủng quan trọng. Điều đó không dẫn đến những thay đổi về phương pháp sử dụng pháo binh, và những thay đổi về mặt hình thức, phương pháp tác chiến nói chung. 3.Tổ chức các quân binh chủng. Trong hai phần trên đã nghiên cứu về con người và vũ khí trong quân đội Tây Sơn. Những lực lượng lớn lao đó về người và vật chất cần được tổ chức thật khéo léo, vì nghệ thuật sự ảnh hưởng đến tổ chức quân đội, đồng thời nghệ thuật quân sự trong quá trình phát triển lại phụ thuộc vào các tổ chức của các lực lượng vũ trang. Những yếu tố mới xuất hiện trong người lính (tinh thần chiến đấu, tinh thần kỷ luật, tinh thần đoàn kết, tinh thần chịu đựng gian khổ ) những yếu tố mới xuất hiện trong vũ khí và trang bị kỹ thuật (cải tiến chất lượng, tăng cường số lượng .) đã đặt cơ sở vững chắc cho việc nâng cao chất lượng của quân đội, đặt cơ sở cho việc phát triển một cách khá cân đối các thành phần đột kích, hỏa lực và
  11. cơ động trong quân đội, mở rộng phạm vi tác chiến trên đất liền và trên biển, do đó tạo khả năng rất lớn cho chiến lược, chiến dịch và chiến thuật. Nếu biến được khả năng đó thành hiện thực thì nghệ thuật quân sự sẽ có những phương tiện rất mạnh bảo đảm tiến hành chiến tranh thắng lợi. Vấn đề tổ chức quân đội một cách khoa học nổi lên hàng đầu trong những điều kiện đảm bảo sự chuyển biến đó. Tổ chức ấy là cả một quá trình tiến triển theo quá trình của chiến tranh. Kinh nghiệm của nhiều cuộc chiến đấu, chiến dịch khác nhau, trên những địa hình, chiến trường khác nhau, với những kẻ thù khác nhau đã tạo điều kiện cho Nguyễn Huệ không ngừng cải tiến, hoàn chỉnh tổ chức quân đội Tây Sơn. Cho đến trước khi mở chiến dịch tiêu diệt 20 vạn quân Thanh, về cách tổ chức quân đội Tây Sơn đã có những thay đổi căn bản lớn, đã có tính chất toàn diện. Công lao đầu tiên của Nguyễn Huệ trong lĩnh vực này, là biết phát triển tương đối nhịp nhàng các binh chủng và đưa thủy quân lên hàng quân chủng. Đó là một việc làm có ý nghĩa cách mạng trong việc tổ chức quân đội của nước ta từ thời xa xưa cho đến thế kỷ XVIII. Trong tất cả các quân đội phong kiến thời đó, binh chủng chủ yếu đã thành hình rõ rệt nhất hàng mấy thế kỷ trước là bộ binh. Bộ binh là lực lượng đột kích cơ bản, dùng phương tiện bạch binh kết hợp với sức xung phong của người lính mà đột kích đối phương. Được xếp vào lực lượng đột kích ở nước ta còn có tượng binh, dùng sức mạnh của voi để đè bẹp đối phương, kết hợp với cung, tên, súng phun lửa bắn phóng vào địch. Bộ binh là cơ bản vì có thể sử dụng được trong tiến công và phòng ngự, còn tượng binh thông thường chỉ dùng trong tiến công. Bộ binh được sử dụng trên mọi địa hình, còn tượng binh do sức cơ động bị hạn chế, nên tuy có sức mạnh, vẫn chỉ đóng vai trò bổ trợ cho bộ binh. Đó có thời kỳ, kỵ binh trở thành binh chúng chủ yếu trong quân đội. So với bộ binh, kỵ binh không khác gì về sức đột kích (vẫn là người và bạch binh), nhưng dù có ưu điểm là cơ động nhanh chóng, thích hợp với chiến đấu ở dã ngoại. Song bộ binh, tượng binh, kỵ binh của quân đội thời đó vẫn thiếu hỏa lực. Đứng trước thành lũy kiên cố, bên tiến công chỉ còn dùng bộ binh lấy sức mạnh của số đông, đặt thang trèo thành, rồi dùng bạch binh tiêu diệt. Pháo binh được sử dụng cho việc xung phong của bộ binh, với mức độ rất hạn chế. Bên phòng ngự cũng chỉ có một cách là dùng bộ binh giữ thành, chống lại xung phong trèo thang của đối phương, dùng pháo binh để bắn khi địch tiếp cận. Tuy vậy trong phòng ngự, pháo binh còn phát huy được tác dụng nhiều hơn bên tiến công. Nguyễn Huệ tỏ ra quan tâm đến sự phát triển nhịp nhàng của các binh chủng trong lục quân. Quan tâm đó trước hết tập trung vào việc tăng hỏa lực và xung lực cho bộ binh, khiến bộ binh có sức đột kích mạnh, nhất là khi chiến đấu dã ngoại. Việc trang bị cho các đơn vị bộ binh những khẩu pháo dã chiến, làm cho thành phần hỏa lực của bộ binh tăng lên rất nhiều.
  12. Sự quan tâm đó còn thể hiện ở chỗ tổ chức những đơn vị pháo binh độc lập: binh chủng hỏa lực thành hình, phát huy được tính ưu việt của nó trong phạm vi sử dụng rộng rãi. Cũng như pháo binh, kỵ binh và tượng binh một mặt được biên chế vào trong các đơn vị bộ binh như những thành phần của sức đột kích, một mặt khác được tổ chức thành những đơn vị độc lập. Vì vậy bộ binh của quân đội Tây Sơn thực sự là binh chủng chủ yếu của lục quân. Nó là chủ yếu, không phải về mặt hình thức, về mặt chiếm tỷ lệ lớn nhất trong quân đội như trong các quân đội Trịnh, Nguyễn mà là vì nó có thể hoàn thành mọi nhiệm vụ, trong các hình thức chiến đấu khác nhau. Tính hơn hẳn của bộ binh Tây Sơn so với quân Trịnh, quân Nguyễn là ở chỗ nó có hỏa lực mạnh, có sức cơ động khác và có sức đột kích lớn. Bộ binh quân Thanh không có tượng binh vì thế sức đột kích kém bộ binh Tây Sơn trên một mức độ nhất định. Tổ chức bộ binh của quân đội Tây Sơn dẫn đến một phương pháp mới trong thực hành chiến đấu: tác chiến của bộ binh đã vượt phạm vi đơn thuần bộ binh mà tiến vào phạm vi tác chiến hợp đồng các binh chủng. Ý nghĩa cách mạng trong tổ chức quân đội Tây Sơn thể hiện trước hết ở điều đó. Do nhu cầu của chiến thuật, quân đội phong kiến thời đó thường biên chế theo nguyên tắc ngũ ngũ chế: ở mỗi một cấp thường chia làm trung, tiền, hậu, tả, hữu. Tổ chức đó phản ánh cách bảo vệ thành lũy phong kiến. Quân đội Tây Sơn cũng chưa tách ra ngoài nguyên tắc biên chế đó. Trong quân đội Tây Sơn, hệ thống tổ chức đội, cơ là đơn vị cơ sở, lên đến cơ rồi đến đạo. Quân số của mỗi đội, cơ, đạo không thống nhất, nó thay đổi tùy theo tính chất của binh chủng, tùy theo địa điểm chiến thuật mà các đơn vị đó chiếm đóng. Thông thường mỗi đội có từ 60 đến 100 lính, mỗi cơ từ ba đến năm trăm, mỗi đạo từ một nghìn rưỡi đến hai nghìn rưỡi. So với quân số ở cấp tương đương của quân đội Lê, Trịnh hoặc Nguyễn, không có sự chênh lệch quan trọng. Cao hơn nữa là cấp doanh, mỗi doanh gồm năm đạo, với quân số chừng một vạn đến một vạn rưỡi. Trong các doanh có các đạo bộ binh, pháo binh, kỵ binh và tượng binh. Doanh có thể so sánh như một tổ chức chiến thuật cao cấp, có thể đảm nhận một hướng của chiến dịch. Khi cần thiết hai hoặc ba doanh sẽ được tổ chức lại thành một khối đảm nhiệm một hướng chiến dịch quan trọng. Xem như trên, tổ chức lục quân Tây Sơn đã có sự phân công khá cao và sự hiệp đồng khá chặt, khiến cho sức chiến đấu tăng lên rất nhiều. Sự phát triển tương đối nhịp nhàng của các binh chủng trong lục quân Tây Sơn mà nội dung là sự phát triển khá cân đối các thành phần đột kích, hỏa lực cơ động, sự hình thành các đơn vị binh chủng tổng hợp và binh chủng chuyên môn, sự xác định rõ ràng tính chất chiến thuật, chiến dịch, chiến lược của các đơn vị đã đưa tổ chức lục quân đó đến trình độ cận đại, không kém các quân đội Âu châu thời đó. Nó vượt xa tổ chức của lục quân Trịnh, Nguyễn và vượt quan cả lục quân Thanh.
