Tài liệu Thi pháp thơ Đường

pdf 54 trang hapham 2130
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu Thi pháp thơ Đường", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdftai_lieu_thi_phap_tho_duong.pdf

Nội dung text: Tài liệu Thi pháp thơ Đường

  1. ĐẠI HỌC HUẾ TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA NGUYỄN THỊ BÍCH HẢI Thi pháp THƠ ĐƯỜNG (Sách dùng cho hệ đào tạo từ xa) Huế: 2007 1
  2. PHẦN MỘT: NHỮNG TIỀN ĐỀ LỊCH SỬ VÀ LÝ LUẬN I − MỤC ĐÍCH VÀ Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU THI PHÁP THƠ ĐƯỜNG Thơ Đường là một thành tựu tiêu biểu của văn học Trung Quốc. Do đó hơn ngàn năm nay đã có nhiều công trình nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước lấy thơ Đường làm đối tượng. Tuy vậy, các nhà nghiên cứu thơ Đường trước đây hoặc chỉ xét nội dung tư tưởng của thơ Đường, hoặc chỉ xét từng phương diện của hình thức thể hiện. Cũng có nhà nghiên cứu đi sâu vào từng loại thể hoặc từng tác giả cụ thể, nhưng chưa khảo sát thi pháp với tư cách là một hệ thống. Chuyên đề này nghiên cứu thi pháp thơ Đường tức là có mục đích khảo sát, phát hiện, miêu tả những quy luật của hệ thống hình thức thể hiện hệ thống nội dung của thơ Đường. Việc xác định sự phát triển của nội dung tư tưởng thơ Đường qua các giai đoạn và các thi phái, chúng ta đã thực hiện khi nghiên cứu lịch sử văn học Trung Quốc. Do đó chuyên đề này chỉ đi sâu khám phá quy luật của hệ thống hình thức trong mối liên hệ với hệ thống nội dung đã được xác định. - Tại sao thơ trữ tình lãng mạn đời Đường lại thường tìm đến sự tương thông, hoà hợp giữa con người với thiên nhiên, với thế giới ngoại cảnh ? Bằng cách nào nó thực hiện được điều đó ? - Tại sao dòng thơ phản ánh hiện thực đời Đường lại thường phản ánh những bất công xã hội với những hình tượng đối lập ? Và vì sao thể cách của nó lại khác với thơ trữ tình lãng mạn ? - Cái gì làm nên sự hấp dẫn của thơ Đường ? - Cái mã nghệ thuật của nó được lập nên bởi những phương tiện nào ? Trả lời những câu hỏi đó tức là tìm ra cái lý của hình thức, tìm ra hệ thống thi pháp. Đó chính là mục đích của việc nghiên cứu thi pháp thơ Đường. Muốn thể hiện, phản ánh một nội dung nào đó, tác giả phải sử dụng một hình thức tương ứng, thích hợp. Việc sử dụng một hình thức này hay một hình thức khác đều có lý do của nó chứ không phải là ngẫu nhiên, tuỳ tiện. Tìm ra được cái lý này, giải thích được tính quy luật của hệ thống hình thức sẽ giúp chúng ta hiểu thơ Đường một cách chính xác và khách quan. Ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu thi pháp thơ Đường chính là ở chỗ nó giúp chúng ta lý giải các hiện tượng, phân tích các bài thơ một cách khách quan, chính xác, tránh sự áp đặt, khiên cưỡng. Nó giúp ta hiểu, phân tích và giảng các bài thơ một cách chính xác và có sức thuyết phục hơn. Mặt khác, vì thơ Đường là đỉnh cao của thơ cổ điển Trung Quốc, nó có ảnh hưởng sâu sắc đến thơ Trung Quốc các đời sau và cả đối với thơ Việt Nam trong thời phong kiến nên nắm được thi pháp thơ Đường, ta cũng có điều kiện để lý giải nhiều hiện tượng của thi pháp thơ cổ điển Việt Nam. Do đó, việc ứng dụng những kết quả của nghiên cứu thi pháp thơ Đường cũng sẽ được mở rộng. Nói cách khác, nghiên cứu thi pháp thơ Đường có ý nghĩa thực tiễn, thiết thực đối với những người làm công tác nghiên cứu và giảng dạy văn học. 2
  3. II − THẾ NÀO LÀ THI PHÁP HỌC VÀ THI PHÁP Gần đây, việc nghiên cứu thi pháp trở nên phổ biến ở nước ta. Điều này cũng có nhiều nguyên nhân. Trong một thời gian dài, do những hoàn cảnh và nhu cầu lịch sử - xã hội, trong nghiên cứu văn học, chúng ta chủ yếu quan tâm đến nội dung tư tưởng, còn hình thức chưa được quan tâm một cách thích đáng. Đành rằng ở mọi sự vật, hiện tượng, quá trình, nội dung vẫn là cái cơ bản, quyết định ; nhưng thực ra sự tồn tại của nội dung không thể tách rời được hình thức, vì hình thức là hình thức của nội dung. Do đó không quan tâm đến hình thức thì cũng là phiến diện và thiếu biện chứng. Việc nghiên cứu thi pháp chính là để khắc phục sự phiến diện đó. Nhưng nếu sự nghiên cứu hình thức tách rời cơ sở nội dung thì cũng lại sa vào một phiến diện khác. Hệ thống hình thức mà thi pháp học chọn làm đối tượng nghiên cứu luôn luôn phải gắn với hệ thống nội dung xác định. Vậy, thi pháp và thi pháp học là gì ? Từ điển bách khoa Xô viết ở mục Thi pháp học đã định nghĩa: "Thi pháp học (từ tiếng Hi Lạp poetike: nghệ thuật thơ ca) là một bộ phận của lý luận văn học nghiên cứu cấu trúc của tác phẩm văn học và hệ thống phương thức mỹ học được sử dụng trong đó. Thi pháp học bao gồm các bộ phận : - Thi pháp học đại cương : nghiên cứu các phương thức nghệ thuật và những quy luật cấu thành tác phẩm, những cách thức thể hiện ý đồ tác giả phụ thuộc vào loại thể văn học. - Thi pháp học miêu tả : chỉ ra những đặc điểm cụ thể của các tác phẩm, của các tác giả hoặc của các thời kỳ và các xu hướng. - Thi pháp học lịch sử : nghiên cứu sự phát triển của các phương thức nghệ thuật (các kiểu chuyển nghĩa, các cách tu từ, vận luật, thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật, nhịp điệu, ). Theo nghĩa rộng, thi pháp học tương hợp với lý luận văn học. Theo nghĩa hẹp nó tương hợp với sự nghiên cứu ngôn ngữ thơ ca, cách nói nghệ thuật". Mục Thi pháp học và thi pháp trong Từ điển thuật ngữ văn học (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, Chủ biên) định nghĩa : "Thi pháp học là khoa học nghiên cứu thi pháp, tức hệ thống phương thức, phương tiện biểu hiện đời sống bằng hình tượng nghệ thuật trong sáng tác văn học. Mục đích của thi pháp học là chia tách và hệ thống hoá các yếu tố của văn bản nghệ thuật tham gia vào sự tạo thành thế giới nghệ thuật, ấn tượng thẩm mỹ, chiều sâu phản ánh của sáng tạo nghệ thuật. Xét các chỉnh thể văn học mang thi pháp có thể nói tới thi pháp tác phẩm cụ thể, thi pháp sáng tác của một nhà văn, thi pháp một trào lưu, thi pháp văn học dân tộc, thi pháp văn học một thời đại, thời kỳ lịch sử. Xét các phương tiện, phương thức nghệ thuật đã được chia tách, có thể nói tới thi pháp của thể loại, thi pháp của phương pháp, thi pháp của phong cách thi pháp kết cấu, thi pháp không gian, thời gian, thi pháp ngôn ngữ, Xét về cách tiếp cận, thi pháp học có ba phạm vi nghiên cứu : - Thi pháp học đại cương (còn gọi là thi pháp học lý thuyết, thi pháp học hệ thống hoá hay thi pháp học vĩ mô) - Thi pháp học chuyên biệt (hay còn gọi là thi pháp học miêu tả vi mô). - Thi pháp học lịch sử. 3
  4. - Thi pháp học chuyên biệt tiến hành việc miêu tả tất cả các phương diện nói trên (tức thi pháp thể loại, không gian, thời gian, kết cấu, ngôn ngữ, mô típ, ) của sáng tác văn học nhằm xây dựng "mô hình"- hệ thống cá biệt của các thuộc tính tác động thẩm mỹ. Vấn đề ở đây chính là các tương quan của tất cả các yếu tố nói trên trong một chỉnh thể nghệ thuật. Thi pháp học chuyên biệt có thể miêu tả tác phẩm văn học cá biệt cũng như cụm tác phẩm trong sáng tác của một nhà văn, của một loại thể, một trào lưu văn học hoặc một thời đại văn học. Thi pháp học giúp ta công cụ để thâm nhập vào cấu trúc tác phẩm, cốt cách tư duy của tác giả cũng như nắm bắt "mã" văn hoá nghệ thuật của các tác giả và các thời kỳ văn học nghệ thuật, từ đó nâng cao năng lực thụ cảm tác phẩm. Thi pháp học cổ xưa nặng về tính chất quy phạm, cẩm nang. Thi pháp học hiện đại nặng về phát hiện, miêu tả các ngôn ngữ nghệ thuật đang hình thành và song hành với sự vận động của văn học" (1). Từ hai định nghĩa trên ta thấy, tuy hai cách diễn đạt có chỗ khác nhau nhưng quan niệm về thi pháp và thi pháp học căn bản là nhất trí : - Thi pháp là hệ thống các phương thức, phương tiện biểu hiện đời sống bằng hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm văn học. Hệ thống đó có thể chia tách thành các phương diện - (yếu tố) : thể loại, kết cấu, không gian, thời gian, ngôn ngữ. - Thi pháp học là khoa học nghiên cứu hệ thống thi pháp đó. - Thi pháp học có ba bộ phận, trong đó, thi pháp học chuyên biệt có nhiệm vụ miêu tả các phương diện của thi pháp