  13. Đồng thời Nguyễn Huệ còn quan tâm đến việc xây dựng một thủy quân vững mạnh, đưa thủy quân từ một binh chủng có tính chất chiến thuật lên thành một binh chủng có tính chất chiến lược. Ở thời đại đó thủy quân của nhà Trịnh và nhà Nguyễn chưa phát triển đến trình độ của quân chủng. Thủy quân chỉ có thể hoàn thành những nhiệm vụ chiến thuật như chuyên chở bộ binh trên sông hoặc trên biển, trợ lực cho bộ binh bằng hỏa lực của thuyền chiến, hoặc làm một cánh vu hồi chiến thuật. Cho nên về số lượng thuyền chiến, thủy quân Trịnh và Nguyễn lúc đầu có ưu thế so với thủy quân Tây Sơn, nhưng chỉ với số lượng nhiều mà chất lượng kém, cũng không thể trở thành một quân chủng được. Trái lại Nguyễn Huệ đã phát hiện vai trò và khả năng to lớn của thủy quân ở nước ta, một nước ở liền mặt biển và có nhiều hệ thống sông ngòi, những trận chiến đấu có thủy quân tham gia đã nói lên vai trò và khả năng đó. Việc dùng thủy quân để làm các cánh vu hồi chiến dịch sâu vào hậu phương địch, việc dùng thủy quân làm đơn vị tiên phong của một chiến dịch có tính chất chiến lược, việc dùng thủy quân là chủ yếu để thực hành một chiến dịch có tính chất chiến lược, chứng tỏ Nguyễn Huệ đã nhìn thấy thật rõ vai trò và tác dụng của thủy quân. Sau ngày giải phóng Phú Xuân đến khi chết, Nguyễn Huệ đã đưa rất nhiều tâm thức, công phu, ý trí để xây dựng thủy quân thực sự trở thành một quân chủng chiến lược. Trong thủy quân của Nguyễn Huệ, hình thành nhiều binh chủng, đội thuyền chiến tác chiến trên sông, đội thuyền chiến vừa tác chiến trên sông vừa tác chiến trên biển, đội thuyền vận tải và đội thủy binh chuyên dùng để tác chiến trên bộ. Chủ lực của thủy quân là đội thuyền chiến đi biển gồm những tàu lớn, có hỏa lực mạnh, chở theo một cơ hoặc một đội thủy binh tác chiến trên bộ. Mỗi thuyền chiến Tây Sơn, với sức trọng tải lớn, với hỏa lực mạnh, với đội thủy binh tác chiến, đã trở thành một đơn vị chiến thuật, còn các đội thuyền chiến trên biến đã trở thành những đơn vị chiến dịch. Cho nên thủy quân Tây Sơn, cũng như lục quân, là nỗi khiếp sợ cho thủy quân Trịnh, Nguyễn, Xiêm. Nguyễn Huệ đã thành công trong việc xây dựng một lục quân mạnh có nhiều binh chủng phát triển một cách khá nhịp nhàng, và cũng thành công trong việc xây dựng một thủy quân mạnh có nhiều binh chủng. Đưa thủy quân lên địa vị một quân chủng, đưa quân đội từ một quân chủng lên thành hai quân chủng, Nguyễn Huệ là nhà quân sự đầu tiên ở nước ta thời đó, đã thực hiện được bước nhảy dài ấy trong tổ chức quân đội. Tổ chức đảm bảo hậu cần được Nguyễn Huệ đặc biệt chú trọng. Quân đội Tây Sơn rất cơ động, đánh xa căn cứ hành quân dài, tác chiến trên một khu vực rộng lớn, trong những thời gian dài nếu không chú ý tổ chức bộ máy hậu cần hoàn chỉnh thì không thể bảo đảm cho tác chiến cơ động của một quân đội lớn. Ngoại tuyến và trục cung cấp (hệ thống kho tàng đạn dược, lương thực ) nằm trong toàn phạm vi chiến lược. Nguyễn Huệ còn tổ chức một đoàn thuyền vận tải. Theo Ba-di-đi, thì trong trận Thi Nại năm 1801, thủy quân Tây Sơn dã có đến 1600
  14. thuyền buồm vận tải. Nhiệm vụ đánh chiếm các kho tàng lương thực của địch được nâng lên rất cao, bảo đảm việc tiếp tế tại chỗ. Tổ chức đó đã đáp ứng được nhu cầu, đảm bảo cho các cuộc hành binh chiến dịch, chiến lược. Tổ chức của quân đội Tây Sơn dưới quyền chỉ huy của nhà quân sự thiên tài Nguyễn Huệ rất thích hợp với các điều kiện tiến hành chiến tranh chống nhiều kẻ địch khác nhau, có nhiều chỗ mạnh, chỗ yếu khác nhau và đáp ứng mọi yêu cầu của nghệ thuật quân sự cận đại. Nguyễn Huệ không những đã xây dựng nên các quân, binh chủng, không ngừng tăng thêm sức mạnh và hoàn thiện các quân, binh chủng đó, mà điều đặc biệt quan trọng hơn là đã biết phối hợp đúng đắn nhất việc sử dụng những quân, binh chủng đó . B.CHỈ HUY TÁC CHIẾN 1.Nghệ thuật tác chiến. Trong toàn bộ thời gian nội chiến và chống bọn xâm lược nước ngoài, Nguyễn Huệ giữ vai trò quyết định trong quân đội Tây Sơn và trở nên một vĩ nhân quân sự có uy danh vào bậc nhất. Ông là người tổ chức và thực hành một cách hoàn toàn thắng lợi những cuộc chiến đấu gay go, ác liệt và những chiến dịch quy mô lớn, đưa nghệ thuật quân sự nước ta lên một địa vị cao, có uy thế so với nghệ thuật quân sự của nhiều tập đoàn phong kiến trong nước và nước ngoài thời bấy giờ. Thành công trong chỉ đạo chiến lược của Nguyễn Huệ thể hiện ở chỗ ông đã đánh giá đúng đắn lực lượng quân sự hai bên, vận dụng thật linh hoạt các hình thức cơ động chiến lược, luôn luôn gây bất ngờ cho địch bằng cách sử dụng linh hoạt các quân chủng và chọn hướng tiến công chủ yếu khác nhau, tiến công vào các mục tiêu chiến lược khác nhau. Trong trận tiến công giải phóng Gia Định lần thứ nhất, Nguyễn Huệ đã dùng thủy quân tiến công chủ yếu vào Gia Định, nhằm mục tiêu chính là đội quân chủ lực Lý Tài, đồng thời dùng bộ binh tấn công trên hướng Bình Thuận-Trấn Biên. Lần giải phóng thứ hai, Nguyễn Huệ dùng đội thuyền chiến mạnh đánh vào Gia Định, nhằm mục tiêu tiến quân là thủy quân nhà Nguyễn. Trong trận tiến công này, đội dự bị chiến lược thủy quân của Nguyễn Huệ đã đóng vai trò quyết định tiêu diệt chủ lực của thủy quân Nguyễn. Trong thời kì quân Xiêm xâm lược, tính chất của chiến tranh đã thay đổi, sự chỉ đạo chiến lược của Nguyễn Huệ càng thêm sắc bén. Mục đích chiến lược đề ra rất kiên quyết, kế hoạch chiến lược căn cứ trên khả năng thực tế được đánh giá chính xác hơn, biểu lộ một quyết tâm rất lớn của anh hùng Nguyễn Huệ. Khi Nguyễn Ánh rước quân Xiêm về thì bộ mặt bán nước của hắn đã lộ rõ, một bộ phận lực lượng chính trị- xã hội trước đây vẫn ủng hộ hắn, bây giờ dần dần chuyển sang vị trí mới, ủng hộ nghĩa quân Tây Sơn. Nguyễn Huệ đã tranh thủ được sự ủng
  15. hộ ấy, nên sự so sánh lực lượng nghiêng hẳn về phía nghĩa quân. Đó là nguyên nhân chủ yếu tạo nên sự thắng lợi mau chóng, triệt để hơn cho nghĩa quân Tây Sơn. Và đó cũng là sự chuyển đổi tài tình, đúng đắn của Nguyễn Huệ. Đối thủ của nghĩa quân Tây Sơn sử dụng thủy quân là lực lượng tiến công chủ yếu, tập trung tiêu diệt nhanh chóng các bộ phận nhỏ, phân tán của quân đội Tây Sơn, đánh đến đâu, củng cố đến đó, sau cùng, tiến tới tổng công kích Gia Định. Để đối phó lại trong chỉ đạo chiến lược, Nguyễn Huệ càng trở nên linh hoạt, tài tình hơn và đã đập tan mọi âm mưu xâm lược của kẻ thù. Thành công đó, trước hết là do Nguyễn Huệ đã kết hợp chặt chẽ giữa chiến lược kìm chân tích cực và chuyển sang chiến lược phản công mãnh liệt, mà mấu chốt là nắm đúng thời cơ để chuyển sang phản công. Tác chiến kìm chân lần này của quân đội Tây Sơn ở miền Gia Định tích cực ở chỗ biết tập trung lực lượng để đánh trả. Tuy lực lượng có hạn, nhưng cuộc đánh trả của Trương Văn Đa cũng có tác dụng tiêu hao địch, buộc địch không thể tiến nhanh, khiến chủ lực của Qui Nhơn có thể tiến vào chiến đấu trong những điều kiện có lợi trên một mức độ nhất định. Cũng trong trận quyết chiến chiến lược này, sự kết hợp giữa đánh chặn của bộ binh và tiến công của thủy quân đã có sự nhất trí, khiến cho có thể tập trung toàn bộ thủy quân để chiến đấu. Thủy quân Tây Sơn tuy về số lượng kém thủy quân Xiêm, nhưng nhờ sử dụng một cách tài tình nên đã chiến thắng thật gọn gàng. Chiến thắng oanh liệt quân xâm lược Xiêm đã nâng rất cao uy tín của quân đội Tây Sơn, đồng thời chũng chứng minh thêm nghệ thuật chỉ huy điêu luyện của anh hùng Nguyễn Huệ. Sang thời kì chuyển hướng chiến lược lên phía Bắc, quân đội Tây Sơn có trước mặt họ một đội quân lớn mạnh về số lượng, một đội quân có một lịch sử chiến đấu và xây dựng lâu dài, lại tập trung bố trí trên một hình thái chiến lược có lợi hơn quân Nguyễn trước đây, tức là chỉ đối phó trên một mặt. Nhưng quân đội Tây Sơn lúc đó cũng đã lớn mạnh, bao gồm nhiều binh chủng, số lượng được tăng cường, trang bị được cải tiến, và vẫn giữ ưu thế tuyệt đối về mặt tinh thần. Để tác chiến trên các chiến trường Phú Xuân, Bắc Hà, Nguyễn Huệ đã dùng phương pháp tập trung lực lượng, mở các chiến dịch quy mô lớn, có sự hiệp đồng chặt chẽ của nhiều quân chủng, tiến hành trên một không gian lớn và trong một thời gian đã quy định, để giáng những đòn quyết định để tiêu diệt địch, giải phóng đất đai. Đó là một bước phát triển mới trong nghệ thuật chiến lược của Nguyễn Huệ. Kế hoạch chiến lược của Nguyễn Huệ được thực hiện bằng hai chiến dịch tiến công lớn để tiêu diệt quân đội Trịnh. Khi quân Thanh sang xâm lược, thì kế hoạch chiến lược lại được thực hiện bằng một cuộc quyết chiến chiến lược vĩ đại. Nguyễn Huệ rất chú trọng việc chọn thời cơ chiến lược thích đáng và phát huy tác dụng của bất ngờ. Chiến dịch giải phóng Phú Xuân tiến hành vào lúc quân Trịnh chưa chuẩn bị đối phó với quân đội Tây Sơn. Chiến dịch giải phóng Thăng Long diệt nhà Trịnh đã được tiến hành bằng sự tranh thủ thời gian, vượt bỏ mọi khu vực đất đai rộng lớn, đưa chiến tranh đến cửa ngõ và trái tim của chế độ nhà