tác phẩm, tác giả, trào lưu, thời đại, dân tộc. Nói tóm lại, thi pháp học nghiên cứu hệ thống hình thức (tức thi pháp = nghệ thuật) biểu hiện hệ thống nội dung của các tác phẩm tác giả, tràn lưu, thời đại, dân tộc, III − ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Chuyên đề này có nhiệm vụ ứng dụng những lý thuyết của thi pháp học để nghiên cứu thi pháp thơ Đường. Có nghĩa là nghiên cứu thi pháp chuyên biệt của một thời đại thơ ca Trung Quốc bằng cách phát hiện, miêu tả đặc trưng của các yếu tố : hình tượng thẩm mỹ (con người), không gian, thời gian nghệ thuật, thể loại, kết cấu và ngôn ngữ, của thơ Đường. Do chỗ đối tượng nghiên cứu là thi pháp chuyên biệt của một thời đại thơ ca nên phương pháp chủ yếu để tiến hành là: miêu tả đặc điểm của các yếu tố hình thức một cách hệ thống để xác định tính chỉnh thể của hệ thống thi pháp. Để xác định đặc trưng của hệ thống này, cần phải tiến hành so sánh sự phát triển và mối liên hệ đồng đại và lịch đại của các yếu tố, do đó phương pháp so sánh - lịch sử cũng được sử dụng bên cạnh phương pháp chủ đạo là phương pháp hệ thống. Sở dĩ phương pháp hệ thống được sử dụng với tư cách chủ đạo là do tính chất của đối tượng nghiên cứu. Bản thân thi pháp là một hệ thống, các yếu tố phải được xác định trong mối liên hệ tương quan của chúng trong hệ thống, nếu tách biệt, chúng không có ý nghĩa. (Câu chuyện sau đây có thể cho thấy tầm quan trọng của mối liên hệ giữa các yếu tố và hệ thống: (1) Lê Bá Hán - Nguyễn Khắc Phi - Trần Đình Sử, Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, H., 1992, tr.206 − 207. 4
  5. Vì muốn mượn Kinh Kha hành thích Tần Thuỷ Hoàng, Thái tử Đan (nước Yên) rất trọng đãi chàng. Một lần nghe Kinh Kha khen đôi tay của một mỹ nhân trong hậu cung của Thái tử, Thái tử Đan liền chặt tay của người đẹp, đặt lên một chiếc khay, tặng cho Kinh Kha. Tráng sĩ rùng mình. Đôi tay sở dĩ đẹp vì nó là của người đẹp, là một bộ phận đẹp trong một toàn thể đẹp. Chặt lìa "yếu tố" đôi tay thì thật là tàn ác và chỉ còn gây nên nỗi khủng khiếp). Lại nữa, các phương pháp hỗ trợ cũng có thể coi là những yếu tố của hệ thống phương pháp. Do đó, có thể nói, để nghiên cứu thi pháp cần sử dụng một hệ thống phương pháp (chẳng hạn phương pháp phân tích, thống kê, phân loại, so sánh - lịch sử) trong đó phương pháp hệ thống là chủ đạo. IV − ĐỜI ĐƯỜNG, THƠ ĐƯỜNG, VỊ TRÍ CỦA THI PHÁP THƠ ĐƯỜNG Trong lịch sử xã hội phong kiến Trung Quốc, đời Đường có một vị trí khá đặc biệt. Ở đời Đường, Trung Quốc là một quốc gia phát triển phồn vinh trên tất cả các phương diện : kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, nghệ thuật, Thời đó, các ngành nghệ thuật đều phát triển (hội hoạ, âm nhạc, vũ đạo, kiến trúc, điêu khắc, văn học, thư pháp), trong đó phát triển nhất là hội hoạ và văn học. Trong văn học thì thơ là bộ phận có thành tựu cao nhất. Người Trung Quốc cũng như thế giới đều công nhận thơ Đường là đỉnh cao của thơ ca nhân loại. Gần ba trăm năm tồn tại của nhà Đường, người Trung Quốc đã sáng tạo nên một nền thơ ca vĩ đại. Bộ Toàn Đường thi (biên soạn ở đời Thanh, cách hơn một ngàn năm sau) thu hợp 48.900 bài thơ của hơn 2300 nhà thơ. Con số thực có của thơ Đường chắc còn lớn hơn, vì bộ Toàn Đường thi được sưu tập sau hơn một ngàn năm với rất nhiều thăng trầm biến cố lịch sử. Nhưng đó là mới nói về số lượng. Cái quan trọng hơn là chất lượng nội dung và nghệ thuật của thơ Đường. Thơ Đường phản ánh một cách toàn diện xã hội đời Đường, thể hiện quan niệm nhận thức, tâm tình, của con người một cách sâu sắc, nội dung cực kỳ phong phú được thể hiện bằng hình thức hoàn mỹ. Thành tựu trên các phương diện của thơ Đường đều đạt đến đỉnh cao. Thơ Đường là tập đại thành của thơ cổ điển Trung Quốc cho nên những phương diện của thi pháp thơ cổ điển ở đây đều tiêu biểu. Trong cuốn Hán văn học sử cương yếu, Lỗ Tấn có nói: "Văn xuôi và thơ Trung Quốc đến Đường thì có một sự biến đổi lớn". Sự đột biến này là kết quả của một quá trình tích luỹ lâu dài những kinh nghiệm nghệ thuật của hơn mười thế kỷ thơ ca đã đến độ chín muồi. Sự đột biến này thể hiện ở kiểu tư duy nghệ thuật mới mẻ, độc đáo, tạo nên cái mốc quan trọng trên con đường phát triển của thơ ca Trung Quốc. 5
  6. PHẦN HAI: THI PHÁP THƠ ĐƯỜNG CHƯƠNG I: NGUYÊN NHÂN HƯNG THỊNH CỦA THƠ ĐƯỜNG VÀ NHỮNG TIỀN ĐỀ CỦA THI PHÁP Chương này nói về những điều kiện xã hội, lịch sử, tư tưởng, văn hoá, nghệ thuật làm cơ sở cho sự phồn vinh của thơ Đường và cũng là những tiền đề vật chất và văn hoá tinh thần của thi pháp thơ. 1. Nguyên nhân xã hội Nhà Đường tồn tại ba thế kỷ (618 - 907). Đây là thời kỳ chế độ phong kiến Trung Quốc đạt đến trình độ cực thịnh. Rút được kinh nghiệm của các triều đại trước, các ông vua đầu của nhà Đường đã thi hành những chính sách tương đối tiến bộ, tạo điều kiện cho sức sản xuất phát triển, kinh tế nhanh chóng được ổn định và phát triển chưa từng thấy. Trong khoảng thời gian từ Đường Thái Tông đến Đường Huyền Tông, Trung Quốc được sống trong thái bình an lạc. Arthur Waley trong bộ Bách khoa từ điển Anh đã nhận xét : "Trung Quốc đời Đường là nước lớn nhất, văn minh nhất thế giới"(1). Trong một đất nước phú cường như thế, tất nhiên trí thức, nghệ sĩ có đủ điều kiện để học tập, nghiên cứu, tu dưỡng và sáng tạo nghệ thuật. Nhưng trên cơ sở một quốc gia giàu mạnh, các ông vua đời Đường lại ra sức mở rộng các cuộc chiến tranh chinh phục các dân tộc láng giềng để bành trướng lãnh thổ. Những cuộc chiến tranh đã làm ảnh hưởng đến kinh tế xã hội, mặt khác cũng làm dấy lên tinh thần tự tôn dân tộc, tư tưởng Đại Hán. Lòng kiêu hãnh và tinh thần "Kiến công lập nghiệp" của một số tướng sĩ làm cho thơ biên tái thời kỳ này có một bộ phận rất hào hùng và cũng bộc lộ rõ tư tưởng Đại Hán của người Trung Quốc. Đồng thời chiến tranh muôn đời vẫn là tai hoạ của con người nên cũng làm nảy sinh dòng thơ phản đối chiến tranh ngay trong thơ biên tái. Đời Đường cực thịnh ở thời Khai Nguyên, Thiên Bảo của Đường Minh Hoàng. Nhưng sau khi đưa quốc gia phát triển cực thịnh, Đường Minh Hoàng đã trở thành một ông vua hưởng lạc và chính ông ta là người gây tai hoạ cho quốc gia. Loạn An Lộc Sơn đã đẩy Trung Quốc vào "thảm hoạ", "chiến tranh trời đất sụp" (Đỗ Phủ). "Tương truyền 36 triệu người mất mạng trong vụ đó" (2). "Dân số Trung Quốc sau biến cố này chỉ còn dưới 20 triệu" (3). Loạn An Lộc Sơn kéo dài chín năm thì bị dẹp nhưng từ đó, nhà Đường suy yếu. Mặc dù loạn nhà Đường còn tồn tại thêm 150 năm, nhưng về mọi mặt nó không thể nào lấy lại được sự thái bình thịnh trị như thời Thịnh Đường nữa. Tuy vậy, những nội ưu ngoại hạn này làm xã hội có những biến động cực kỳ to lớn, đặt thi nhân trước những hiện thực khắc nghiệt và đòi hỏi thơ ca phải phản ánh những hiện thực đó nên thơ chuyển hướng- từ lãng mạn ở thời Thịnh Đường sang khuynh hướng hiện thực ở thời Trung Đường. "Chưa thời nào thơ phát triển mạnh mẽ bằng thời bi thảm, chìm nổi đó"(W. Durant - Lịch sử văn minh Trung Hoa", Sđd). (1) Chuyển dẫn từ William James Durant (Mỹ), Lịch sử văn minh Trung Hoa, Trung tâm thông tin, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, 1990, tr. 25. (2) Lịch sử văn minh Trung Hoa, Sđđ. (3) Trương Chính − Nguyễn Khắc Phi, Văn học Trung Quốc, NXB Giáo dục, H., 1988, tr. 134. 6