  16. Trịnh, vượt qua sức tưởng tưởng của vua, chúa, tướng, quân, đối phương. Chiến dịch đại phá quân Thanh bắt đầu bằng một cuộc hành quân thần tốc trên một chặng đường dài, tranh thủ tiến công tiêu diệt địch trước khi địch tiếp tục tiến công, đánh vào lúc và nơi mà địch không ngờ tới, khiến Tôn Sĩ Nghị không kịp trở tay. Các chiến dịch này đều là những chiến dịch có lục quân và thủy quân tham gia, và sự chỉ đạo của Nguyễn Huệ linh hoạt ở chỗ trao nhiệm vụ cho các quân chủng. Nguyễn Huệ rất chú trọng đến tác dụng của thủy quân, nhưng vẫn căn cứ vào đối tượng chiến lược cụ thể của địch và tình hình địa hình mà sử dụng quâm chủng chiến lược một cách phù hợp nhất. Trong các trận giải phóng Gia Định thông thường thủy quân được trao nhiệm vụ chủ yếu, giữ vai trò quyết định, đồng thời vẫn chú trọng thủy quân, do đó đạt đến sự phối hợp chặt chẽ giữa hai quân chủng chiến lược. Vấn đề thành lập đội dự bị có tính chất chiến lược và sử dụng trong những trận quyết chiến chiến lược được Nguyễn Huệ rất chú ý. Khi tập trung lực lượng để sử dụng vào những chiến dịch lớn, Nguyễn Huệ vẫn giữ lại một bộ phận lực lượng làm đội dự bị chiến lược và tùy tình hình cụ thể mà để ở xa hoặc ở gần. Trong chiến dịch đại phá quân Thanh, việc sử dụng các quân đội tượng binh, pháo binh và kỵ binh trong thành phần của đội dự bị chiến lược và tùy tình hình cụ thể mà để ở xa hay ở gần. Trong chiến dịch đại phá quân Thanh, việc sử dụng các đơn vị tượng binh, kỵ binh hay pháo binh trong thành phần của đội dự bị chiến lược do Nguyễn Huệ nắm, trên hướng tiến công chủ yếu của chiến dịch, đã bảo đảm việc đột phá chiến dịch và phát triển thắng lợi chiến dịch thành thắng lợi của chiến lược. Tóm tắt những đặc điểm của chiến tranh mà quân đội Tây Sơn tiến hành, chúng ta thấy rằng tính chất quyết liệt và gian khổ của nội chiến và chiến tranh giải phóng dân tộc, vị trí đất đai đất đai của các bên tham chiến với sự bố cục chiến lược phức tạp trên một không gian dài, hẹp, có nhiều kẻ địch khác nhau, tính chất kiên quyết của mục đích chiến tranh và sự chênh lệch về lực lượng quân sự đã có ảnh hưởng lớn đến nghệ thuật chiến lược của Nguyễn Huệ và quân đội Tây Sơn. Nét nổi bật trong chiến lược quân sự của Nguyễn Huệ là xuất phát từ những mục đích chính trị của giai cấp, của dân tộc, chiến lược đó đã hình thành trên cơ sở những tính toán chính xác về khả năng của quân đội Tây Sơn và của các quân đội thù địch. Do đó, chiến lược mang tính chất rất tích cực, rất kiên quyết, xác định đúng đắn các giai đoạn đấu tranh khác nhau và kẻ thù chính của từng giai đoạn, xác định đúng chiến trường chủ yếu và hướng tiến công chủ yếu, mạnh dạn tập trung lực lượng chủ yếu trên chiến trường đó và trên hướng đó, phát triển nhịp nhàng các quân chủng, vận dụng một cách sáng tạo các phương pháp đấu tranh vũ trang thích hợp nhất, các hình thức tích cực nhất nhằm mục đích tiêu diệt hoàn toàn quân địch. Nhìn về toàn cục, bao giờ quân đội Tây Sơn cũng yếu về số lượng quân đội và trang bị so với quân đội của các kẻ thù. Nhưng quân đội Tây Sơn thông thường
  17. giữ quyền chủ động chiến lược, luôn luôn tiến công, luôn luôn giành ưu thế cục bộ để lần lượt tiêu diệt từng tập đoàn chiến dịch, chiến lược của địch. 2.Nghệ thuật chiến dịch. Chiến dịch là một hiện tượng đấu tranh vũ trang hết sức phức tạp, là tổ chức của các hành động chiến đấu theo chủ trương thống nhất, đạt tới mục đích thống nhất, cụ thể là đập tan hoặc tiêu diệt các đơn vị và các lực lượng chiến dịch hoặc chiến lược của đối phương. Chiến dịch được tiến hành theo một kế hoạch thống nhất, trên một mặt trận rộng lớn, trong một thời gian xác định với những binh lực và khí tài nhất định. Xét những yếu tố hình thành của chiến dịch, chúng ta có thể nhận thấy rằng trong quá trình chiến tranh, những trận quyết chiến tiêu diệt quân Xiêm, quân Thanh, quân Trịnh đều mang đầy đủ những yếu tố của chiến dịch. Từ những chiến dịch trên, chúng ta có thể rút ra nhiều bài học kinh nghiệm phong phú. Nghiên cứu thành phần các quân chủng tham gia chiến dịch, chúng ta thấy các chiến dịch đó đều có sự tham gia của cả hai quân chủng lục quân và thủy quân. Do đó xuất hiện các chiến dịch có nhiều quân chủng cùng tiến hành. Đơn vị chiến dịch của các quân chủng khác nhau thực hiện những nhiệm vụ khác nhau, trong hiệp đồng chiến dịch, đều nhằm đến mục đích chung của chiến dịch. Nghiên cứu mục đích và tính chất của những hoạt động chiến đấu, các chiến dịch như Rạch Gầm- Xoài Mút, Phú Xuân, Bắc Hà và đánh quân Thanh, đều là những chiến dịch tiến công. Đó cũng là những đặc điểm trong hành động quân sự của quân đội Tây Sơn, nêu bật tính chất kiên quyết, mục đích tiêu diệt sinh lực địch của nó. Chỉ có tiến công kiên quyết và liên tục nhằm bao vây và tiêu diệt từng bộ phận địch mới có thể hoàn toàn đạp tan và tiêu diệt quân địch. Nhưng xét về mặt hình thức, chiến dịch tiêu diệt thủy quân Xiêm và chiến dịch tiêu diệt quân Thanh đều mang hình thức phản công chiến lược. Hai chiến dịch này đều nhằm phá vỡ cuộc tiến công của địch, trong khi về thực chất quân địch vẫn đang ở thế tiến công chiến lược, đội hình của chúng là đội hình tiến công. Tuy nhiên xét mục đích và nội dung thì các chiến dịch đó thực chất vẫn là các chiến dịch tiến công. Những đặc điểm đó của hai chiến dịch càng nêu rõ nghệ thuật quân sự tài tình của Nguyễn Huệ. Sự chỉ đạo chiến lược đúng đắn, đặc biệt là việc tranh thủ thời gian và hành động chiến lược bất ngờ, việc tổ chức chu đáo và sự thực hành kiên quyết đã giành thắng lợi rực rõ cho chiến dịch. Nghiên cứu quy mô của binh lực được huy động, các chiến dịch có nhiều chỗ khác nhau. Trong chiến dịch tiêu diệt quân Xiêm, các thuyền chiến được huy động có hạn. Đó là một chiến dịch do một lực lượng chiến dịch liên hợp tiến hành. Trong hai chiến dịch tiêu diệt quân Trịnh, lực lượng huy động lớn hơn. Ngoài ra một điều đáng chú ý nữa là: trong chiến dịch tiêu diệt quân Xiêm, số lượng thuyền chiến của quân Tây Sơn ít hơn quân Xiêm, nhưng hỏa lực mạnh hơn. Xét cả hai mặt số lượng và chất lượng, chiến dịch được tiến hành trong điều kiện lực lượng
  18. của hai bên không chênh lệch nhau lớn lắm, tuy quân Xiêm vẫn có lợi thế. Trong chiến dịch Phú Xuân, quân đội Nguyễn Huệ kém quân Trịnh về bộ binh, nhưng mạnh hơn địch về thủy quân và pháo binh. Trong chiến dịch tiếp sau, lực lượng hai bên cũng gần ngang nhau, lục quân Trịnh chiếm ưu thế, nhưng thủy quân Trịnh yếu hơn thủy quân Tây Sơn. Xét một cách tổng hợp quân Trịnh vẫn có lợi hơn. Đến chiến dịch tiêu diệt quân Thanh thì so sánh lực lượng có chênh lệch lớn, có lợi cho quân Thanh. Nghiên cứu quy mô đó, chúng ta sẽ thấy được quân đội Tây Sơn đã chiến thắng thật huy hoàng, trong điều kiện thua kém hẳn địch về mặt số lượng. Mỗi chiến dịch có đặc điểm riên của nó, chiến dịch tiêu diệt thủy quân Xiêm là một chiến dịch mà đơn vị chiến dịch xuất phát từ căn cứ ở xa địch, nhanh chóng vận động đến chiếm lĩnh các đoạn sông đã lựa chọn, rồi kéo thủy quân địch ra khỏi căn cứ để tiêu diệt. Chiến dịch Phú Xuân là một chiến dịch bắt đầu trong điều kiện hai quân đội đã tiếp xúc với nhau từ lâu, đơn vị chiến dịch chủ yếu thực hành chọc thủng phòng ngự có chuẩn bị của địch, trong khi lực lượng ở hướng thứ yếu vu hồi bằng đường biển vào trung tâm bố trí của địch. Chiến dịch Thăng Long diệt Trịnh bắt đầu trong điều kiện ở rất xa địch, thời gian chuẩn bị có hạn, có đội thuyền chiến phái đi trước đánh chiếm đầu cầu chiến lược để chủ lực vào chiến đấu. Cuối cùng chiến dịch tiêu diệt quân Thanh được chuẩn bị trong thời gian có hạn, có quân đội che chở phía trước để chủ lực từ trong hậu phương chiến lược vận động đến, triển khai thành thế trận chiến dịch, rồi trong hành quân tiến đánh quân địch đương tạm thời dừng cuộc tiến công. Mỗi chiến dịch của Nguyễn Huệ đều căn cứ vào khả năng chiến lược và nhằm đạt những nhiệm vụ chiến lược nhất định. Trong chiến dịch đánh quân Xiêm, tinh thần chống ngoại xâm và ủng hộ quân Tây Sơn của nhân dân miền Gia Định và việc tăng cường hỏa lực cho các thuyền chiến đã tạo cho chiến dịch những khả năng lớn. Mặt khác khi tổ chức chiến dịch, Nguyễn Huệ lại biết căn cứ vào khả năng của chiến thuật thủy quân, như kinh nghiệm chiến đấu trên sông lớn, tốc độ cơ động, sức mạnh của hỏa lực, mà đề ra nhiệm vụ cho chiến thuật: đánh vào giữa đội hình của địch, chia cắt để tiêu diệt từng bộ phận địch. Trong chiến dịch thứ hai (hạ Phú Xuân), tinh thần căm ghét cao độ của nhân dân và quân đội Tây Sơn đối với nhà Trịnh, việc tăng cường và cải tổ lục quân thành những đơn vị lớn, vừa có sức đột kích mạnh, vừa có hỏa lực mạnh, vừa có phương tiện cơ động của thủy quân, đã xác định rằng đơn vị chiến dịch đó hoàn toàn có thể dùng ưu thế của mình để đánh một tập đoàn lớn của quân Trịnh, hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt một bộ phận quan trọng của sinh lực địch và giải phóng một bộ phận đất đai. Với khả năng hỏa lực của pháo binh dã chiến, với khả năng đổ bộ của thủy binh, chiến dịch đã xác định cho chiến thuật một nhiệm vụ chọc thủng thành lũy kiên cố của địch và đổ bộ lên bờ để tiêu diệt từng bộ phận sinh lực địch. Trong chiến dịch thứ ba (hạ Thăng Long diệt nhà Trịnh), do được tăng cường thêm binh lực, tăng cường thuyền chiến và thuyền vận tải, do nắm được tinh thần căm ghét chúa Trịnh ngày càng cao
  19. của quân và dân , chiến dịch đã có phương tiện cơ động đầy đủ, có khả năng tiến sâu vào lòng địch, đánh địch khi chúng chưa kịp triển khai, hoàn thành nhiệm vụ chiến lược tiêu diệt đại quân của nhà Trịnh, chiếm toàn bộ Bắc Hà, đạt đến mục đích đánh đổ thế lực nhà Trịnh. Chiến dịch có hoàn thành nhiệm vụ được hay không còn phù thuộc vào chiến thuật dã ngoại của bộ binh, khả năng bao vây, vu hồi, truy kích của kỵ binh hay không.Vì vậy mà các nhiệm vụ chiến thuật đã được xác định rõ ràng, trong đó nhiệm vụ chiến thuật rất quan trọng là đánh chiếm đầu cầu, tiêu diệt thủy quân nhà Trịnh. Trong chiến dịch lần thứ tư (diệt quân Thanh), khả năng chiến lược càng lớn hơn nhiều, sức đột kích, hỏa lực, sức cơ động đều được nâng cao. Việc tổ chức các đạo quân có sức tấn công mạnh, việc động viên tinh thần chiến đấu chống ngoại xâm của quân và dân , đã giúp cho Nguyễn Huệ có thể hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt toàn bộ quân Thanh, giải phóng Thăng Long và toàn bộ đất đai Bắc Hà, đạt mục đích đạp tan cuộc xâm lược của nhà Thanh, giữ vững độc lập của Tổ quốc. Nhiệm vụ của chiến thuật rất phức tạp, những khả năng chọc thủng thành lũy kiên cố, đánh chặn, truy kích có nhiều. Cho nên chiến dịch này đã trao cho chiến thuật (chiến thuật hợp đồng binh chủng của lục quân, chiến thuật của thủy quân, của pháo binh, của tượng binh và kỵ binh), những nhiệm vụ nặng nề. Thực tế chứng minh chiến dịch đã tận dụng khả năng của chiến lược và tận dụng khả năng của chiến thuật để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiến dịch, và do đó hoàn thành nhiệm vụ của chiến lược. Mục