  7. Xã hội phức tạp thời Trung Đường là bối cảnh trực tiếp của khuynh hướng thơ hiện thực thời này. Còn tình trạng suy vi toàn diện của thời Vãn Đường lại ảnh hưởng sâu sắc tới thơ ca thời đó, khiến cho tính chất lãng mạn tiêu cực chiếm vị trí chủ đạo trong thơ Vãn Đường. Dẫu rằng chúng ta không đơn giản hoá quan hệ giữa xã hội - chính trị và nghệ thuật nhưng cũng không thể phủ nhận mối quan hệ đó - quan hệ giữa cái phản ánh và cái được phản ánh. 2. Nguyên nhân tư tưởng, văn hóa Trung Quốc là một đất nước có nền văn hoá lâu đời. Đến thời Đường thì nền văn hoá, học thuật và nghệ thuật đã có một bề dày lịch sử ít dân tộc nào đương thời có thể sánh kịp. Về phương diện tư tưởng, Trung Quốc thời Tiên Tần đã từng có một nền triết học, tư tưởng phát triển rất phong phú với nhiều học thuyết sâu sắc và độc đáo. Nhưng từ đời Hán về sau, do chủ trương "độc tôn nho thuật, bãi truất bách gia" nên suốt trường kỳ chế độ phong kiến chuyên chế hơn hai ngàn năm của Trung Quốc chỉ có nho gia được đề cao, trở thành xương sống ý thức hệ của xã hội và về cơ bản ở Trung Quốc không có tự do tư tưởng. Nhưng ở đời Đường có một hiện tượng đặc biệt: Nhà nước phong kiến Lý Đường cho phép tương đối tự do tư tưởng, không độc tôn Nho giáo, mà cho phép tất cả các trào lưu tư tưởng được tự do truyền bá. Tất cả các tôn giáo ngoại lai, những tư tưởng triết học truyền thống của Trung Quốc đều được phát triển. Trong đó sự tịnh thịnh của ba dòng tư tưởng Nho, Phật, Đạo (cũng gọi là Nho, Thích, Lão) là đặc trưng nổi bật trong diện mạo tư tưởng của đời Đường. Về văn hoá nghệ thuật, đời Đường cũng được sự tiếp sức của nền văn hoá quá khứ và những kinh nghiệm nghệ thuật tích luỹ được từ các thời kỳ lịch sử trước. Kế thừa chế độ khoa cử đời Tuỳ, nhà Đường cũng tổ chức các khoa thi để chọn người vào hàng ngũ cai trị; mà thơ là một bộ môn phải thi nên trí thức thời bấy giờ đều tích cực trau dồi tri thức và nghệ thuật làm thơ. Nhà thơ hầu hết đều đỗ Tiến sĩ và làm quan. Các ông vua đời Đường cũng làm thơ và rất trọng thi sĩ, tạo nên một phong khí trọng thơ trong toàn xã hội. Hoàng đế, quan lại, đến ni cô, đạo sĩ, hoà thượng, chú tiểu cho đến ngư, tiều, kỹ nữ, cũng đều ít nhiều có làm thơ. Đó là điều kiện rất thuận lợi cho sự phát triển của thơ ca. Lại nữa, các bộ môn nghệ thuật khác như vũ đạo, âm nhạc, kiến trúc, điêu khắc, thư pháp (nghệ thuật viết chữ của người Trung Quốc) đặc biệt là hội hoạ đều rất phát triển. Thơ ca chịu ảnh hưởng của các bộ môn nghệ thuật ấy, nhất là về phương diện tư duy nghệ thuật. Trong đó kết hợp đặc biệt chặt chẽ với thơ là hội hoạ. Hội hoạ Trung Quốc đặc biệt coi trọng việc ghi lại ấn tượng và sự gợi ý. Cũng như thơ, hội hoạ đời Đường tư duy bằng quan hệ, chú trọng sự biểu hiện bằng quan hệ hơn là miêu tả tỷ mỷ hiện thực. Người Trung Quốc rất yêu thích hội hoạ vì họ vốn chuộng sự ít lời mà hội hoạ thì được coi là "vô thanh thi" (thơ không lời). Những quan niệm nghệ thuật chung của hội hoạ và thơ đều có liên hệ sâu xa với những quan niệm "vô ngôn chi giáo" "đối diện đàm tâm" của Đạo gia, với "niêm hoa vi tiếu", "tĩnh lự", "đốn ngộ", của Thiền Tông. (Thiền Tông là một tông phái của Phật giáo Trung Quốc. Tông phái này là một sự Trung Quốc hoá Phật giáo sâu sắc, trong đó có cả sự dung hợp những tư tưởng cổ truyền của Trung Quốc). Đặc biệt, thơ Đường là sự kế thừa và phát triển đến đỉnh cao của hơn mười thế kỷ thơ Trung Quốc. Khởi nguyên từ Kinh Thi và Sở từ, thơ Trung Quốc đến Đường đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm nghệ thuật quý báu. Tinh thần hiện thực, tinh thần chống chiến tranh, có từ Kinh Thi, từ nhạc phủ đời Hán và thơ Kiến An, dân ca Bắc triều; tinh thần lãng mạn, thái độ an bần lạc đạo, trở về với thiên nhiên có từ Sở từ, thơ Khuất Nguyên, thơ Đào Tiềm, Tạ Linh Vận và dân ca Nam triều, đều là những ngọn nguồn quan trọng cho sự hình thành các phái thơ và phong cách thơ Đường. Về phương diện hình thức và thể loại, thì những hình thức thi, từ, ca hành, nhạc phủ, cổ phong có từ các giai đoạn trước đều được kế thừa; riêng luật thi đã được manh nha từ thời Lục triều đến bây giờ đã được hoàn thiện. Những tác phẩm về lý luận văn học, về thi luật, của các giai đoạn 7
  8. trước như Luận văn của Tào Phi, Văn tâm điêu long của Lưu Hiệp, Thi phẩm của Chung Vinh, Tứ thanh phổ của Thẩm Ước, đều được nghiên cứu. Người Trung Quốc đến bấy giờ đã tự giác về ngôn ngữ đơn tiết ca thanh của mình và rất có ý thức về đặc điểm ấy trong việc làm thơ. Tất cả những ngọn nguồn đó đều hội tụ lại ở thơ Đường. Cho nên sự hưng thịnh và đạt đến đỉnh cao của thơ Đường là kết tinh của cả một quá trình chịu sự quy định và ảnh hưởng nhiều mặt của một thời đại; của phương pháp tư duy, của các triết thuyết và kế thừa truyền thống của bản thân nghệ thuật thơ ca. Sự ổn định, thống nhất về xã hội, sự hội nhập của các dòng tư tưởng và sự kế thừa truyền thống nghệ thuật là những nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự đổi mới tư duy nghệ thuật, đổi mới thi pháp thơ Đường. * * * Thi pháp thơ Đường mà chúng ta nghiên cứu ở đây thuộc về "thi pháp chuyên biệt" (hay thi pháp miêu tả). Chúng ta ứng dụng những lý thuyết của thi pháp học đại cương để nghiên cứu thi pháp thơ của một thời đại, một giai đoạn trong tiến trình lịch sử văn học Trung Quốc. Thi pháp là hệ thống hình thức, hệ thống phương tiện nghệ thuật của thơ. Hệ thống hình thức của thơ Đường, bản thân nó là một mắt khâu trên tiến trình thi pháp thơ Trung Quốc. Nó chịu ảnh hưởng của thời đại, của quan niệm triết học, của các loại hình nghệ thuật khác và của các giai đoạn thơ ca. Nó là "kiểu" tư duy nghệ thuật hoàn chỉnh và độc đáo. Cái mà Lỗ Tấn nói: " Thơ Trung Quốc đến Đường có một sự biến đổi lớn" chính là ở việc hình thành một kiểu tư duy nghệ thuật, một hệ thống thi pháp mới. Trong hệ thống thi pháp này, chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu các phương diện : - Quan niệm nghệ thuật về con người. - Không gian nghệ thuật. - Thời gian nghệ thuật. - Thể loại và ngôn ngữ. 8
  9. CHƯƠNG II:CON NGƯỜI TRONG THƠ ĐƯỜNG Con người là chủ thể, là đối tượng, đồng thời cũng là mục đích của văn học. Sáng tác văn học là một hoạt động nhận thức nên bao giờ cũng mang tính quan niệm. Phản ánh và thể hiện con người, tất nhiên văn học không thể không có quan niệm về con người. Quan niệm nghệ thuật về con người là một phạm trù rất quan trọng của thi pháp học. Nhà văn không thể miêu tả, thể hiện đối tượng mà không có quan niệm về đối tượng mặc dù họ có ý thức tự giác về điều đó hay không. - Con người, nó là ai ? - Con người thế nào là thiện, là mỹ ? - Con người thế nào mới xứng đáng là con người ? Cách lý giải những câu hỏi ấy làm nên hệ thống quan niệm nghệ thuật về con người. Ở đây, ta xét quan niệm nghệ thuật về con người trong thơ Đường tức là quan niệm của một dân tộc ở một thời đại thơ ca. Con người là tổng hoà của những quan hệ Trong văn học, con người là trung tâm. Do đó quan niệm nghệ thuật tuy không đồng nhất với quan niệm triết học về con người nhưng giữa chúng có mối quan hệ rất mật thiết. Ở thời cổ, con người luôn đặt mình trong mối quan hệ tương thông, tương hợp với thiên nhiên. Ở Trung Quốc, quan niệm đó được thể hiện trong các mệnh đề như "Thiên nhân hợp nhất", "Thiên nhân tương dữ", "Thiên nhân tương cảm". Những câu nói nổi tiếng của Trang Tử "Thiên địa dữ ngã tịnh sinh, vạn vật dữ ngã vi nhất" (Trời đất cùng sinh ra với ta, vạn vật với ta là một − Nam hoa kinh, Tề vật luận), hay của Mạnh tử : "Vạn vật giai bị ư ngã" (Vạn vật đều có đủ ở trong ta), cũng thống nhất về cơ bản với những mệnh đề trên. Và trong quan niệm cổ truyền của người Trung Quốc, chỉ người nào quán thông được cả trời, đất và người (nam tài) thì mới đủ tư cách làm "Vương" ( ) .Đó là quan niệm con người trong vũ trụ trong triết học cổ đại Trung Quốc. Quan niệm ấy chi phối những hoạt động ý thức, tinh thần, khoa học, nghệ thuật thời cổ. Quan niệm con người vũ trụ là quan niệm cho rằng: Con người liên quan mật thiết với đất trời - vũ trụ. Con người là một "tiểu vũ trụ" trong lòng "đại vũ trụ" (có quan niệm như vậy, Lý Bạch mới có thể đối diện với núi Kính Đình và cảm nhận sự "tri âm" của con người với ngọn núi trong một cái nhìn tương thông: tương khan lưỡng bất yếm). Đó cũng là quan niệm về con người của nghệ thuật thời cổ và tồn tại mãi suốt thời phong kiến, thậm chí đến tận thời hiện đại (như trong bài từ Sơn của Mao Trạch Đông chẳng hạn). (Cũng cần lưu ý là quan niệm "con người vũ trụ" là phổ biến ở các dân tộc thời cổ chứ không riêng gì Trung Quốc, nhưng ở Trung Quốc cũng như nhiều nước châu Á, vì văn minh nông nghiệp, sự gắn bó với thiên nhiên rất mật thiết nên quan niệm này càng sâu sắc và lâu bền). Trong Kinh Thi, Sở từ ta cũng thấy quan niệm này. Thiên nhiên trong thơ Tiên Tần còn hồn hậu chất phác, từ trong nhịp sống của đời thường đi thẳng vào thơ, có thể thông qua tưởng tượng phong phú (như trong thơ Khuất Nguyên), nhưng chưa có một sự "chưng cất", thanh lọc, chưa có những ước lệ như trong thơ Đường. 9