đích chiến lược đề ra đã đạt được đầy đủ. Từ những vấn đề trên chúng ta có thể rút ra mối quan hệ khăng khít giữa chiến dịch và chiến lược, giữa chiến dịch và chiến thuật. Đó là: chiến dịch phụ thuộc vào chiến lược, chiến dịch là phương tiện để đạt tới mục đích chiến lược của chiến tranh. Cho nên chiến dịch phải được xây dựng thật phù hợp với nhiệm vụ và khả năng của chiến lược. Chiến lược trực tiếp chỉ đạo nghệ thuật chiến dịch. Đi đôi với chiến chiến thuật, nghệ thuật chiến dịch đóng vai trò chỉ đạo, chiến dịch là một trong những nhân tố chủ yếu nhất làm cho chiến thuật phát triển. Ngược lại chiến thuật phụ thuộc vào nghệ thuật chiến dịch, là công cụ để hoàn thành nhiệm vụ của chiến dịch. Đồng thời chiến lược phải chú ý đến khả năng của chiến dịch và chiến dịch lúc đó cũng phải chú ý đến khả năng của chiến thuật. Một diều rất rõ, là do khả năng của chiến thuật kém, quân đội Trịnh đã không bao giờ đạt đến mục đích là tiêu diệt quân đội Nguyễn. Trái lại quân Nguyễn cũng không đạt đến mục đích phản công tiêu diệt một bộ phận của quân Trịnh để đánh tan cuộc tiến công của quân Trịnh. Chiến tranh liên tiếp nổ ra trong hàng thế kỷ, nhưng quân đội hai bên vẫn chỉ quanh quẩn bên hai bờ sông Gianh, dưới chân các thành lũy. Các chiến dịch của Nguyễn Huệ bao giờ cũng nhằm vào việc tiêu diệt một lực lượng chiến dịch, chiến lược của địch, đồng thời chiếm hoặc giữ những mục tiêu hoặc tuyến quan trọng của địa hình, có ý nghĩa về chiến lược, chiến dịch hoặc
  20. để kết thúc một giai đoạn nào đó của chiến tranh, hoặc để tạo điều kiện thuận lợi cho chiến dịch sau. Giữa hai nhiệm vụ của chiến dịch bao giờ Nguyễn Huệ cũng đặt nhiệm vụ tiêu diệt sinh lực địch lên hàng chủ yếu. Đồng thời Nguyễn Huệ cũng đặt việc đánh chiếm những mục tiêu hoặc tuyến địa hình thành một nhiệm vụ quan trọng để phục vụ cho việc tiêu diệt sinh lực địch, đảm bảo cho việc bảo tồn mình, cho nên giữa hai nhiệm vụ có mối quan hệ mật thiết, không thể tách rời nhau được. Chiếm Đồng Hới và tuyến sông Gianh vừa là bảo đảm tiêu diệt toàn bộ lực lượng của Phạm Ngô Cầu, vừa là nhằm chuẩn bị cho chiến dịch tiếp sau. Chiếm Vị Hoàng là để tạo điều kiện tiêu diệt chủ lực quân Trịnh, giữ tuyến núi Tam Điệp, chiếm tuyến Phượng Nhãn, Yên Thế, Lạng Giang và Hải Dương là để tiêu diệt toàn bộ quân Thanh. Cho nên, trong chiến dịch, việc chiếm hoặc giữ các mục tiêu hoặc tuyến nào đó của địa hình là rất quan trọng, nhưng nó chỉ có ý nghĩa khi nó bảo đảm cho việc tiêu diệt sinh lực địch. Tất nhiên việc tiêu diệt sinh lực địch, việc chiếm mục tiêu và tuyến địa hình đồi hỏi phải sử dụng tập trung binh lực, cơ động, dũng cảm, mạnh bạo, đòi hỏi phải thực hiện được bao vậy chặt, phải đập tan các cuộc phản kích của địch (như trong chiến dịch Thăng Long tiêu diệt quân Trịnh). Mục đích của chiến dịch, biện pháp để đạt tới mục đích đó đã nêu lên một đặc điểm chung thứ nhất cho các chiến dịch của Nguyễn Huệ: các chiến dịch đều có mục đích rất kiên quyết, nó khác rất xa nghệ thuật tác chiến của các quân đội Trịnh, Nguyễn, Lê, Xiêm, Thanh. Trong các chiến dịch, Nguyễn Huệ bố trí chiến trận trên nhiều mục tiêu, nhiều đoạn, nhiều hướng cách xa nhau. Ở trên một mục tiêu, một đoạn, một hướng nào đó, mặt chính để tiến công trí hẹp nhưng do có nhiều mục tiêu, đoạn, hướng nên lại hình thành mặt chính rộng có nhiều khoảng cách đồng thời giữ một chiều sâu nhất định cho thế trận của mình. Mặt chính trên một mục tiêu, một đoạn, một hướng cụ thể hẹp và có chiều sâu của thế trận là để tạo nên mũi nhọn tiến công liên tục và mạnh mẽ. Mặt chính rộng của các hướng họp lại là dựa trên khả năng cơ động của quân đội Tây Sơn. Đồng thời chỉ có hành động trên mặt chính rộng như vậy thì mới có khả năng phát huy đầy đủ cơ động của những lực lượng lớn, các hướng chiến dịch đều đánh vào chiều sâu của địch. Chiều sâu lớn của các chiến dịch chứng tỏ Nguyễn Huệ luôn luôn nhằm vào các lực lượng chủ yếu, bố trí trong sâu của đối phương, và nắm được sức cơ động của quân đội mình, nhất là biết sử dụng thành thạo tượng binh, kỵ binh và thủy quân. Cho nên, có trường hợp đột phá xong mới phát triển vào chiều sâu (như chiến dịch giải phong Thăng Long diệt Trịnh và chiến dịch đại phá quân Thanh), có trường hợp đồng thời đột phá mặt chính và tiến công vào sâu (chiến dịch Phú Xuân). Trong chiến dịch Rạch Gầm- Xoài Mút, đoạn sông được lựa chọn để quyết chiến có chiều dài chừng 7km. Chủ lực thủy quân Tây Sơn bố trí sâu trên một đoạn sông chừng 6km. Trong chiến dịch Phú Xuân, bề sâu của chiến dịch đến 300km, thời gian của chiến dịch là trong phạm vi 10 ngày, tốc độ tiến công là trên 30km một ngày. Không có thủy quân và
  21. kỵ kinh thì không có tốc độ tiến công đó. Trong chiến dịch Thăng Long, bề sâu của chiến dịch là 90km, tác chiến trong thời gian 10 ngày, tốc độ tiến công chừng 9km một ngày. Nhưng nếu tính chủ lực vào chiến đấu, thì từ Vị Hoàng đến Thăng Long tốc độ tiến công là 22km một ngày. Trong chiến dịch đại phá quân Thanh tính mặt chính của các hướng đến 40 km, bề sâu của chiến dịch là 80km, thời gian tác chiến là 5 ngày, tốc độ tiến công là 15 km một ngày. Đây không tính đến chiều sâu và tốc độ trong truy kích quân địch đến biên giới. Các chiến dịch có quy mô lớn, nhưng thời gian chuẩn bị đều rút ngắn. Sở dĩ như vậy là vì phải tranh thủ thời gian, tác chiến trong thời cơ có lợi, phải tranh thủ bất ngờ, đồng thời còn do trình độ sẵn sàng chiến đấu và khả năng cơ động cao của quân đội Tây Sơn quyết định. Cho nên tổng hợp các mặt có liên quan mật thiết trong các chiến dịch trên có thể rút ra một đặc trưng chung thứ hai của các chiến dịch do Nguyễn Huệ chỉ huy: chiến dịch có mặt chính khá rộng, có chiều sâu lớn, tốc độ tiến công cao, tiến hành trong điều kiện thời gian chuẩn bị hạn chế. Mặc dù về lực lượng, quân đội Nguyễn Huệ thường kém hoặc xấp xỉ bằng địch, nhưng lại tiến công địch cho nên bao giờ cũng ở vào địa vị chủ động và giữ thế chủ động đó trong toàn bộ chiến dịch, tuy rằng có khi phải đánh với lực lượng phản kích của địch, các công tác chuẩn bị cho chiến dịch được tiến hành bí mật, nhanh chóng, có biện pháp phao tin đánh lừa địch, có biện pháp vận động từ xa đến một cách rất bí mật, dấu quân bí mật, che chở chu đáo cho nên dù chiến dịch bắt đầu vào những thời gian, thời tiết khác nhau, bao giờ Nguyễn Huệ cũng tranh thủ được bất ngờ, làm cho địch không kịp chuẩn bị. Có khi địch đang ở thế chủ động lại thành bị động, đã bị động càng đi sâu vào bị động hoàn toàn, trở tay không kịp. Do đó dù địch có ưu thế về mặt lực lượng mà không sử dụng được ưu thế đó tức là không có ưu thế thực sự. Những điểm trên nêu lên một đặc trưng thứ ba của chiến dịch Nguyễn Huệ là: ý nghĩa của sự giành, giữ chủ động, của việc tranh thủ và phát huy yếu tố bất ngờ là rất lớn. Trong các chiến dịch của Nguyễn Huệ, do đội hình chiến dịch có nhiều đạo quân, đội quân, nhiều bộ phận, nhưng việc phân chia nhiệm vụ và sử dụng các đạo, đội hoặc các bộ phận đã đạt trình độ cao. Do đó sức tiến công được tăng cường không ngừng. Đạo quân đi trước (hoặc đội) và đạo, đội tiếp sau (hoặc đội dự bị) hành động rất nhất trí. Trong chiến dịch Thăng Long, sau khi thủy quân Tây Sơn đã tiêu diệt thủy quân Trịnh, Nguyễn Huệ cho đổ bộ một bộ phận bộ binh để tập kích bất ngờ địch và chia cắt đội hình của địch, còn chủ lực thì tung vào Thăng Long. Do đó, quân Trịnh bị chia cắt thành nhiều bộ phận không thể hiệp đồng nhất trí. Khi quân đội Tây Sơn vây đồn, tăng cường sức tiến công, quân Trịnh không thể thoát khỏi bị tiêu diệt. Những điểm trên nêu lên một đặc điểm chung thứ tư của các chiến dịch do Nguyễn Huệ chỉ huy: trong quá trình chiến dịch, không ngừng nâng cao sức tiến công, cơ động lực lượng nhanh chóng sử dụng các đạo, đội quân hoặc đội dự bị đưa vào chiến đấu trong thời cơ và phương hướng có lợi.
  22. Trong các chiến dịch của Nguyễn Huệ, vấn đề bảo đảm vật chất được đặc biệt chú ý. Các chiến trường thường ở xa khu căn cứ hậu phương, chiến dịch có chiều sâu rất lớn, lực lượng tham gia rất đông, cơ động rộng rãi, thời gian vận động tiến đến gần địch và tác chiến khá dài, khiến cho công tác bảo đảm lương thực thực phẩm, đạn dược rất phức tạp nhưng phải được tiến hành chu đáo. Nguyễn Huệ bao giờ cũng thực hiện hai biện pháp để bảo đảm cho chiến dịch: tổ chức cung cấp từ sau lên và tranh thủ cung cấp tại chỗ. Đó là đặc điểm chung thứ năm của các chiến dịch: việc bảo đảm vật chất chu đáo được xem là một trong những nguyên nhân bảo đảm thắng lợi cho chiến dịch. 3.Chiến thuật. Chúng ta biết rằng chiến thuật là một trong những bộ phận khăng khít của nghệ thuật quân sự. Chiến thuật nghiên cứu và đề ra những biện pháp tổ chức chiến đấu và các nguyên tắc, quy tắc tiến hành chiến đấu. Nếu chiến lược và chiến dịch là lĩnh vực của khâu chỉ huy cao cấp, thì chiến thuật lại trực tiếp gắn liền với sự hoạt động của đông đảo quần chúng binh sĩ và chỉ huy. Các binh sĩ và chỉ huy hoàn thành nhiệm vụ chiến lược và chiến dịch qua nhiệm vụ chiến thuật. Vì vậy chiến thuật là nơi phản ánh rõ ràng nhất chất lượng tinh thần và chiến đấu của quân đội. Dưới sự chỉ huy của Nguyễn Huệ, tinh thần chiến đấu của quân đội Tây Sơn cũng như nghệ thuật quân sự nói chung, đã phát triển không ngừng. Cơ sở của sự phát triển đó là tinh thần chiến đấu cao của người lính trong quân đội cách mạng của nông dân, của nhân dân nói chung và sự thay đổi về chất lượng và số lượng vũ khí, phương tiện chiến tranh trong quân đội của Nguyễn Huệ. Tinh thần chiến đấu cao, tinh thần chịu đựng gian khổ, tinh thần chỉ thắng không bại của những người lính trong quân đội Nguyễn Huệ đã khiến cho họ biết vận dụng một cách sáng tạo những kinh nghiệm chiến đấu, lấy đó làm cơ sở nâng cao trình độ chiến thuật. Người lính trong quân đội Nguyễn Huệ có tinh thần chiến đấu cao, đồng thời có nhiều vũ khí cải tiến, nắm vững và biết phát huy tác dụng của vũ khí. Cho nên chiến thuật của quân đội Tây Sơn phát triển rất nhanh, tuy nó là một quân đội trẻ, xây dựng trong quá trình khởi nghĩa và chiến tranh. Giữa quân đội Nguyễn Huệ và quân đội phản động, về mặt chất lượng của vũ khí, sự khác nhau không nhiều. Song về mặt số lượng vũ khí và thành phần trong biên chế thì có sự khác nhau. Sự khác nhau đó, cộng với sự khác nhau của hai loại binh sĩ, đã đẻ ra sự khác nhau trong chiến thuật, trong sự phát triển chiến thuật của hai loại quân đội. Từ thế kỷ XVI trở về trước, vũ khí chủ yếu là bạch binh, cho nên chiến đấu chỉ có một giai đoạn: những khối lượng người tiến công vào đối phương bằng cách phóng lao, bắn cung nỏ từ một cự ly nhất định, rồi xung phong đánh giáp lá cà, dùng dao, gươm chém giết lẫn nhau. Nhưng đến thế kỷ XVII, XVIII, súng trường, pháo binh, tức một yếu tố mới của hỏa lực rồi dùng sức mạnh đánh giáp lá cà để đạp tan đối phương. Từ bao gồm hai yếu tố: đột kích và cơ động chiến đấu đã phát