  10. Đến đời Lục triều, phái sơn thuỷ (tức thơ thiên nhiên) chính thức ra đời với hai đại biểu xuất sắc là Đào Tiềm và Tạ Linh Vận. Thời Lục triều, xã hội tao loạn, con người muốn lánh những hệ luỵ, những ưu hoạn của đời thường, nên họ thường tìm về với thiên nhiên bằng lối sống ẩn dật và bằng thơ. Thời đó, đạo gia và Đạo giáo thịnh hành. Phật giáo cũng đã được truyền bá và phát triển. Cả đạo gia, Đạo giáo và Phật giáo đều chủ trương xuất thế, trở về với tự nhiên. Chủ trương ấy tất nhiên có ảnh hưởng sâu sắc đến thơ. Con người đó xuất hiện trong tư thế vũ trụ, đứng giữa đất trời "đầu đội trời, chân đạp đất", nối đất với trời. Tiếng thơ cất lên như tiếng "giữa trời". Ta ít khi thấy nhà thơ xuất hiện với tư cách một cái tôi cá nhân, bởi con người đó là con người siêu cá thể : Tiền bất kiến cổ nhân Thiên Hậu bất kiến lai giả Niệm thiên địa chi du du Độc thương nhiên nhi thế hạ. (Trần Tử Ngang - Đăng U Châu Đài ca) Tiền Độc Hậu (Người trước chẳng thấy ai Người sau thì chưa thấy Ngẫm trời đất thật vô cùng Địa Riêng lòng đau mà lệ chảy.) Điểm nhìn nghệ thuật được đặt chính giữa trung tâm của vũ - trụ; − Trung tâm của không gian : thiên - địa (vũ) − Trung tâm của thời gian : tiền - hậu (trụ) Con người đứng ở giữa giao điểm của không - thời gian mà lên tiếng. Đó là, tiếng nói của một "tiểu thiên địa" giữa lòng thiên địa mênh mông, giữa dòng thời gian tiền - hậu vô thuỷ, vô chung. Cái "tiểu thiên địa" ấy chỉ biết "Độc thương nhiên nhi thế hạ" khi đối diện với vô hạn vô cùng của vũ trụ. Con người bị giới hạn bởi không gian và thời gian, bản thân nó cũng là một không - thời gian hữu hạn. Nó không thể trong một lúc vừa ở chỗ này vừa ở chỗ khác, nó không thể vừa ở hôm nay vừa ở ngày mai. Vì thế, nó khát khao tìm lại hôm qua (tiền) vươn tới ngày mai (hậu), vượt không gian để có mặt khắp "thiên địa chi du du" - nhưng bất lực. Nó đứng cô "độc" ở điểm này mà rơi lệ, mà gửi giọt lệ cảm thương vào thiên cổ. Trần Tử Ngang trong khoảnh khắc trên đài U châu là một "con người vũ trụ tiêu biểu". Đăng U Châu Đài ca được coi là một tiếng chuông đánh thức thi đàn mấy trăm năm tịch mịch chính vì ở đây, Trần Tử Ngang đã tạo dựng được tư thế vũ trụ tiêu biểu đến như vậy. Hơn ngàn năm trước, Lão Tử nói "Nhân pháp địa, địa pháp thiên, thiên pháp đạo, đạo pháp tự nhiên" (Người theo lẽ đất, đất theo lẽ trời, trời theo lẽ đạo, đạo (thuận) theo lẽ tự nhiên). Rút gọn lại:"Nhân pháp tự nhiên" (Con người (thuận) theo lẽ tự nhiên). Đó là một quan niệm triết học về con người, coi con người như một "mô hình", "bắt chước", "đồng dạng" với thiên địa. Và về cấu trúc hình thể, về vận động, về mọi hành vi ứng xử, thế giới tâm linh, của nó đều tương ứng với vũ trụ. Trong thơ Đường, ta thấy con người ấy luôn luôn khát vọng hoà hợp với thiên nhiên, ở giữa đất trời, cảm ứng với đất trời. Tiếng nói của nó hoà âm với nhịp điệu của vũ trụ. Bạch nhật y sơn tận Hoàng Hà nhập hải lưu Dục cùng thiên lý mục 10
  11. Cánh thướng nhất tằng lâu. (Vương Chi Hoán - Đăng Quán Tước Lâu) (Bóng ô đã gác non đoài Sông Hoàng nước chảy ra ngoài biển khơi Dặm ngàn tầm mắt muốn coi Lầu cao ta lại lên chơi một tầng.) (Ngô Tất Tố dịch thơ, Thơ Đường, Tập I, NXB Văn học, H., 1987) Cả không gian bao la được thu vào trong tầm nhìn của con người. Sự tương giao, hoà hợp giữa thiên nhiên và con người được thể hiện dưới nhiều dạng thức. Có khi thiên nhiên như bao bọc con người trong vận động tự nhiên của nó : Thanh sơn hoành bắc quách Bạch thuỷ nhiễu đông thành Thử địa nhất vi biệt Cô bồng vạn lý chinh (Lý Bạch - Tống hữu nhân) (Núi xanh chắn ngang vùng ngoại ô phía bắc Nước bạc uốn quanh thành phía đông Nơi này một lần chia tay Ngọn cỏ bồng đơn chiếc đi xa muôn dặm.) Đó là cái nhìn từ vị trí trung tâm, thấy "sơn, thuỷ" uốn lượn quanh mình. Con người chia tay con người để thành hai cõi cô đơn. Từ một điểm, cái nhìn được đặt từ xa (sơn, thuỷ) mà rút về một điểm (thử địa), rồi lại từ một điểm giãn nở ra vô tận Cũng từ một điểm nhìn trung tâm ấy, Đỗ Phủ bao quát hết mọi chiều không gian trong tư thế "đăng cao". Con người được đặt ở vị trí trung tâm để tương thông cùng thế giới, tạo nên một sự hài hoà, thống nhất giữa thế giới nội tâm với thế giới ngoại cảnh. Đó là lý do vì sao trong thơ Đường, ta thấy nhiều cảnh thiên nhiên đến như vậy. Trong quan niệm của người xưa, khi con người đã là con người vũ trụ, thì thiên nhiên cũng là thiên nhiên hữu linh; và như thế, mỗi thực thể thiên nhiên cũng như con người, là một vũ trụ. Nhất phiến hoa phi giảm khước xuân (Đỗ Phủ- Khúc giang I) (Một cánh hoa rơi giảm vẻ xuân.) Một câu thơ bảy chữ, nhưng chứa đựng cả một quan niệm - một cánh hoa, một thực thể bé nhỏ vi tế đến như vậy cũng đại biểu cho mùa xuân, mang trong nó một mùa xuân. Cứ thế, tất thiên nhiên ấy có tình cảm như con người. Hầu như không bao giờ thấy thơ Đường phủ nhận tính chất hữu linh của thiên nhiên, mà chỉ thấy thiên nhiên hữu linh, hữu tình, hữu tâm. − Thỉnh quân thí vấn đông lưu thuỷ Biệt hận dữ chi thuỳ đoản trường (Lý Bạch - Kim Lăng tử tứ lưu biệt) (Xin anh thử hỏi dòng nước chảy về đông 11
  12. So với nỗi buồn tiễn biệt đằng nào dài ngắn?) − Nhân diện bất tri hà xứ khứ Đào hoa y cựa tiếu đông phong. (Thôi Hộ - Đề Đô Thành nam trang) (Gương mặt người không biết đã đi đâu Chỉ có hoa đào vẫn cười gió đông như cũ.) Đầy xúc cảm, tâm trạng trong một "nụ cười" của cánh hoa đào trước nỗi bẽ bàng của thi sĩ đa tình : Duy hữu xuân phong tối tương tích Ân cần cánh hướng thư trung xung. (Dương Cự Nguyên - Hoạ luyện tú tài "Dương liễu") (Chỉ có ngọn gió xuân là đầy tình thương tiếc Ân cần đến thổi giữa tay anh.) Dòng nước "hận", hoa đào "cười", ngọn gió "tiếc thương", đó là cái tình, cái "tâm", của thiên nhiên trong mối giao hoà, tương cảm với con người. Không phải là "nhân cách hoá" mà là quan niệm nghệ thuật: thiên nhiên với con người có chung một cái "tâm". Nếu như có lúc người ta nói thiên nhiên vô tình thì đó chỉ là sự trách móc : − Vô tình tối thị Đài Thành liễu Y cựu yên lung thập lí đê. (Vi Trang - Kim Lăng đồ) (Vô tình nhất là rặng liễu ở Đài Thành Vẫn giống như xưa, bông rũ xuống như làn khói phủ trên con đê mười dặm.) − Nhất khứ Cô Tô bất phục phản Ngạn bàng đào lý vị thuỳ xuân. (Lâu Dĩnh − Tây Thi thạch) (Cô Tô một chuyến đi, đi biệt Đào lý bên bờ xuân với ai?) Nàng Tây Thi đã một đi không trở lại, cây đào, cây lý kia ngày xưa đã vì nàng mà đem vẻ xuân về, bây giờ nàng không còn nữa, sao đào, lý vẫn xanh tươi một cách vô tình quá thể ? Trách liễu, trách đào, lý do vô tình bởi trong ý niệm của thi nhân chúng vốn hữu tình, đa tình. Trong con mắt, trong tấm lòng của thi nhân, thiên nhiên, vạn vật đều hứng tình vì "vạn vật dữ ngã vi nhất" (vạn vật với ta là một). Vạn vật đều có tình, đều "là một" đối với ta huống chi con người. Thơ Đường đặc biệt quan tâm thể hiện quan hệ tương giao, hoà hợp giữa con người với con người. Trong thơ hiện đại − ta thấy xuất hiện nhiều con người trong thơ Đường không khước từ hành động nhưng họ đề cao cái tâm hơn, nên những từ có bộ tâm ( ) có tần số xuất hiện rất cao trong thơ (tâm, tình, ý, ức, tư tưởng, hoài niệm, thương, bi, sầu, oán, hận, ) Những con người - hữu tâm, con người - tri âm ấy được thể hiện đặc biệt rõ trong đề tài bằng hữu. Thơ Đường nói nhiều về tình bạn. 12
  13. Trong thơ Sơ − Thịnh Đường, người ta ít nói đến tình cảm gia đình (cha con, anh em, chồng vợ, ) Tình gia đình là thiêng liêng, vĩnh cửu - nhưng "phụ từ, tử hiếu". Con cái kính yêu cha mẹ, anh em gắn bó, vợ chồng thương yêu nhau, là chuyện đương nhiên, chuyện của đời thường, còn phải nói gì nữa. Còn người bạn ấy không họ hàng ruột thịt gì với ta cả vậy mà lại yêu quý ta, nhất là hiểu ta đó mới thật là kỳ diệu. Tình bạn là "thanh khí" tự nhiên, "tri âm, tri kỷ". Vả lại, trong ngũ luân phong kiến thì các quan hệ vua - tôi, cha - con, anh - em, chồng - vợ đều ít nhiều mang tính chất bất bình đẳng, một chiều; chỉ có quan hệ bằng - hữu là bình đẳng. Bốn quan hệ (luân) trước nhiều "chất" lý trí và nghĩa vụ, chỉ có quan hệ bằng hữu là thuần tuý tình cảm, tự nguyện, khiến con người thi nhân dễ dàng giãi bày tâm sự và luôn khát vọng tri âm. Ngay đến tình yêu nam nữ là đề tài "vĩnh cửu" của thơ ca nhưng trong thơ Sơ − Thịnh Đường, đề tài này cũng chiếm một tỷ lệ khiêm tốn so với đề tài tình bạn. Vì sao lại như vậy ? Thi nhân đời Đường chắc không hiếm kẻ đa tình nhưng có lẽ vì thơ Đường vốn kín đáo, tế nhị nên ngại nói đến tình yêu, và có nói cũng nói một cách kín đáo, mơ hồ, thậm chí khó hiểu(?). Hiện tượng táo bạo như Hàn Ốc thì rất hiếm, hầu như là một ngoại lệ (mà Hàn Ốc ở thời Vãn Đường). Và còn một lý do nữa không kém phần quan trọng, đó là, thơ ca cũng chịu sự chi phối của tư tưởng thời đại - tự do cá nhân chưa được đề cao, thậm chí hầu như chưa được đặt ra; Lại thêm nho gia tiết dục, đạo gia quả dục, Phật giáo diệt dục, Cả ba dòng tư tưởng ấy hội nhập lại càng không thể là mảnh đất cho sự nảy nở đề tài tình yêu. Thành ra tình bạn trở thành nơi thi nhân bày tỏ tâm tình. Có lẽ hiếm nhà thơ nào không viết về đề tài tình bạn. Tìm là tìm bạn, gặp là gặp bạn, nhớ là nhớ bạn : Tư quân nhược Vấn thuỷ Hạo đãng ký nam chinh (Lý Bạch - Sa Khâu Thành hạ ký Đỗ Phủ) (Nhớ anh như sông Vấn Về nam chảy dạt dào.) Còn Đỗ Phủ khi xa cách luôn "hoài Lý Bạch", "mộng Lý Bạch", Thơ viết để gửi tặng cũng phần nhiều là "gửi", "tặng" bạn bè : Tặng Uông Luân, Tặng Mạnh Hạo Nhiên, Tặng Lý Bạch, Ký Đỗ Phủ, Ký Vương Xương Linh, Ký Vi Chi, Vì khát vọng tri âm, thương yêu bè bạn nên thi nhân đời Đường đặc biệt đau lòng khi phải chia tay bạn. Nổi bật trên cái nền thiên nhiên hữu tình tương cảm giữa lòng "thiên địa" là hình ảnh từng đôi "tiểu thiên địa" tiễn đưa nhau. Trong thơ Đường − đề tài tình bạn chiếm tỷ lệ 20%. Đó là một con số rất có ý nghĩa, nó thể hiện khát vọng tri âm của con người. Đó là khát vọng tương giao, tìm thấy sự thống nhất, giao cảm giữa người và người. Những con người "siêu cá thể" tồn tại giữa lòng thiên địa, càn khôn trong sự hô ứng, tương giao, hoà hợp với thiên nhiên, vũ trụ, con người, khiến cho khi bước vào thế giới thơ Đường, ta bước vào thế giới của sự hoà điệu. * * * Nhưng thế giới của sự hoà điệu ấy chỉ tồn tại trong bộ phận thơ sáng tác theo khuynh hướng lãng mạn, theo nguyên tắc chủ quan, khi nhà thơ thể hiện con người vũ trụ trong quan hệ tương giao, hoà hợp với ngoại giới. Sự hoà điệu ấy bị phá vỡ một cách phũ phàng khi con người xuất hiện với tư cách thần dân của đế quốc (1) Đại Đường. (1) Chữ đế quốc ở đây dùng theo nghĩa nước có hoàng đế, thời đế chế, chứ không phải đế quốc trong thời đế quốc chủ nghĩa. 13
  14. Trong thơ Đường, khi nhà thơ phản ánh con người xã hội mà chủ yếu là "dân đen" (chữ dùng của Phan Ngọc - dịch từ "lê nguyên"), thì quan hệ tương giao, thống nhất nhường chỗ cho quan hệ đối lập, tương phản. Nói cách khác, nếu như con người vũ trụ được thể hiện bằng quan hệ thống nhất, tương giao thì con người xã hội được phản ánh bằng quan hệ mâu thuẫn, đối lập, tương phản và chủ yếu xuất hiện trong bộ phận thơ sáng tác theo khuynh hướng hiện thực, theo nguyên tắc khách quan. Con người là một sinh thể xã hội, và trong tư cách ấy, nó là "tổng hoà của những mối quan hệ xã hội". "Con người xã hội" trong văn học tức là con người được nhìn, được xem xét trong những mối quan hệ xã hội của nó. Trong thơ Đường thì đó là thần dân đối với quân vương, là kẻ sĩ đối với xã hội, là chiến sĩ trong chiến tranh, và chủ yếu là con người bất hạnh. Khi xã hội có những biến động lớn lao, những giá trị bị đảo lộn, những cái tưởng như vĩnh hằng bị xoá bỏ trong phút chốc. Cuộc "tang thương" ấy tạo nên một sự kinh hoàng, chấn động trong đáy sâu tâm hồn của nhà thơ - những con người nhạy cảm nhất. Nó gọi nhà thơ nhìn vào sự thật xã hội và đòi hỏi nhà thơ phản ánh. Nhưng loạn lạc quá đột ngột, con người nhà thơ không kịp chuyển biến. Họ không kịp thu rút tầm mắt xa xăm để nhìn vào những sự thực nhãn tiền. Họ đã quen thể hiện con người vũ trụ, họ không quan niệm được rằng con người xã hội, con người thế tục tầm thường với những lo âu vụn vặt, những đau đớn đời thường lại có thể là đối tượng của thơ ca. Tình hình ấy đòi hỏi nhà thơ phải có một sự đổi mới lớn lao, sâu sắc trong quan niệm nghệ thuật về con người. Người thực hiện sự đổi mới ấy chính là Đỗ Phủ. Hình như lịch sử văn học Trung Quốc, để trao sứ mệnh làm một nhịp cầu vĩ đại nối hai giai đoạn thơ ca đời Đường cho Đỗ Phủ, đã chuẩn bị cho nhà thơ này những điều kiện, buộc ông phải đi trước mọi người, thu rút tầm mắt xa xăm về, chú mục nhìn vào sự thực nhãn tiền. Lịch sử đã chuẩn bị cho ông bằng cuộc đời cơ cực. Những cảnh : Nằm đói đã mười ngày rồi Áo rách vá trăm mảnh chằng chịt. hay Rượu thưa cùng chả nguội Đến đâu cũng tủi thầm với bao cảnh bôn ba, lận đận, đã đẩy Đỗ Phủ về với nhân dân, gần gũi với cuộc sống của nhân dân trước khi loạn An Lộc Sơn nổ ra. Sự gần gũi với nhân dân khiến ông có thể nhìn thấy, cảm thông và phản ánh những cảnh tượng đau lòng trong những bài thơ hiện thực nổi tiếng như Binh xa hành, Tuế án thành, "Thế giới của sự hoà điệu" đã bị phá vỡ bởi tiếng xe trận, tiếng ngựa hí, tiếng khóc than. Lần đầu tiên, Đỗ Phủ đã đưa người lính, người dân đen (ở đây là "tốt đen") vào vị trí trung tâm của thơ mà kể lể, thở than, cũng là tố cáo (bài Binh xa hành). Cuộc đời của người "dân đen" được phản ánh một cách hầu như trọn vẹn bằng lời tự bạch của chính họ. - Tốt đen và dân đen, ở chiến trường hay ở hậu phương, đều chỉ là những công cụ sản xuất hay chiến đấu vì lòng tham không cùng của "huyện quan", của "vũ hoàng", Bài thơ mở đầu bằng tiếng khóc của người đi kẻ ở trong cuộc tiễn đưa người lính xuất chinh và kết thúc bằng tiếng khóc của những thế hệ hồn ma oan ức trên chiến địa. Đất trời đầy tiếng khóc. 14
  15. "Máu và nước mắt của nhân dân đã tưới cho vườn thơ của Đỗ Phủ" (Tiêu Điều Phi). Hiện thực đau thương của nhân dân đời Đường thời chiến loạn và suy thoái đã trở thành đối tượng phản ánh của dòng thơ hiện thực : Hổ báo bất lương thực Ai tai nhân thực nhân (Mạnh Vân Khanh) (Hổ báo không ăn thịt lẫn nhau Đáng thương thay, người lại ăn thịt người.) Nếu trước đây, thơ ca hầu như là "vườn cấm" đối với người "dân đen" thì bây giờ người "dân đen" với cuộc đời cơ cực của họ hầu như chiếm vị trí trung tâm. Người phu kéo thuyền tự kể về nỗi khổ của mình : Khổ tai sinh trưởng đương dịch biên Quan gia sử ngã khiên dịch thuyền Tân khổ nhật đa, lạc nhật thiểu Thuỷ túc sa hành như thuỷ điểu. Dạ hàn y thấp phi đoản thôi Ức xuyên túc biệt nhẫn thống hà Đáo minh tân khổ vô xứ thuyết Tề thanh đằng đạp khiên thuyền ca (Vương Kiến - Thuỷ phu dao) (Sinh gần bên trạm khổ vô biên Quan cứ bắt tôi đi kéo thuyền Ngày đắng cay nhiều, ngày vui hiếm Ven bờ ngủ nước như chim biển. Đêm lạnh tơi ngắn áo dính da Ngực thủng chân rách dám kêu ca Đến sáng đắng cay không chỗ nói Kéo thuyền lê bước, hò dô ta ) Mọi nỗi đau khổ của con người, chủ yếu là của người nạn nhân, đều được thơ phản ánh. Đây là cái đói : − Nhập môn văn đào hào Ấu tử cơ dĩ tốt (Đỗ Phủ - Tự kinh phó Phụng Tiên ) (Vào cửa nghe kêu gào Con thơ vừa mất) − Si nữ cơ giảo ngã Để uý hổ lang văn Hoài trung yểm kỳ khẩu 15
  16. Phản trắc thanh dũ sân Tiểu nhi cưỡng giải sự Cố sách khổ lý xan (Đỗ Phủ- Bành Nha hành) (Con bé đói cắn cha Khóc sợ hùm beo biết Ôm vào lòng bịt mồm Giãy giụa càng la hét Thằng cu ra điều biết Đòi mận đắng thay cơm ) và cảnh chết đói là phổ biến : Xuân chủng nhất lạp túc Thu thành vạn khoả tử Tứ hải vô nhàn điền Nông phu do ngã tử. (Lý Thân - Mẫn nông) (Một hạt mùa xuân gieo Muôn hạt mùa thu hái Bốn biển không đất hoang Nhà nông còn chết đói.) Còn đây là cái rét : Trúc bách giai đống tử Huống bỉ vô y dân Nãi tri đại hàn tuế Nông giả đa khổ tân. (Bạch cư Dị - Thôn cư khổ hàn) (Trúc thông đều chết rét Huống những người dân không áo Mới biết năm đại hàn Nhà nông thật lắm đau khổ.) và lại chết vì rét : Lộ hữu đống tử cốt (Đỗ Phủ - Tự kinh phó Phụng Tiên ) (Bên đường xương chết cóng) Khởi tri Văn Hương ngục Trung hữu đống tử tù. (Bạch Cư Dị - Ca vũ) (Biết đâu trong ngục Văn Hương Có người tù chết rét.) 16