  23. triển thêm một yếu tố hỏa lực. Do đó nghệ thuật chiến thuật thời đại bấy giờ đòi hỏi phải kết hợp chặt chẽ ba yếu tố đó của chiến đấu. Trong các quân đội Trịnh và Nguyễn, số lượng của hỏa khí bộ binh ít, vì chưa có pháo binh dã chiến, hoặc có nhưng với số lượng ít, nên chiến đấu chủ yếu dựa vào sức tiến công bằng sức lực của các khối bộ đội với bạch binh. Dù chiến đấu trên thành lũy hay chiến đấu ở dã ngoại, dù tiến công hay phòng ngự, trong hai quân đội đó, vai trò của đột kích vẫn là chủ yếu, vai trò của hỏa lực và cơ động còn rất thấp. Khác thế, Nguyễn Huệ đã biết kết hợp khác chặt chẽ ba yếu tố hỏa lực, đột kích và cơ động. Chiến thuật đã có bước phát triển rất lớn về hai mặt: 1.Nâng cao vai trò của hỏa lực và cơ động tuy rằng đột kích vẫn giữ vai trò quyết định. Dùng hỏa khí để tiêu hao địch, dùng sức đột kích và cơ động để phá vỡ hệ thống đề kháng đánh chặn có tổ chức của địch, tạo nên những điều kiện mới để thực hiện những đòn đột kích mới. Trong khi dùng hỏa khí, đã có sự kết hợp giữa bắn và vận động của người lính, giữa đi đến cự li tầm bắn của đối phương và chạy lên xung phong. 2. Chiến đấu không còn là do bộ binh đơn thuần, hoặc bộ binh làm nhiệm vụ chủ yếu nhất mà các binh chủng khác chỉ là phụ thuộc. Dưới sự chỉ huy của Nguyễn Huệ, các binh chủng pháo binh, bộ binh, tượng binh và kỵ binh, trong chiến đấu đã có sự phân công rành rõ và hợp tăc chặt chẽ hơn trong việc thực hiện nhiệm vụ chung để đạt tới mục đích chung. Cho nên chiến thuật của quân đội Tây Sơn đã mang rõ nét tính chất của chiến thuật hiệp đồng các binh chủng. Thắng lợi của chiến đấu là do các binh chủng hiệp đồng động tác chặt chẽ, nỗ lực thực hiện nhiệm vụ chung, tuy rằng hỏa lực có nhiệm vụ chủ yếu là phá hoại và tiêu hao, sức đột kích của bộ binh và tượng binh làm nhiệm vụ tiêu diệt đại bộ phận địch (trong đó vai trò quan trọng nhất thuộc về bộ binh) và cơ động là để thực hành đột kích thắng lợi. Do đó chúng ta có thể rút ra một đặc điểm đầu tiên trong chiến đấu và chiến thuật của quân đội Tây Sơn như sau: Thông thường pháo binh mở đầu, bộ binh (có tượng binh hoặc không có) đánh đòn đột kích quyết định (tiêu diệt đại bộ phận địch, chiếm giữ thân lũy, mục tiêu), kỵ binh kết thúc chiến đấu (phát triển thắng lợi, truy kích, tiêu diệt nốt bộ phận còn lại của địch). Đương nhiên không phải trong bất kỳ trận chiến nào, quân đội Tây Sơn đều đánh như vậy. Nhưng về đại thể các trận chiến đấu đều diễn ra như trên. Trong lục quân, chiến thuật là chiến thuật hiệp đồng binh chủng. Vấn đề thứ hai gắn liền với vấn đề trên, là đội hình chiến đấu. Trong thời đại phong kiến, trước khi súng trường và đại bác xuất hiện, tác chiến thường xảy ra ở xung quanh các thành quách kiểu vuông. Đội hình chiến đấu thường áp dụng là: đối với quân phòng ngự, mỗi cơ hoặc đội (tùy theo thành lớn, nhỏ) dàn thành đội hình hàng ngang hoặc dọc theo một tường thành. Trên bốn tường thành có bốn cơ
  24. hoặc đội chiếm giữ. Cơ hoặc đội thứ năm đóng ở giữa, làm đội dự bị, thường dùng để tăng viện cho nơi bị uy hiếp. Người chỉ huy thành quách trực tiếp nắm đội dự bị. Do đó mà có tiền, hậu, tả, hữu, trung. Đối với quân tiến công, các cơ, đội hoặc đạo cũng dàn thành hàng ngang: bốn cơ hoặc đội, đạo tiến công trên bốn mặt của thành lũy. Cơ (đội, đạo) thứ năm làm đội dự bị, do chỉ huy trực tiếp nắm, được bố trí ở một nơi, chủ yếu dùng để tăng viện cho hướng nào hoặc bị thiệt hại nhiều hoặc có khả năng leo rèo lên thành để tăng thêm sức đột kích. Khi chiến đấu ở dã ngoại, đội hình căn bản không có gì khác, đội hình bốn mặt tỏa ra thành bốn khối trên hàng ngang, ở phía sau là đội dự bị. Chiến thuật theo đội hình này là dàn đều binh lực trên chính diện, dựa vào sức mạnh của khối bộ binh dày đặc đó mà đột kích. Khi xuất hiện thành lũy kiểu chạy dài theo bề ngang, như các lũy của quân Nguyễn, Trịnh, dựa trên sự kết hợp giữa hỏa lực của pháo binh với phương tiện chướng ngại (như thành lũy, sông ngòi, chiến hào .). Bên tiến công vẫn lấy sức đột kích của các khối bộ binh dày đặc để tiến công. Quân đội Nguyễn Huệ đã áp dụng một đội hình chiến đấu kiểu mới, tuy quân đội vẫn tổ chức theo ngũ ngũ chế, nhưng trong một đạo, ngoài bộ binh đã có pháo binh, kỵ binh và tượng binh. Dựa trên cơ sở tinh thần chiến đấu cao của quân đội và trước sự phát triển của pháo binh, súng trường, Nguyễn Huệ đã bỏ lối tiến gần địch theo đội hình hàng ngang dày đặc. Chiến thuật dàn đều binh lực trên mặt chính đã được thay thế bằng chiến thuật tập trung lực lượng đột kích mãnh liệt trên đoạn quyết định của đội hình chiến đấu. Cơ sở của chiến thuật này là dũng cảm, cơ động và thọc sâu kết hợp với hỏa lực và đột kích. Thế là thành lũy và đội hình nặng nề, kém cơ động của quân đội phong kiến phản động đã bị đội hình rất linh hoạt, rất co giãn, rất cơ động của quân đội Nguyễn Huệ đánh tan, chiến thuật phân tán binh lực trên mặt chính đã bị chiến thuật tập trung binh lực có bề sâu phá vỡ. Chiến thuật phát triển lên một bước mới, đó là chiến thuật hiệp đồng binh chủng, với sự tập trung lực lượng tiến công trên một điểm quyết định, bằng hình thức đánh vào mặt chính kết hợp với thọc sâu, vu hồi, bao vây địch. Chiến thuật của từng binh chủng cũng thành hình rõ hơn: pháo binh tập trung bắn, mở đường cho tượng binh và bộ binh xung phong. Tượng binh lợi dụng sức mạnh để xông lên trước, rồi tỏa sang hai bên tả hữu cho bộ binh tiếp tục xông lên thành nhiều đợt, dùng bạch binh xung phong. Hoặc tượng binh mang pháo hạng nặng, từ xa bắn vào thành lũy địch, bắn yểm hộ cho bộ binh phát triển. Cuối cũng là kỵ binh nhanh chóng thọc sâu vào, tùy theo tình huống mà tiến thẳng hoặc vu hồi hoặc đột kích sau lưng hoặc truy kích. Đó là một đội hình chiến thuật rất co giãn, rất linh hoạt và một chiến thuật kết hợp được đầy đủ ba yếu tố: đột kích, cơ động và hỏa lực. Việc sử dụng pháo binh dã chiến một cách tập trung là rất quan trọng. Nó giúp cho việc giải quyết tốt vấn đề đột phá thành lũy của thời đó. Nguyễn Huệ không những tài giỏi trong việc chỉ huy bộ binh, kỵ binh, thủy binh, mà còn giỏi về pháo binh nữa.
  25. Trong quá trình chiến tranh các hình thức chiến đấu trở nên phong phú. Tại chiến trường Gia Định, để ngăn chặn những lực lượng chủ yếu của địch, hình thức phòng ngự của quân đội Tây Sơn tiến hành dựa trên các tuyến công sự mang tính chất phòng ngự cứ điểm. Nhưng chiến đấu tiến công (kể cả tiến công thành lũy kiên cố, tiến công trận địa dã chiến và tiến công vận động) vẫn là hình thức chiến đấu chủ yếu. Tiến công vận động nổi lên hàng đầu. Các trận chiến đấu tiến công do Nguyễn Huệ chỉ huy ở miền Gia Định, hoặc ở miền đồng bằng Bắc Hà trở nên rất cơ động, kết hợp chặt chẽ giữa vận động với kỹ năng bắn và khả năng hiệp đồng khá giỏi của các binh chủng, các đơn vị tham gia chiến đấu. Quân đội Nguyễn Huệ đã áp dụng đầy đủ các loại chiến thuật: tập kích bất ngờ, công kích băng sức mạnh (trận địa dã chiến hoặc công thành) chờ sẵn để phục kích, kéo địch tới để phục kích, tao ngộ truy kích Các thủ đoạn chiến đấu cũng phát triển. Từ tiến công chính diện kết hợp với thọc sâu (như trong các trận đầu do Nguyễn Huệ chỉ huy) đến tiến công chính diện kết hợp với vu hồi vào một bên sườn, vu hồi hai bên sườn (nhất là khi có thủy quân) sau lại có thêm tiến công chính diện kết hợp với vu hồi cạnh sườn và sau lưng, hình thành bao vây (như trong các trận tiêu diệt quân Trịnh và quân Thanh). Các thủ đoạn chiến đấu đó rất thích hợp, nhằm nhanh chóng tiêu diệt lực lượng phân tán của địch, không cho đội dự bị của địch ra chiến đấu, không cho địch có thể tập trung lực lượng và phương tiện tại địa điểm và trong thời gian cần thiết. Biết chia cắt địch và tập trung lực lượng để tiêu diệt từng bộ phận địch là một trong những biểu hiện căn bản của nghệ thuật chỉ huy cao của Nguyễn Huệ. Cơ động nhanh và giỏi đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc bảo đảm ưu thế về lực lượng và phương tiện trên hướng tiến đánh chủ yếu. Nó còn là một thủ đoạn để giành bất ngờ chiến thuật. Cơ động đã trở nên một trong những phương pháp chủ yếu nhất để đột kích thắng lợi. Cũng do cơ động nhanh chóng mà tốc độ tiến công được nâng cao không ngừng. Những điều trình bày ở trên cho ta thấy đặc điểm chiến thuật của Nguyễn Huệ là: tính chủ động rộng rãi, tính cơ động nhanh chóng, tính kiên quyết mãnh liệt, tính nhiều hình nhiều vẻ trong phương pháp, và hình thức tiến hành chiến đấu. Đứng trước một quân đội như vậy, các đối thủ Trịnh, Lê, Nguyễn, Xiêm, Thanh chỉ biết đưa ra một chiến thuật cứng nhắc, chậm chạp cho nên họ đã thất bại nhanh chóng. C.ĐẶC ĐIỂM CHỦ YẾU CỦA THIÊN TÀI QUÂN SỰ CỦA NGUYỄN HUỆ. Nhận định tổng quát nghệ thuật quân sự của Nguyễn Huệ, đồng chí Trường Chinh đã viết: “Ưu điểm trội nhất của cuộc kháng chiến đời Nguyễn Quang Trung là tiến công nhanh chóng và mãnh liệt” [1]. Câu nói súc tích đó đã nêu bật lên một cách khái quát và đầy đủ những đặc điểm cơ bản nhất trong tư tưởng chỉ đạo tác chiến, trong nghệ thuật quân sự của Nguyễn Huệ.