  17. Còn trong loạn ly thì cái chết càng phổ biến : Tử tôn trận vong tận Yên dụng thân độc hoàn Tích thi thảo mộc tinh Lưu huyết xuyên nguyên đan (Đỗ Phủ - Thuỳ lão biệt) (Con cháu chết trận hết Một mình sống làm gì Thây chất làm tanh hôi cây cỏ Máu chảy nhuộm đỏ sông ngòi đồng ruộng.) Tưởng không cần dẫn nhiều thơ nữa, ta cũng biết rằng trong dòng thơ hiện thực, mọi thảm cảnh của người dân đều được phản ánh một cách đầy đủ, sinh động, như hiện ra trước mắt người đọc. Nếu như "con người vũ trụ" được thể hiện bằng quan hệ thống nhất, tương giao, hoà hợp với ngoại giới (tức với vũ trụ, thiên nhiên, với những "tiểu thiên địa" khác) thì "con người xã hội" chủ yếu được phản ánh bằng quan hệ đối lập, tương phản; trong đó chủ yếu là sự đối lập giữa cuộc sống cơ cực, đói rách lầm than của "lê nguyên","xích tử" với cuộc sống xa hoa truỵ lạc của vua quan phong kiến : Thiên tử hiếu chinh chiến Bách tính bất chủng tang Thiên tử hiếu niên thiếu Vô nhân tiến Phùng Đường Thiên tử hiếu mỹ nữ Phu phụ bất thành song (Tào Nghiệp - Bộ ngư dao) (Vua ưa thích chinh chiến Dân bỏ nghề tằm tang Vua ưa thích tuổi trẻ Không ai tiến Phùng Đường Vua ưa thích gái đẹp Vợ chồng kẻ mỗi phương.) Mỗi sở thích vị kỷ và vô lý, thậm chí tàn bạo của thiên tử lại dẫn đến bao thảm hoạ cho dân lành. Về quan hệ đối lập này, hai câu thơ của Đỗ Phủ : Chu môn tửu nhục xú Lộ hữu đống tử cốt (Cửa son rượu thịt ôi Ngoài đường xương chết buốt.) có thể nói là tiêu biểu nhất. Đặt hai bức tranh hiện thực bên nhau, lời tố cáo hiện ra thật đanh thép, vừa cụ thể nhãn tiền, vừa có giá trị khái quát cao độ. Các nhà thơ hiện thực đã phản ánh những bất công xã hội bằng tất cả tấm lòng nhân đạo, cảm thông và tinh thần trách nhiệm đối với người dân lao khổ. 17
  18. Vấn đề là ở chỗ điểm nhìn nghệ thuật đặt vào đâu để nhìn thấy ai và cái gì. "Con người vũ trụ" và "con người xã hội" (dân đen) là hai quan niệm nghệ thuật khác nhau về con người, về đối tượng và mục đích của thơ ca. Khi quan niệm nghệ thuật, do tác động sâu sắc của hoàn cảnh xã hội, thay đổi - con người xã hội trong thân phận của lê nguyên, xích tử, bách tính, trở thành nhân vật trung tâm của thơ là một điều tất yếu. Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng: - Do chịu sự chi phối của mỹ học truyền thống nên tuy trong thơ Đường có hai "kiểu" con người cơ bản (con người vũ trụ và con người xã hội), nhưng nhìn tổng thể thì "con người vũ trụ" vẫn chiếm ưu thế. Nó có mặt trong cả bốn giai đoạn thơ (Sơ, Thịnh, Trung và Vãn Đường). Ngay cả những nhà thơ hiện thực tiêu biểu như Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Nguyên Chẩn, Nguyên Kết, lúc có nhu cầu và điều kiện vẫn thể hiện nỗi niềm vũ trụ của mình. - "Con người vũ trụ" là nhân vật trung tâm của dòng thơ thuộc khuynh hướng lãng mạn được thể hiện bằng quan hệ thống nhất, tương thông với thiên nhiên, con người, vũ trụ, "Con người xã hội" (con người của đời thường) là nhân vật trung tâm của dòng thơ thuộc khuynh hướng hiện thực, sáng tác theo nguyên tắc khách quan, được phản ánh bằng quan hệ đối lập, tương phản trong thế mâu thuẫn với giai cấp thống trị. - "Con người vũ trụ" hay con người xã hội thì đều là cống hiến của thơ Đường vào di sản nghệ thuật của Trung Quốc và nhân loại. Chúng ta không vì thiên kiến mà đề cao "con người xã hội", hạ thấp "con người vũ trụ" hay ngược lại. Con người vũ trụ trong văn học Trung Quốc đến thơ Đường là đạt đến trình độ tuyệt vời. Người dân đen xuất hiện trong thơ Đỗ Phủ và các nhà thơ hiện thực lại đạt đến độ sâu sắc, sinh động và phổ quát mà thơ các đời sau (trong thời phong kiến) khó sánh kịp. Cả hai "kiểu" quan niệm nghệ thuật về con người đều đạt đến đỉnh cao ở thơ Đường, làm cho thơ Đường đạt đến đỉnh cao của thơ Trung Quốc. Hình tượng người dân đau khổ cho ta thấy được những bất công xã hội, thấy được nỗi đau lòng và tinh thần trách nhiệm của nhà thơ, khêu gợi nơi người đọc lòng xót thương đồng cảm và ý thức trách nhiệm với đời. Hình tượng "con người vũ trụ" thể hiện khát vọng của con người được sống trong một thế giới thái bình, được hô ứng, tham hợp vào nhịp sống vô biên của vũ trụ. Con người trong thơ Đường khêu gợi nơi cho người đọc những tình cảm, nhận thức tốt đẹp lành mạnh, tích cực hướng về cái thiện, cái mỹ. Đó là chủ nghĩa nhân văn đích thực mà thơ Đường cống hiến cho nhân dân Trung Quốc và nhân loại. Quan niệm nghệ thuật và con người là phạm trù cơ bản của thi pháp nên nó sẽ chi phối tất cả các yếu tố khác - không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, thể loại và ngôn ngữ. Sự chi phối này đối với các yếu tố còn lại của thi pháp sẽ mở ra ở mọi cấp độ. Đó là nội dung của các chương tiếp theo. CHƯƠNG III: KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT I − KHÁI NIỆM "KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT" Không gian cùng với thời gian làm thành hình thức tồn tại của thế giới vật chất trong đó có con người. Bản thân con người gồm trong nó cả không gian và thời gian. Mỗi con người là một "toà thiên nhiên" trong lòng vũ trụ, và khi con người còn tồn tại thì mỗi giây phút trôi qua đều là thời gian của đời người. Chúng ta cũng nên lưu ý một điều rằng bản thân những từ "thế giới", "vũ trụ" đều là khái niệm chỉ tổng thể không - thời gian. 18
  19. − "Thế giới" gồm thế - đời (thời gian) giới - cõi (không gian) Thế giới = cõi đời = (không + thời) gian − "Vũ trụ" gồm: + Vũ Tứ phương, thượng hạ vị chi vũ. (Hoài Nam Tử - Tề tục huấn) (Bốn phương, trên dưới gọi là vũ.) Vậy, Vũ = không gian + Trụ Vãng cổ lai kim vị chi trụ. (Hoài Nam Tử - Tề tục huấn) (xưa qua nay lại gọi là "trụ") Vậy, Trụ = thời gian VŨ TRỤ = (KHÔNG + THỜI) GIAN Và từ "tồn tại" cũng hàm nghĩa không thời gian : Tồn = còn - thời gian, Tại = đây - không gian Tồn tại = còn đây = (không thời) gian. Con người cũng là một tổng thể của (không+ thời) gian, nghĩa là : nó là một tiểu vũ trụ trong đại vũ trụ, một tiểu thế giới trong đại thế giới. Trong tác phẩm nghệ thuật, con người xuất hiện với tư cách hình tượng con người - không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của hình tượng. Vậy, không gian nghệ thuật là hình tượng không gian trong tác phẩm, là không gian trong quan niệm của tác giả. Và như thế, văn học của mỗi dân tộc, mỗi giai đoạn, mỗi xu hướng đều có thế giới riêng, không gian riêng, xác định. Không thể tách hình tượng ra khỏi không gian nó tồn tại. Vì vậy, không gian nghệ thuật cũng là một phương diện quan trọng của thi pháp. Nó là một phương tiện để tác giả xây dựng thế giới nghệ thuật của mình (tác phẩm). II − KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG THƠ ĐƯỜNG Trong thơ Đường, như ở Chương II đã xác định, có hai "kiểu" con người chủ yếu : - Con người vũ trụ. - Con người xã hội (con người đời thường). Tương ứng với hai "kiểu" con người đó, cũng có hai "kiểu" không gian : - Không gian vũ trụ. - Không gian đời thường. 1. Không gian vũ trụ Không gian vũ trụ là nơi tồn tại của con người vũ trụ. Là con người vũ trụ, nó phải đứng giữa đất trời, ở vị trí trung tâm của vũ trụ. Đây không phải là một sự kiêu mạn, tự đề cao, coi mình là "cái rốn của vũ trụ" mà chỉ vì quan niệm : con người là một tiểu vũ trụ giữa lòng vũ trụ. Bằng trực giác, ta thấy rằng - ta ở đây thì đó là trung tâm trong cái nhìn của ta. 19
  20. Từ một điểm (điểm trung tâm) con người nhìn ra mọi phía (tứ phương thượng hạ - tứ phương gồm: đông, tây, nam, bắc). Trong thơ Đường, vị trí trung tâm ấy được xác định như một lẽ tự nhiên và bao giờ cũng đẹp : − Độc toạ u hoàng lý Đàn cầm phục trường khiếu Thâm lâm nhân bất tri Minh nguyệt lai tương chiếu. (Vương Duy - Trúc Lý Quán) (Một mình trong khóm trúc Gảy đàn rồi hát chơi Rừng sâu không kẻ biết Soi nhau với trăng ngời.) − Mộ tòng bích sơn há Sơn nguyệt tuỳ nhân quy. (Lý Bạch - Há Chung Nam Sơn) (Chiều tối, từ núi xuống Trăng núi theo người về.) − Hán gia Tần địa nguyệt Lưu ảnh chiếu Minh phi. (Lý Bạch - Vương Chiêu Quân) (Đất Tần trăng Hán tỏ Rõi bóng chiếu Minh phi.) Như vậy, ta thấy dù con người ở đâu thiên nhiên cũng bao quanh; và khi con người di chuyển thì cả vũ trụ cũng chuyển dời theo để con người vẫn ở vị trí trung tâm. Không gian vũ trụ bao bọc con người, đại vũ trụ bao trùm tiểu vũ trụ. Trong văn học cổ, ta luôn thấy con người ở giữa vòng "thiên phú địa tái" (trời che đất chở) và tư thế con người luôn là "đầu đội trời, chân đạp đất" (đỉnh thiên lập địa). Trong vòng "trời che đất chở" ấy, con người luôn luôn có sự hô ứng, tương thông, tương cảm với đất trời, với những thực thể của thiên nhiên : Thanh sơn hoành bắc quách Bạch thuỷ nhiễu đông thành Thử địa nhất vi biệt Cô bồng vạn lý chinh Phù vân du tử ý Lạc nhật cố nhân tình. (Lý Bạch - Tống hữu nhân) Ở đây, con người được bao bọc giữa sơn với thuỷ, giữa mây và trời, Vì con người ở vị trí trung tâm nên không gian mang tính chất đối xứng và con người chính là tâm đối xứng của không gian ấy. Điều ấy, ta đã thấy rõ trong nhiều bài thơ mà đặc biệt tiêu 20
  21. biểu là những bài Đăng U Châu Đài ca, Đăng Quán Tước Lâu, Đăng cao, Độc toạ Kính Đình Sơn, ở vị trí trung tâm ấy, con người trong tư thế "cầm chịch" cho sự cân bằng của không gian vũ trụ đối xứng : Thiên Tiền bất kiến cổ nhân Hậu bất kiến lai giả Niệm thiên địa chi du du Độc thương nhiên nhi thế hạ. Độc Hậu Tiền Trần Tử Ngang trên đài U Châu đã xác định vị trí trung tâm và tư thế vũ trụ tiêu biểu cho con người vũ trụ trong thơ Đường. Điều này ta có thể kiểm chứng ở những bài thơ thể hiện Địa con người vũ trụ : Thanh thiên nhất nhạn viễn Hải khoát cô phàm trì. (Lý Bạch - Tống Trương Xá nhân chi Giang Đông) (Vút thẳm trời cao con nhạn lượn Thênh thang biển rộng cánh buồm dong.) Đó là không gian đối xứng trong tầm nhìn của con người. Con người ở giữa, nó ngẩng trông : Phong cấp thiên cao viên khiếu ai (Gió gấp trời cao vượn kêu buồn.) Lại cúi nhìn : Chử thanh sa bạch điểu phi hồi. (Bến trong cát trắng chim bay lượn vòng.) Nó nhìn sang tả, thấy : Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ (Vô biên lá tơi bời rụng xuống.) Lại nhìn sang hữu, thấy : Bất tận trường giang cổn cổn lai (Bất tận sông dài cuồn cuộn chảy) Không gian vũ trụ ấy được mở ra theo mọi hướng, và tâm hồn con người tương thông với không gian ấy được thể hiện một cách tinh tế : Song hàm Tây Lĩnh thiên thu tuyết Môn bạc Đông Ngô vạn lý thuyền. (Đỗ Phủ - Tuyệt cú) Nói Tây Lĩnh - ta hiểu tây và ở trên cao; nói đến Đông Ngô ta hiểu đông và ở dưới thấp − "Tây Lĩnh thiên thu tuyết" là tĩnh. − "Đông Ngô vạn lý thuyền" là động. Đỗ Phủ đang phải ngụ cư đất khách lâu ngày, nhưng lòng luôn luôn mong mỏi được về đông để trở lại quê nhà. Thân đành tĩnh nhưng tâm thì động 21
  22. Như vậy ta thấy không gian trong thơ được xây dựng trên quy luật liên tưởng của tâm lý, hay nói theo hệ thống diễn đạt đang dùng là: được thể hiện bằng quan hệ. Không gian mang tính đối xứng với con người ở vị trí trung tâm, khiến cho con người càng cảm thấy bé nhỏ cô độc giữa vũ trụ vô hạn vô cùng. Vì cảm giác bé nhỏ, cô độc ấy mà trong con người dấy lên khát vọng hoà nhập vào vũ trụ, khát vọng chiếm lĩnh không gian. Và do đó không gian luôn mang tính chất mở, có xu hướng giãn nở để đưa tâm hồn con người vượt không gian, để có mặt trong "thiên địa chi du du". Để chiếm lĩnh "không gian vũ trụ" ấy, con người thường dùng hai cách : lên cao và đi xa (đăng cao và viễn du), tạo thành hệ không gian cao - viễn. Các nhà thơ khi thể hiện con người vũ trụ (trong thơ tình lãng mạn) thường ưu tiên cho chiều cao. Họ thích bước lên cao. Do đó, ta thấy trong thơ Đường con người thường ở tư thế "đăng cao"- Đăng U Châu Đài, Đăng Quán Tước Lâu, Đăng Tổng Trì Các, Đăng Vạn Tuế Lâu, Đăng Kim Lăng Phượng Hoàng Đài, Đăng Lạc Du nguyên, Đăng Nhạc Dương Lâu, Đăng cao, Vì sao họ thích lên cao vậy ? Chỉ vì lên cao là một vận động bước vào giữa lòng vũ trụ, ở đó họ dễ thấy vị trí trung tâm của mình, cảm thấy "gần với trời" hơn : Cao các bức thư thiên Đăng lâm cận nhật biên. (Gác cao sát các tầng trời Bước lên như thấy mặt trời gần bên.) Ở vị trí ấy, tâm hồn có thể tự do phóng chiếu vào không gian vũ trụ. Khi không phải "đăng cao" thì họ cũng đã ở vị trí trên cao rồi. Đó là Thôi Hiệu trên Hoàng Hạc Lâu, là Vương Xương Linh trên Vạn Tuế Lâu, Phù Dung Lâu, Thi nhân thời cổ thích "sơn" hơn là "thuỷ" (kể cả thi nhân Trung Quốc và Việt Nam). Đất nước họ không thiếu sông dài biển rộng, nhưng rất ít khi thấy biển xuất hiện trong thơ. Hiện tượng ấy một phần vì trong quan niệm thẩm mỹ - đạo đức, người Trung Quốc thích sự kiên định vững vàng (tĩnh - của núi) hơn là sự thay đổi chảy trôi (động - của nước). Họ trọng người "nhân" hơn là người "trí", mà "Nhân giả nhạo sơn, trí giả nhạo thuỷ" (Người nhân thích núi, người trí thích nước). Và một lý do nữa cũng rất quan trọng là vì họ thích trên cao. Rõ ràng tư thế "đăng cao" và không gian trên cao là không gian mang tính quan niệm, không gian thẩm mỹ. Ta nhận thấy trong ngôn ngữ Trung Quốc, từ "cao" luôn luôn gắn với những tính từ chỉ những phẩm chất tốt đẹp (cao khiết, thanh cao, cao nhã, cao quý, cao thượng, ). Ở trên cao ấy, con người bao quát, chiếm lĩnh không gian vũ trụ trong cái nhìn xa xăm, cho hồn mình giao tiếp, tương thông với vũ trụ. Không gian thẩm mỹ của họ là: cao - đẹp. Để chiếm lĩnh không gian, ngoài cách đăng cao để "cực mục", để "Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non" (Hồ Chí Minh), thơ Đường còn có một cách nữa là chiếm lĩnh chiều rộng bằng cách đi xa (viễn du). Con đường thường mở ra mời gọi bàn chân , vó ngựa ; lòng sông mở ra cho những cánh buồm. Trong thơ Đường, ta gặp bao nhiêu là thơ tống biệt. Đó là bè bạn tiễn đưa nhau trên những con đường, bên những dòng sông, nơi miền quan ải, Những quan ải, bến sông, con đường, quán trọ, đất trích , trong thơ làm nên không gian lữ thứ - một bộ phận của không gian vũ trụ : Thiên lý trường vân bạch nhân huân Bắc phong xuy nhạn tuyết phân phân Mạc sầu tiền lộ vô tri kỷ Thiên hạ hà nhân bất thức quân. 22
  23. (Cao Thích - Biệt Đổng Đại) (Mặt trời chiếu sáng nghìn dặm mây trắng Tuyết tơi bời, gió bấc lùa đàn nhạn bay Chở buồn nẻo đường trước mặt không người tri kỷ Thiên hạ ai người chẳng biết anh.) Có một sự đồng điệu giữa đàn nhạn đang bị gió bấc lùa về phương Nam với người lữ khách đang chuẩn bị đăng trình, khiến lòng kẻ ở người đi đầy thắc thỏm âu lo. Thi nhân là người ở lại với cảnh quen thuộc, chỉ lo cho bạn sắp dấn thân vào nẻo đường xa, nên khẳng định để khuyến khích, an ủi bạn - hẳn trên nẻo đường trước mặt, anh lại có người tri kỷ, như chúng ta đã là tri kỷ của nhau, Ý thơ thật tha thiết trung hậu. Mặc dù rất yêu không gian tĩnh nhưng con người trong thơ Đường lại rất thích đi, và đã đi là đi xa - đến thiên lý vạn lý - vì đi là để mở rộng chân trời, mở rộng hiểu biết, gặp gỡ thêm nhiều người, mở rộng giao du (quảng giao được người xưa coi là một giá trị của văn hóa - đạo đức). Đồng thời họ cũng rất ngại đi xa vì đi xa là rơi vào hoàn cảnh lữ thứ tha hương (người Trung Quốc định canh đã từ lâu và trong tâm lý, họ ngại đi xa). Đi xa là phải chia tay với những gì thân thuộc nhất để dấn thân vào một không gian mới - lạ. Mới thì hấp dẫn thật, nhưng lạ thì thật đáng lo sợ. Nhưng vì quá tĩnh, quá quen, nên lại cũng khát khao, tò mò muốn biết cái lạ. (Điều này ta sẽ thấy rõ hơn khi tìm hiểu truyền thống "chuộng lạ" trong tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc). Sự hấp dẫn và nỗi lo sợ tuy là hai cực của tâm trạng nhưng nó đều cuốn hút, ám ảnh con người, khiến con người rất quan tâm đến không gian. Điều đó lý giải vì sao trong thơ Đường nhiều địa danh đến thế. Hầu như địa danh có mặt trong mọi bài thơ, thậm chí thường đặt vào tựa đề (chẳng hạn : Đằng Vương Các, Thục trung cửu nhật, Dịch thuỷ tống biệt, Đăng U Châu Đài ca, Hoàng Hạc Lâu, Bạch Đế hoài cổ, Há Giang Lăng, Quy chung Nam Sơn, Tống