  26. Mục đích chính trị của chiến tranh mà Nguyễn Huệ và quân đội Tây Sơn tiến hành là đánh đổ bọn phong kiến phản động trong nước và bọn phong kiến nước ngoài đến xâm lược, thực hiện thống nhất, giữ vững độc lập. Mục đích chính trị đó là nguyên tắc chính trị cơ bản của chiến tranh. Mục đích đó được thực hiện về mặt quân sự bằng cách dùng lực lượng vũ trang để thực hiện thống nhất, bảo vệ Tổ quốc, đánh tan các quân đội phong kiến Trịnh, Lê, Nguyễn, Xiêm và Thanh. Để đạt được mục đích đó, trong mọi hành động của quân đội Tây Sơn, Nguyễn Huệ luôn luôn nắm vững các nguyên tắc cơ bản là ra sức tiêu diệt địch và hết sức bảo tồn mình. Nguyên tắc cơ bản đó là căn cứ của tất cả các nguyên tắc khác chỉ đạo toàn bộ hành động quân sự, từ nguyên tắc chiến lược đến nguyên tắc chiến thuật. Trong hai mặt của nguyên tắc cơ bản đó, thì tiêu diệt địch là chủ yếu, bảo tồn mình chiếm địa vị thứ hai vì rằng chỉ có tiêu diệt địch mới có thể bảo tồn mình một cách hiệu quả nhất. Tiến công là thủ đoạn dùng để tiêu diệt địch, tiến công để trực tiếp tiêu diệt địch nhưng đồng thời cũng để bảo tồn mình. Khởi nghĩa vũ trang, chiến tranh giải phóng từ khi nổ ra đến lúc phát triển, từ không có căn cứ đến thành lập căn cứ từ bộ phận đến toàn quốc, từ không có chính quyền đến xây dựng chính quyền, từ không có quân đội đến phát triển quân đội, từ đánh những toán lẻ tẻ của địch đến tiêu diệt lực lượng chiến lược lớn mạnh .bao giờ cũng do tiến công mà đạt được. Trong cuộc chiến tranh do Nguyễn Huệ tiến hành, tiến công là chủ yếu, là quyết định. Từ trận hạ thành Qui Nhơn năm 1773, hạ thành Phú Yên năm 1775, đến cuộc truy kích quân Thanh đến biên giới năm 1789 là cả một loạt cuộc chiến đấu và chiến dịch tiến công liên tục để tiêu diệt, bảo tồn mình. Dĩ nhiên nói như vậy không phải là quân đội Tây Sơn không có phòng ngự. Nhưng phòng ngự là thứ yếu còn tiến công là chủ yếu. Tiến công, đó là ưu điểm trội nhất của nghệ thuật quân sự Nguyễn Huệ. Nhưng tiến công cũng có nhiều cách tiến công. Có cách tiến công chậm chạp, cầm chừng như tiến công của quân Thanh, cũng có cách tiến công luẩn quẩn của quân Trịnh ở dưới chân các thành lũy đã không tiêu diệt được địch mà ngược lại, chính mình lại bị tiêu hao. Đó là những cách tiến công vừa không tiêu diệt được địch, vừa không bảo tồn được mình. Cách tiến công của Nguyễn Huệ khác hẳn: nhanh chóng, mãnh liệt. Nhanh chóng bao hàm nhiều ý nghĩa: vận động và cơ động nhanh chóng, giải quyết chiến đấu, chiến dịch một cách nhanh chóng. Bất luận khi có ưu thế hay khi không có ưu thế so với địch về chiến dịch và chiến lược bao giờ Nguyễn Huệ cũng thực hành tiến công nhanh chóng. Nhất là khi không có ưu thế so với địch, thì tiến công lại càng nhanh chóng, bằng cách vận động nhanh chóng từ xa đến, cơ động nhanh chóng và táo bạo thọc sâu vào lòng địch, vu hồi vào sườn, hoặc sau lưng địch, nhanh chóng bao vây, chia cắt địch, đánh nhanh, giải quyết nhanh. Trong những trường hợp đó, nhanh chóng đã bổ sung hoặc thay thế cho thế yếu về
  27. số lượng. Những cuộc hành quân thần tốc và bí mật, những cuộc đột kích chớp nhoáng, những cuộc cơ động của nhiều đạo quân lớn nhanh chóng thọc vào sau lưng địch, mà Nguyễn Huệ thực hành trong các trận chiến đấu và chiến dịch tiến công, đã thể hiện nghệ thuật cao của vị tướng thiên tài, là nhanh chóng tiêu diệt lực lượng phân tán của địch, khiến cho địch bị bất ngờ, chưa kịp đối phó đã bị tiêu diệt. Nhanh chóng trong vận động và cơ động, nhanh chóng trong tác chiến để nhanh chóng tiêu diệt dịch, đó cũng là một ưu điểm trội nhất của nghệ thuận quân sự của Nguyễn Huệ. Song nhanh chóng không thể tách rời với mãnh liệt, muốn nhanh chóng mà không mãnh liệt thì rốt cuộc không đạt được nhanh chóng. Mãnh liệt là tập trung lực lượng tạo thành thế mạnh để giáng những đòn sấm sét, mãnh liệt, tức là nói động tác chiến đấu phải mãnh liệt, hành động chiến đấu phải tích cực kiên quyết. Mãnh liệt là nghệ thuật sử dụng hỏa lực tập trung trên điểm đột phá, là nghệ thuật sử dụng tập trung binh lực để tiến công mãnh liệt, xung phong mãnh liệt, phát triển mãnh kiệt, truy kích mãnh liệt. Có thế mạnh mà không tập trung sử dụng, thì không đạt được mãnh liệt, muốn mãnh liệt mà không tập trung và không tạo được thế mạnh thì rốt cuộc không thể mãnh liệt được. Do đó cũng không thể đạt tới nhanh chóng. Kết quả là chỉ tiêu hao địch, đánh tan địch mà không thực hiện nổi việc tiêu diệt địch. Các trận chiến đấu, chiến dịch tiến công của Nguyễn Huệ vừa nhanh chóng, vừa mãnh liệt là những kiểu mẫu về sự kết hợp một cách khéo léo và cân đối giữa thế mạnh của tiến công hỏa lực và thế mạnh của cơ động. Mãnh liệt trong chiến đấu, chiến dịch đó cũng là một ưu điểm trội nhất trong nghệ thuật quân sự của Nguyễn Huệ. Tiến công nhanh chóng và mãnh liệt là một thể thống nhất, một trong những nguyên tắc chủ yếu nhất của nghệ thuật quân sự, cũng là một ưu điểm trội nhất trong nghệ thuật quân sự của Nguyễn Huệ, khiến cho quân đội của Nguyễn Huệ không ngừng phát triển, đã bảo tồn được mình và tiêu diệt được mấy chục vạn quân Trịnh, Lê, Nguyễn, 2 vạn quân Xiêm và 20 vạn quân Thanh. Ưu điểm trội nhất của nghệ thuật quân sự đó nói lên những tư tưởng chỉ đạo tác chiến cơ bản của Nguyễn Huệ. Do tiến công nhanh chóng và mãnh liệt, các trận chiến đấu, chiến dịch của quân đội Tây Sơn bao giờ cũng đạt được mục tiêu chủ yếu là tiêu diệt sinh lực địch. Mỗi trận chiến đấu, mỗi một chiến dịch do Nguyễn Huệ chỉ huy, đều giết, bắn hàng ngàn, hàng chục vạn vũ khí các loại, khiến cho địch không thể bổ sung, thay thế kịp thời, tinh thần quân địch phải tan rã, ý trí đề kháng, ý trí xâm lược bị đè bẹp. Cơ sở vật chất và tinh thần của địch cứ như vậy mà bị tiêu hao dần, bị tiêu diệt từng bộ phận đến bị tiêu diệt toàn bộ. Kết quả của việc tiêu diệt sinh lực địch là vừa giải phóng đất đai, vừa bổ sung lực lượng, vừa nâng cao thêm tinh thần chiến đấu của quân đội và nhân dân. Cho nên từ đó, ta có thể rút ra kết luận: tư tưởng đánh tiêu diệt là tư tưởng chỉ đạo tác chiến cơ bản của
  28. Nguyễn Huệ trong toàn bộ cuộc chiến tranh. Quân đội Tây Sơn đã thừa kế và phát huy cao độ truyền thống anh dũng và vẻ vang của các quân đội chống ngoại xâm của nước ta, từ thời Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn đến Lê Lợi, Nguyễn Trãi, truyền thống của những trận đánh tiêu diệt vĩ đại. Các quân đội mạnh của phong kiến xâm lược đã chịu số phận vứt xác lại ở trên các chiến trường nước ta, còn các tên tướng lĩnh tài giỏi thì số phận của chúng cũng không vinh quang gì cả. Các tướng thủy quân chiêu Tăng, chiêu Sương đã nhanh chóng chui rừng, lách bụi theo đường bộ chạy về Xiêm. Thoát Hoan chui vào ống đồng để loạt qua biên giới. Vương Thông nhục nhã đầu hang, lủi thủi cút về nước, Tôn Sĩ Nghị thì vứt cả quân ấn, sắc thư phi ngựa không yên mà chạy. Đó là chưa kể những tên tướng đã bị tiêu diệt trong chiến đấu như Toa Đô, Ô Mã Nhi, Liễu Thăng, Hứa Thế Hanh, Sầm Nghi Đống Tư tưởng đánh tiêu diệt của Nguyễn Huệ, như trên đã trình bày, biểu hiện ở việc lấy bảo tồn mình tiêu diệt địch làm nguyên tắc chỉ đạo mọi hành động quân sự của quân đội, nó lấy tiêu diệt địch làm mục tiêu chủ yếu của chiến tranh. Tư tưởng đánh tiêu diệt đó còn biểu hiện ở việc xác định những hình thức tác chiến chủ yếu trong các trận đánh. Khi mới nổi dậy nghĩa quân Tây Sơn chỉ là một đội du kích. Hình thức tác chiến chủ yếu lúc đó là đánh du kích. Những trận chiến đấu và chiến dịch sau này do Nguyễn Huệ chỉ huy từ trận Phú Yên trở đi, tiến lên chiến tranh chính quy, với hai hình thức đánh vận động và đánh thành. Trong hai hình thức này nguyễn Huệ đã chọn hình thức nào làm chủ yếu, tuy quân đội Nguyễn Huệ thông thạo đánh vận động, cũng giỏi đánh thành nhưng xuất phát từ tư tưởng tiêu diệt địch và dựa vào tinh thần chiến đấu cao của binh sĩ, Nguyễn Huệ đã chọn đánh vận động làm hình thức tác chiến chủ yếu, trong toàn cuộc chiến tranh. Cho nên, tuy về chiến đấu có trận đánh thành, có trận đánh địch đang vận động, nhưng trong toàn bộ chiến dịch, thông thường đánh vận động là chủ yếu, địch vận động, đương nhiên là cơ hội tốt để đánh vận động. Nhưng ngay cả trong các trường hợp khác, Nguyễn Huệ cũng có những hành động tích cực buộc địch vận động, để tiêu diệt địch. Do đó, chiến đấu, chiến dịch thông thường mang tính chất đánh tiêu diệt. Tư tưởng đánh tiêu diệt của Nguyễn Huệ còn biểu hiện ở việc biết mình, biết địch, tranh thủ chủ động. Ngay từ buổi đầu khởi nghĩa, Nguyễn Huệ đã tin tưởng vững chắc vào thắng lợi của cuộc khởi nghĩa, ông có một dũng khí chiến đấu vĩ đại để áp đảo mọi kẻ thù trong, giặc ngoài. Nhưng trong mỗi chiến dịch, mỗi trận chiến đấu, không những ông nắm rất vững khả năng của quân đội mình, mà còn hiểu và nắm vững tình hình của từng kẻ địch cụ thể. Trên cơ sở biết mình biết địch một cách sâu sắc, ông chú ý đến nghệ thuật đấu tranh, đề ra những phương pháp, thủ đoạn, biện pháp thích hợp nhất để đạt tới mục đích tiêu diệt địch. Do đó, Nguyễn Huệ luôn luôn đứng ở vị trí chủ động, đẩy địch vào trạng thái bị động. Trong những trường hợp có nguy cơ mất quyền chủ động, Nguyễn Huệ rất sắc bén
  29. trong việc phát hiện chỗ mạnh, chỗ yếu của địch trong từng tình huống cụ thể để giành lại quyền chủ động về tay mình. Tư tưởng đánh tiêu diệt đó còn biểu hiện trong các phương pháp tác chiến của Nguyễn Huệ, chủ yếu và nổi nhất là các phương pháp tập trung gần toàn bộ lực lượng đánh vào mặt chính và một cạnh sườn hoặc hai cạnh sườn của địch, nhằm đạt tới mục đích trước hết là tiêu diệt một bộ phận địch và đánh tan một bộ phận khác, do đó tạo điều kiện thuận lợi để quân đội nhanh chóng di chuyển binh lực, tập trung lực lượng tiêu diệt một bộ phận khác cho đến lúc tiêu diệt toàn bộ địch. Trong chiến dịch, chiến đấu, Nguyễn Huệ chú ý đặc biệt đến vấn đề xác định thật đúng đắn hướng chủ yếu để tập trung lực lượng vào hướng ấy. Đó là nghệ thuật tạo nên ưu thế cục bộ. Cho nên thông thường, về toàn cục, quân đội Nguyễn Huệ ở vào thế kém về số lượng, nhưng trước cục bộ trọng điểm, cục bộ có ý nghĩa quyết định đến toàn cục bao giờ Nguyễn Huệ cũng đạt tới thế mạnh cao độ. Phương pháp nói trên về thực chất là phương pháp tập trung lực lượng tạo thành thế mạnh vu hồi bao quanh địch trên nhiều mặt, lần lượt tiêu diệt từng bộ phận địch. Ưu điểm của phương pháp này là tiêu diệt địch, chứ không đánh ta, đẩy lùi địch, giải quyết nhanh, chứ không chậm chạp, kéo dài chiến đấu hoặc chiến dịch. Đối với Nguyễn Huệ tập trung lực lượng tạo thành thế mạnh, bao vây vu hồi và tiêu diệt địch có quan hệ chặt chẽ với nhau, không tập trung và tạo thành thế mạnh, không bao vây vu hồi thì không thể đạt tới tiêu diệt toàn bộ địch. Tư tưởng đánh tiêu diệt còn thể hiện trong bố trí thế trận (chiến đấu và chiến dịch) của Nguyễn Huệ. Đó là cách bố trí có điểm chính, có điểm phụ và luôn luôn nắm giữ một đội dự bị quan trọng. Cách bố trí đó thể hiện tư tưởng tập trung tiến công trên một điểm, đồng thời tiến công trên nhiều mặt trận. Do đó điểm chính vfa điểm phụ hiệp đồng rất chặt chẽ, tác động lẫn nhau. Các lực lượng bố trí trên điểm chính và điểm phụ đều nỗ lực tiến công vào một mục tiêu để giành thắng lợi chung, đồng thời mọi hành động trên các mặt đều nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho thắng lợi có ý nghĩa quyết định nhất, tại một điểm. Nguyễn Huệ nắm vững đội dự bị để giữ vững quyền chủ động và có tài đặc biệt để sử dụng nó một cách linh hoạt. Mỗi lần ông tung đội dự bị vào chiến đấu thường là quyết định kết cục của chiến dịch và chiến đấu. Tư tưởng đánh tiêu diệt còn biểu hiện ở sự vận dụng chiến thuật một cách cơ động, linh hoạt và đánh địch thật bất ngờ. Nguyễn Huệ nắm rất chắc thời cơ chiến đấu, hiểu rõ đặc tính chiến thuật của địa hình và biết sử dụng bộ đội mình một cách chính xác nhất. Quân đội do ông chỉ huy có tính cơ động rất cao, đồng thời sử dụng thông thạo các hình thức chiến thuật một cách kịp thời. Bất kì chiến đấu trong điều kiện nào Nguyễn Huệ luôn luôn gây bất ngờ cho địch, do đó ông nắm vững được thế mạnh và giữ được quyền chủ động, địch có chuẩn bị thì ông đánh lừa địch. Địch chuẩn bị nơi này, ông đánh nơi khác, địch chuẩn bị chu đáo vào thời gian này, ông đánh vào thời gian khác.
  30. Tư tưởng đánh tiêu diệt của Nguyễn Huệ còn biểu hiện ở việc khéo léo sử dụng các quân, binh chủng và giỏi tổ chức hiệp đồng chặt chẽ động tác của các quân, binh chủng tham gia chiến dịch và chiến đấu. Đồng thời Nguyễn Huệ biết tính toán một cách chính xác sự hiệp đồng theo thời gian, địa điểm của các quân, binh chủng đó. Tư tưởng đánh tiêu diệt còn biểu hiện ở sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt trước khi mở chiến dịch. Thông thường thời gian chuẩn bị của Nguyễn Huệ dài hơn thời gian tác chiến: chuẩn bị thật kĩ lưỡng để đánh nhanh, giải quyết nhanh, ông luôn luôn duy trì quân đội mình ở tình trang sẵn sàng chiến đấu cao độ, khi cần thiết, ông chỉ hạ lệnh là quân đội sẵn sàng hoàn thành nhiệm vụ. Đó cũng là tư tưởng đánh có chuẩn bị, đánh chắc thắng. Cuối cùng tư tưởng đánh tiêu diệt còn biểu hiện ở sự rèn luyện tác phong chiến đấu dũng cảm, mãnh liệt, thần tốc, độc lập xử trí, liên tục chiến đấu, mưu trí linh hoạt. Binh sĩ trong quân đội Nguyễn Huệ có tinh thần chiến đấu cao, lại có trình độ chiến thuật, kĩ thuật khá, có trình độ kỷ luật tốt. Những điều đó thể hiện trong tác phong chiến đấu. Có thể nói rằng không có tư tưởng tích cực tiêu diệt địch thì không thể có tác phong đó. Ngược lại, không rèn luyện tác phong chiến đấu, thì cũng không thể thực hiện được đánh tiêu diệt. Với tư tưởng ấy, với sự chỉ đạo thiên tài của Nguyễn Huệ, quân đội Tây Sơn đã đánh là thắng lợi, đã đánh là đánh tiêu diệt nhanh chóng và gọn gàng. KẾT LUẬN Tất cả những chiến công rực rỡ, những chiến lược, chiến thuật tài tình của Nguyễn Huệ chứng tỏ ông là một trong những vị tướng tài bậc nhất của dân tộc Việt Nam chúng ta. Trong phần này chúng tôi không nhắc lại những gì đã trình bày ở phần trên để đánh giá Nguyễn Huệ, mà chỉ muốn cùng bạn đọc tìm hiểu thêm một số vấn đề có liên quan đến thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ. Một là Nguyễn Huệ là một tướng lĩnh của nông dân, xuất thân từ nông dân và hoạt động trong thời đại phong kiến, vậy thì ông đã có những gì là hạn chế của giai cấp, hạn chế của thời đại, và do những hạn chế ấy, ông đã có những khuyết điểm, nhược điểm gì về mặt quăn sự, hoặc về các hoạt động khác. Hai là những nguyên nhân gì, những yếu tố gì đã tạo thành thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ. Giải quyết được hai vấn đề trên chúng ta càng hiểu sâu sắc thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ, đồng thời đánh giá được thật đúng thiên tài quân sự của ông. Vấn đề thứ nhất, những hạn chế của giai cấp, hạn chế của thời đại đối với con người Nguyễn Huệ, trước hết chúng ta phải thừa nhận rằng Nguyễn Huệ là con đẻ của phong trào nông dân Tây Sơn. Không có nông dân vùng Qui Nhơn, Tây Sơn và nông dân cả nước nổi dậy vào cuối thế kỷ XVIII thì không thể có Nguyễn
  31. Huệ xuất hiện trong lịch sử như một lãnh tụ kiệt xuất của nông dân, một anh hùng cứu nước vĩ đại của dân tộc. Không có phong trào nông dân Tây Sơn lớn mạnh, được sự tham gia nhiệt liệt của đông đảo quần chúng, thì thiên tài Nguyễn Huệ cũng không có điều kiện để nảy nở. Cho nên đánh giá Nguyễn Huệ không thể tách ông khỏi phong trào nông dân Tây Sơn. Sự nghiệp hiển hách của Nguyễn Huệ là sự nghiệp vĩ đại của phong trào nông dân Tây Sơn, hoặc có thể nói rõ hơn là sự nghiệp vĩ đại của nông dân Việt Nam trong điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội Việt Nam vào cuối thế kỷ XVIII. Những hạn chế về giai cấp, về thời đại của phong trào nông dân Tây Sơn, cũng đồng thời là những hạn chế đối với tài năng, với đường lối chỉ đạo phong trào của Nguyễn Huệ. Những khuyết điểm, nhược điểm của phong trào nông dân Tây Sơn cũng là những khuyết điểm của bản thân Nguyễn Huệ, người lãnh tụ tối cao của phong trào. Điều đó là tất nhiên. Nhận xét về mặt cách mạng xã hội và những kết quả cuối cùng của phong trào, cuộc khởi nghĩa Tây Sơn rõ ràng đã có những hạn chế nhất định của nó. Phong trào nông dân Tây Sơn đã không xóa bỏ được chế độ phong kiến, không đưa được xã hội Việt Nam lên một bước phát triển mới của lịch sử và cuối cùng bản thân phong trào cũng đi vào con đường tan rã như một tập đoàn phong kiến đến bước suy vong. Đó không phải là những sai lầm chủ quan của phong trào nông dân Tây Sơn mà là do những hạn chế của giai cấp của lịch sử, của thời đại quyết định và Nguyễn Huệ, người lãnh đạo phong trào, cũng không thể tránh khỏi những hạn chế ấy. Trong công cuộc xay dựng đất nước, mặc dù ông đã cố gắng đề ra nhiều biện pháp tích cực về mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, nhưng nó cũng không thể thoát ra được ngoài khuôn khổ của chế độ phong kiến. Chính quyền do nghĩa quân Tây Sơn lập nên tuy gọi là chính quyền của nông dân, nhưng tham gia chính quyền chủ yếu vẫn là các giai cấp phong kiến: bộ máy hành chính trong cả nước từ triều đình cho tới các địa phương vẫn chưa thể trao cho ai khác ngoài giai cấp phong kiến. Chính vì thế mà sau khi người lãnh tụ tối cao của phong trào Nguyễn Huệ chết đi, phong trào lập tức thoái trào, chính quyền Tây Sơn mau chóng đi tới sụp đổ. Nhược điểm trên đây là nhược điểm cơ bản nhất, không những nó là nhược điểm của phong trào Tây Sơn, của lãnh tụ Nguyễn Huệ mà còn là nhược điểm chung của tất cả các phong trào nông dân khởi nghĩa đã xuất hiện trong thời kì phong kiến. Bên cạnh những điểm cơ bản ấy, do hoàn cảnh khách quan tạo nên, Nguyễn Huệ có thể có những thiếu sót khách quan gì không? Là một lãnh tụ của phong trào nông dân, đấu tranh theo yêu cầu của giai cấp nông dân, trong điều kiện chưa có một lý luận cách mạng tiên tiến soi đường, Nguyễn Huệ nhất định không tránh khỏi thiếu sót. Những hạn chế của giai cấp đã làm cho nhãn quan chính trị của ông bị hạn chế. Có những khi ông đã nhìn phong trào Tây Sơn không trên toàn cục của
  32. nó, do đó đường lối lãnh đạo phong trào của ông nhiều khi không toàn diện. Nhiều khi ông đã không phát huy hết tính tích cực và khả năng phong phú của ông để đẩy phong trào Tây Sơn tiến lên hơn nữa vfa giúp cho phong trào phát triển được đồng đều ở mọi nơi, mọi lúc. Trong mấy chục năm trời hoạt động, thành tích của phong trào Tây Sơn chủ yếu là thành tích quân sự, và những thành tích ấy đều liên quan chặt chẽ tới thiên tài quân sự, với uy dánh, đức độ của cá nhân Nguyễn Huệ, do đấy phong trào Tây Sơn đã phát triển không đều. Chỗ nào có Nguyễn Huệ thì phong trào mạnh, chỗ nào vắng ông thì phong trào yếu, chỗ nào có ông thì đánh thắng địch thật oanh liệt, chỗ nào không có ông thì chiến đấu rất khó khăn, chật vật, hoặc thất bại hoàn toàn, hoặc bị địch uy hiếp nghiêm trọng, điều đó nói lên rằng tài năng cá nhân của Nguyễn Huệ đã đóng vai trò có tính chất quyết định vận mệnh của phong trào nông dân Tây Sơn. Đường lối lãnh đạo chung của toàn bộ phong trào Tây Sơn, tuy có phản ánh được ý nguyện của nông dân, của dân tộc Việt Nam, phản ánh được thực tế của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ, nhưng phần lớn cũng phụ thuộc vào tài của Nguyễn Huệ. Vận mệnh của cả một phong trào mà phần lớn lệ thuộc vào tài năng của một người thì phong trào không thể tránh khỏi khả năng sụp đổ một khi phong trào vắng bóng người đó. Anh hùng Nguyễn Huệ, ngoài thiên tài quân sự, còn có nhiều khả năng lãnh đạo trên nhiều mặt: chính trị, ngoại giao, kinh tế văn hóa .hơn ba năm xây dựng Bắc Hà thắng lợi, sau khi chiến thắng quân Thanh, đã chứng tỏ rất rõ những khả năng đó của Nguyễn Huệ. Nhưng trong suốt 15 năm hoạt động ở phía Nam, kể từ khi phong trào Tây Sơn quật khởi vào năm 1771 cho tới khi Nguyễn Huệ ra đánh Bắc Hà, thống nhất đất nước năm 1786, Nguyễn Huệ chỉ đơn thuần làm nhiệm vụ của một người tướng, hoàn toàn đặt dưới quyền chi phối của Nguyễn Nhạc, ông đã không phát huy tác dụng của mình là một trong ba lãnh tụ của phong trào.Chính vì thế mà trong thời gian dài đó, bao gồm ba phần tư đời hoạt động chiến đấu của Nguyễn Huệ, lịch sử đã không ghi được những thành tích gì khác của ông và của phong trào, ngoài những thành tích về quân sự. Đành rằng trong thời gian này những hoạt động của Nguyễn Huệ còn bị uy quyền của Nguyễn Nhạc khống chế, nhưng với cương vị của ông, vừa là người có công lao lớn nhất, có uy tín nhất đối với phong trào, vừa là em ruột của Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ vẫn có khả năng thuyết phục Nguyễn Nhạc trong một chừng mực nhất định, để làm theo một phần nào những chủ trương, đường lối chiến đấu của ông, Nguyễn Huệ đã không phát huy tính tích cực của ông về các mặt đó. Thật là điều đáng tiếc. Trong 15 năm hoạt động ở phía Nam, Nguyễn Huệ đã có nhiều lần đem quân vào Gia Định, lập được những chiến công rực rỡ, giải phóng được Gia Định, đánh tan được quân Nguyễn. Nhưng thường thường đánh thắng giặc tháng trước thì tháng sau Nguyễn Huệ rút quân về Qui Nhơn ngay, ông coi nhiệm vụ làm tướng của ông như thế là hoàn thành, ông không quan tâm lắm đến các phong trào
  33. ở Gia Định, củng cố Gia Định thành một căn cứ vững chắc cho phong trào. Do đấy lần nào cũng vậy, Nguyễn Huệ rút quân khỏi Gia Định thì lập tức bọn phản động nhà Nguyễn lại tập hợp lực lượng, giành lại ngay miền Gia Định về tay chúng. Để Gia Định luôn luôn mất vào tay bọn phản động, trách nhiệm chính là ở Nguyễn Nhạc. Nguyễn Nhạc đã có những đường lối, chủ trương sai, có những thái độ và hành động không đúng, do những hạn chế về tài năng và đạo đức của Nguyễn Nhạc gây nên. Nhưng Nguyễn Huệ không phải là không có phần thiếu sót của mình, đứng về phía người làm tướng, hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu, tuân theo lệnh trên, chấp hành kỷ luật của người làm tướng, như thế là rất đúng. Nhưng đứng về phía là một người lãnh đạo phong trào thì những hành động đơn thuần của Nguyễn Huệ ở miền Gia Định như vậy chưa đủ để giúp phong trào Tây Sơn hoàn thành nhiệm vụ của mình ở nơi đó. Thiếu sót này của Nguyễn Huệ cũng là thiếu sót chung của phong trào Tây Sơn đối với miền Gia Định. Do đó Nguyễn ánh đã có điều kiện trở lại khôi phục quyền thống trị của chúng sau này. Từ năm 1787 trở đi, tức là sau khi Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ cùng chia sẻ quyền lãnh đạo thì phong trào Tây Sơn hình thành hai bộ phận rõ rệt: không phải là hai bộ phận chống đối nhau nhưng là hai bộ phận phát triển không đều nhau: một bộ phận của phong trào Tây Sơn ở phía Bắc từ Thuận Hóa trở ra đặt dưới quyền lãnh đạo của Nguyễn Huệ thì phát triển mạnh mẽ, làm nên những sự nghiệp vô cùng hiển hách, mà bộ phận ở phía Nam từ Quảng Nam, Qui Nhơn vào Gia Định đặt dưới quyền cai quản của Nguyễn Nhạc và Nguyễn Lữ thì suy yếu một cách nghiêm trọng và ngày càng nguy khốn trước những tấn công liên tiếp của bọn phản động Nguyễn Ánh. Tình trạng phong trào Tây Sơn phát triển một cách không đồng đều như vậy báo hiệu một sự sụp đổ nhất định của phong trào một khi Nguyễn Huệ chết đi. Trong những năm 1787, 1788, Gia Định bị Nguyễn Ánh tấn công dữ đội, Nguyễn Nhạc đã nhiều lần cầu cứu Nguyễn Huệ, tự hạ mình xuống làm Tây vương, trông coi một phủ Qui Nhơn và giao quyền lãnh đạo toàn bộ phong trào Tây Sơn cho Nguyễn Huệ. Trước tình hình đó, Nguyễn Huệ đã quyết định chuẩn bị đưa quân vào Gia Định, đánh Nguyễn Ánh, giải phóng Gia Định trả thù cho anh. Thái độ và hành động ấy của Nguyễn Huệ là rất đúng. Nhưng nếu như, trong khi Nguyễn Huệ chưa có điều kiện đưa quân vào Gia Định mà Nguyễn Huệ quan tâm hơn nữa đến việc củng cố phong trào Tây Sơn từ Quảng Bình vào Bình Thuận, đẩy mạnh phong trào ở đây lên hơn nữa, đưa vào thực hiện ở đó những chính sách chính trị, kinh tế, văn hóa đã được thi hành ở miền Bắc, trực tiếp xây dựng lại lực lượng quân sự đủ sức đối phó với những âm mưu tấn công của Nguyễn Ánh lên khu vực Bình Thuận, Qui Nhơn, thì dù Nguyễn Huệ có chết sớm, kế hoạch tiến đánh Gia Định của Nguyễn Huệ chưa thực hiện được, cục diện chiến tranh xảy ra sau khi Nguyễn Huệ đã chết, chưa chắc đã có lợi hẳn cho bọn phản động, sự tan rã của phong trào Tây Sơn, dù không thể tránh được nhưng có thể kéo dài thêm một thời gian nữa. Đó cũng là một điều đáng tiếc.
  34. Những thiếu sót trên đây của Nguyễn Huệ là những hạn chế về khả năng lãnh đạo của ông.Và những hạn chế ấy cũng là con đẻ của những hạn chế giai cấp của ông mà ông không thể tự mình vượt ra khỏi. Nhìn chung lại, hơn hai mươi năm tung hoành ngang dọc khắp đất nước, phong trào Tây Sơn đã làm nên nhiều sự nghiệp vẻ vang, nhưng phong trào Tây Sơn cũng như người lãnh đạo xuất sắc của phong trào là Nguyễn Huệ đã không làm đổi mới được xã hội Việt Nam ở cuối thế kỷ XVIII, không thực sự giải phóng được nông dân thoát khỏi ách phong kiến, và dù muốn hay không, tự mình cũng không thể tránh được con đường phong kiến hóa. Khuyết điểm, nhược điểm chủ yếu của phong trào nông dân Tây Sơn là như vậy, và những hạn chế của giai cấp, của lịch sử, của thời đại đối với sự nghiệp lãnh đạo cách mạng của Nguyễn Huệ cũng chính là như vậy. Nhưng dù phong trào có những hạn chế như thế nào chăng nữa, đứng về mặt đấu tranh vũ trang chống phong kiến mà nhận xét, chúng ta nhất thiết phải khẳng định rằng: phong trào nông dân Tây Sơn là một phong trào vũ trang chống phong kiến lớn mạnh nhất, vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam. Vĩ đại ở chỗ, trong thời gian chưa đầy hai mươi năm, phong trào Tây Sơn liên tiếp đánh bại cả ba tập đoàn phong kiến đã nắm quyền thống trị đất nước ta từ lâu đời, hai họ Trịnh, Nguyễn từ trên hai trăm năm, họ Lê từ gần bốn trăm năm, đánh những đòn quyết định vận mệnh của chế độ phong kiến mà gốc rễ đã ăn sâu vào xã hội Việt Nam từ trên một ngàn năm lịch sử, làm cho xã hội phong kiến Việt Nam phải lung lay và chờ ngày sụp đổ hẳn. Phong trào Tây Sơn còn vĩ đại ở chỗ nó đã giành được chủ quyền trong cả nước về tay nông dân trong mấy chục năm liền, một việc mà các phong trào nông dân khác trong thời kì phong kiến đã không làm được. Đứng về mặt hoàn thành những nhiệm vụ lớn lao của thời đại lịch sử lúc ấy là chống ngoại xâm và thống nhất đất nước mà nhận xét, chúng ta cũng phải khẳng định rằng phong trào Tây Sơn đã có những công lao vô cùng to lớn đối với dân tộc, với Tổ quốc. Với chiến thắng Rạch Gầm- Xoài Mút đầu năm 1785 phong trào Tây Sơn đã làm tiêu tan mưu đồ của phong kiến Xiêm muốn chiếm đoạt lãnh thổ miền Nam nước ta và với chiến thắng hai mươi vạn quân Thanh đầu năm 1789, phong trào Tây Sơn đã vĩnh viễn chấm dứt nạn xam lăng của các tập đoàn phong kiến phương Bắc không ngừng đe dọa đến nền độc lập của dân tộc Việt Nam trong suốt mấy nghìn năm trước. Nước nhà từ những cuộc Lê- Mạc phân tranh đến Trịnh- Nguyễn phân tranh, đã phải trãi quan gần 300 năm chia cắt. Chỉ với những chiến thắng lừng lẫy của phong trào Tây Sơn suốt từ Nam ra Bắc, đất nước ta mới được thống nhất, ranh giới chia cắt mới được xóa bỏ. Công lao của phong trào nông dân Tây Sơn đối với nền thống nhất nước nhà ở cuối thế kỷ XVIII thật vô cùng to lớn. Với những sự nghiệp vĩ đại ấy, phong trào nông dân Tây Sơn đã giữ một vị trí vô cùng vẻ vang trong lịch sử cách mạng của người nông dân Việt Nam. Cũng có thể nói rằng, trên thế giới rất ít phong trào nông dân có thể đồng thời làm được cả hai nhiệm vụ giải
  35. phóng nông dân, giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước, như phong trào nông dân Tây Sơn ở Việt Nam cuối thế kỷ XVIII. Nguyễn Huệ, người lãnh tụ phong trào Tây Sơn vĩ đại ấy đã vừa là lãnh tụ kiệt xuất của nông dân, vừa là một anh hùng vĩ đại của dân tộc, vừa là một tướng lĩnh tài giỏi bậc nhất của thời đại. Ông đã đưa phong trào tiến tới hoàn thành mọi nhiệm vụ vĩ đại mà lịch sử đã trao cho. Ông đã lãnh đạo nông dân lần lượt đánh đổ mọi tập đoàn phong kiến ở trong nước, lập lại nền thống nhất của đất nước. Ông đã đánh tan mọi cuộc xâm lăng và can thiệp vũ trang của nước ngoài, giữ vững nền độc lập của Tổ quốc. Trong hai mươi năm chiến đấu liên tục Nguyễn Huệ chỉ có thắng mà không có bại. Mặc dù kẻ địch đông mạnh, hung hãn đến đâu, Nguyễn Huệ cũng chỉ bằng một chiến dịch chớp nhoáng là hoàn toàn tiêu diệt địch. Với quyết tâm chiến đấu vì lợi ích của quần chúng, vì lợi ích của Tổ quốc, Nguyễn Huệ lúc nào cũng được đông đảo quần chúng ủng hộ, lúc nào cũng được nhân dân cả nước đồng tình. Cho nên trong mọi trận chiến đấu, đứng trước mọi kẻ thù của dân tộc, của giai cấp, Nguyễn Huệ đã đánh là thắng, quân thù nào cũng phải ngã gục trước ý trí quyết chiến quyết thắng vô cùng mãnh liệt của ông. Những chiến công rực rỡ của ông đã vang dội khắp non sông, lẫy lừng khắp trong nước, ngoài nước. Trong chiến đấu, quần chúng ủng hộ ông, thời đại ủng hộ ông. Nguyễn Huệ đã trở thành một danh tướng bách chiến bách thắng, một danh tướng bậc nhất của quần chúng, của thời đại, ông xứng đáng đứng hiên ngang bên cạnh những vị tướng giỏi trên thế giới ở mọi thời đại. Thiên tài quân sự của ông phục vụ những sự nghiệp lịch sử cao cả, đã phát triển vô cùng mạnh mẽ, đem lại cho phong trào Tây Sơn và dân tộc ta những chiến thắng oanh liệt bậc nhất trong thời đại phong kiến. Những hoạt động chiến đấu và đạo đức người làm tướng của Nguyễn Huệ đều là những bài học lớn cho chúng ta ngày nay và những đời sau học tập. Thiên tài quân sự Nguyễn Huệ là thiên tài nảy nở trong phong trào quần chúng, trong chiến đấu, trung thành với lợi ích của quần chúng, với sự nghiệp chiến đấu ngoan cường bất khuất của dân tộc, thiên tài đó là kế thừa những truyền thống quân sự ưu tú của dân tộc và góp phần phát huy rực rỡ hơn nữa những truyền thống ưu tú ấy. Vấn đề thứ hai là thiên tài quân sự Nguyễn Huệ vĩ đại như vậy nhưng từ đâu mà có. Thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ thật là kì diệu, không những vượt ra ngoài khả năng của con người. Bản thân Nguyễn Huệ chỉ là con đẻ của phong trào nông dân Tây Sơn thì thiên tài quân sự Nguyễn Huệ cũng là từ thực tế chiến đấu mà nảy sinh ra. Không có phong trào nông dân Tây Sơn, không trung thành với những nhiệm vụ của phong trào, không có quyết tâm hy sinh chiến đấu liên tục trong mấy chục năm trời, vì lợi ích của phong trào, lợi ích của quần chúng, lợi ích của dân tộc, thì thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ không thể hình thành và phát triển, không thể đưa Nguyễn Huệ tới những chiến công vô cùng rực rỡ như chúng