nguyên nhị sứ An Tây, Dạ bạc Ngưu Chử hoài cổ, Kinh Hạ Bì, Dĩ Kiều hoài, Trương Tử Phòng, Tự kinh phó Phụng Tiên , Thạch Đầu Thành, Độ Tang càn, Bạc Tần hoài, Xích Bích hoài cổ,v.v.) Chúng tôi liệt kê hàng loạt những tựa đề mang địa danh để chứng minh một điều : không gian luôn được nhà thơ quan tâm. Điều ấy khiến người đọc có cảm giác rằng, thi nhân đời Đường luôn có ý thức đóng con dấu của mình vào không gian. Phải chăng, một cách tự nhiên, đó là sự thể hiện niềm tự hào của con người đời Đường vì đã chiếm lĩnh vững chắc một không gian lãnh thổ rộng lớn. Và đã là con người vũ trụ thì nó phải được đặt ở giữa lòng vũ - trụ (không − thời gian). Thế cho nên, không gian có mới lạ đi nữa thì vẫn là môi trường vũ trụ của mình. Do đó, con người dẫu phải đau buồn vì ly biệt thì vẫn đầy lạc quan : Hải nội tồn tri kỷ Thiên nhai nhược tỷ lân. (Vương Bột - Tống Đỗ Thiếu phủ chi nhậm Thục Châu) (Trong bốn biển còn người tri kỷ (thì) Dù ở tận chân trời vẫn như gần gũi bên nhau) và đầy tự hào, tự tin mà nhắn nhủ với bạn bè: Lạc Dương thân hữu như tương vấn Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ. (Vương Xương Linh - Phù Dung Lâu tống Tân Tiệm) (Nếu bè bạn ở Lạc dương có hỏi 23
  24. (thì hãy nói rằng) tôi vẫn một mảnh lòng băng trong bình ngọc.) Con người đẹp biết bao, trong sạch biết bao và cũng hoà hợp, tương xứng với môi trường không gian của nó biết bao. Do không gian vũ trụ là không gian mở, có xu hướng giãn nở, vươn đến tầm cao - viễn như vậy, nên kích thước của nó thường được đo bằng những con số vĩ mô. Trong không gian vũ trụ, ta không thấy những kích tấc bé nhỏ, thấp thỏi, mà luôn luôn là không gian với kích thước lớn - thiên lý, vạn lý, tam thiên trượng, tam thiên xích : − Vạn lý trường chinh nhân vị hoàn − Trường phong kỷ vạn lý − Cô bồng vạn lý chinh − Vạn lý bi thu thường tác khách − Bạch phát tam thiên trượng. (Tóc trắng ba ngàn trượng.) − Phi lưu trực há tam thiên xích. (Nước bay thẳng xuống ba ngàn thước.) − Đào Hoa đàm thuỷ thâm thiên xích. (Nước đầm Đào Hoa sâu ngàn thước.) Khi không dùng số đo thì người ta thường dùng những tính từ chỉ sự cao viễn vô biên : − Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ Bất tận trường giang cổn cổn lai. − Thanh thiên nhất vạn viễn Hải khoát cô phàm trì − Hải thượng sinh minh nguyệt Thiên nhai cộng thử thi Tình nhân oán dao dạ Đó là bút pháp khoa trương phóng đại của trí tưởng tượng lãng mạn mà nguyên nhân sâu xa chi phối nó là nhu cầu thể hiện không gian vũ trụ. Nhưng, tạo dựng không gian vũ trụ chính là để đem không gian nội tâm giao hoà, tương thông cùng thế giới : Đạm đạm trường giang thuỷ Du du viễn khánh tình Lạc hoa tương dữ hận Đáo địa nhất vô thanh. (Vi Thừa Khánh - Nam Bành biệt đệ) (Sông dài nước chảy lênh đênh Dặm ngàn đất khách mối tình mênh mông Hoa kia chung mối hận lòng Lúc rơi xuống đất tuyệt không tiếng gì.) Tình người ly biệt cũng thăm thẳm như dòng sông. Thi nhân dùng sự lặng lẽ của cánh hoa rơi để thể hiện sự xao động của tâm hồn trong buổi chia tay. Sự tương giao của tâm hồn với ngoại giới đã đạt đến độ"vô ngôn": 24
  25. Thiên hạ thương tâm xứ Lao lao tống khách đình Xuân phong tri biệt khổ Bất khiển liễu điều thanh. (Lý Bạch - Lao lao đình) (Dưới trời nơi đau khổ Chính ở lao lao đình Gió xuân xót ly biệt Chẳng khiến liễu xanh cành.) Nỗi đau lòng vì ly biệt của con người, trong cả thiên hạ đã tâm trạng hoá cả ngọn gió xuân khiến nó cảm thông với nỗi đau ấy mà không nỡ khiến liễu xanh cành, vì liễu xanh gợi nỗi buồn chiết liễu - nỗi đau buồn chia ly : Chúng điểu cao phi tận Cô vân độc khứ nhàn Tương khan lưỡng bất yếm Duy hữu Kính Đình Sơn. (Lý Bạch - Độc toạ Kính Đình Sơn) (Chim bầy bay vút hết Mây lẻ đi một mình Nhìn nhau không biết chán Chỉ có núi Kính Đình.) Giữa không gian quen thuộc, tầm thường, tẻ nhạt sừng sững một núi Kính Đình vững vàng, kiên định ; giữa cõi đời với bao kẻ bon chen trục lợi, vòi vọi một Lý Bạch với tâm hồn và chí khí thanh cao. Giữa ngọn núi Kính Đình cao cả với thi nhân cao khiết có một mối tình tri âm tri kỷ, khiến người với núi "nhìn nhau không biết chán" - Thế giới nội tâm tương thông, cảm ứng với thế giới ngoại cảnh, với không gian vũ trụ. Với "thao tác" khám phá không gian vũ trụ, ta sẽ tiếp nhận bao mối giao hoà giữa con người với thế giới được thể hiện trong thơ Đường. Sự tương thông giữa không gian nội tâm với không gian ngoại giới đem đến cái cảm giác mà ta đã có lần nói tới : Bước vào thơ Đường, ta bước vào thế giới của sự hoà điệu. 2. Không gian đời thường Như trong Chương II đã nói, sự hoà điệu của thế giới nghệ thuật Đường thi đã bị phá vỡ khi con người xã hội, với tư cách là thần dân xuất hiện. Con người được phản ánh trong quan hệ đối lập, tương phản với những thế lực áp bức họ. Không gian vũ trụ cũng nhường chỗ cho không gian đời thường. Không gian tồn tại của người "dân đen" là không gian đời thường, không gian của sinh hoạt đầy ưu hoạn. Không lạ nếu ta thấy trong thơ hiện thực nhiều không gian đời thường đến thế. Đâu còn nữa sự rộng mở, xa xăm, thoáng đãng của không gian vũ trụ. Giờ đây là không gian đời thường phồn tạp, chật chội, nhãn tiền : Chu môn tửu nhục xú Lộ hữu đống tử cốt. (Đỗ Phủ - Tự kinh phó Phụng Tiên ) Nếu như không gian vũ trụ tương thông với con người vũ trụ là một tất yếu, thì bao quanh con người xã hội là không gian đời thường lại cũng là một tất yếu. Người dân đen bị vây bủa, trói buộc bởi không gian đời thường: 25
  26. − Nhập môn văn hào đào Âu tử cơ dĩ tốt. (Vào cửa nghe kêu gào Con thơ đói vừa mất) − Mộ đầu Thạch hào thôn Hữu lại dạ tróc nhân Lão ông du tường tẩu Lão phụ xuất khan môn. (Đỗ Phủ - Thạch Hào lại) (Chiều chạy đến thôn Thạch Hào Có lại đến bắt người ban đêm Ông lão vượt tường trốn Bà lão ra coi cửa.) Nếu không gian vũ trụ có xu hướng giãn nở, mở rộng, để tâm hồn con người lan toả, giao cảm với ngoại giới thì không gian đời thường có xu hướng thu hẹp, dồn nén con người vào những địa dư chật hẹp, những xó xỉnh của cuộc sinh hoạt : Nhiệm thi thâm sơn cách thâm xứ Dã ứng vô kế tỵ chinh diêu. (Đỗ Tuân Hạc - Sơn Trung quả phụ) (Ở tận hang cùng trong hóc núi Cũng không thoát khỏi thuế xâu đòi.) Con người không còn được bay lượn trong bầu trời mênh mông (kiểu "muốn lên trời cao ngắm vầng trăng sáng") nữa, mà "rớt" xuống "đất bằng" với đời thường vất vả, tất bật : − Cha mẹ vợ con chạy theo tiễn Bụi mù chẳng thấy cầu Hàm Dương Níu áo giậm chân chặn đường khóc. (Đỗ Phủ - Binh xa hành) − Phía trời tây mây đỏ ngùn ngụt Tia mặt trời xuống tận đất bằng. (Đỗ Phủ - Khương thôn) Người ta cũng không còn hăm hở "đăng cao" nữa mà lo bám lấy đất bằng để tồn sinh một cách vất vả, khó nhọc : Tơ hồng leo phải cây đay Quanh co quấn quýt cho dây khó dài Gả con cho mấy cậu cai Thà rằng bỏ quách ở nơi vệ đường. Khi con người vũ trụ du lãm, những địa danh thường là danh lam thắng cảnh gắn với thời gian nghìn tuổi (Tô Đài, Hoàng Hạc Lâu, U Châu Đài, Vạn Tuế Lâu, ). Còn người dân đen thì đi (hoặc chạy) trong những thôn xóm, làng mạc cụ thể của thời hiện tại (Thạch Hào, Đồng Quan, Đồng Cốc huyện, Hồ Thành huyện, ). Đó là những chiến trường đang xảy ra những cuộc giao tranh : Đêm khuya qua bãi chiến trường Ánh trăng lạnh soi trên xương trắng. 26
  27. hoặc những thôn xóm tiêu điều trong loạn lạc : Làng tôi hơn trăm nhà Thời loạn tản đông tây. Đi hoài thấy ngõ vắng Buồn tênh bóng nắng gầy. (Đỗ Phủ - Vô gia biệt) Lý Bạch và Đỗ Phủ là đôi bạn thân, họ đều ở trên một đất nước ấy, vậy mà từ "Nắng rọi hương lô khói tía bay" đến "Buồn tênh bóng nắng gầy" chẳng xa nhau bao nhiêu về không gian và thời gian nhưng có cả một sự biến đổi trời - vực về không gian nghệ thuật. Dẫu vẫn muốn lượn bay trong không gian vũ trụ nhưng với tư cách là người phát ngôn của nhân dân, Đỗ Phủ không thể không vẽ lại bóng nắng gầy guộc, thảm thê trên một quê hương bị chiến tranh tàn phá đến xác xơ tiều tuỵ. Không gian vũ trụ thường được "đo" bằng những kích thước ở cấp độ vĩ mô hoặc thể hiện bằng những hình tượng có tính tượng trưng, ước lệ : Đào Hoa đàm thuỷ thâm thiên xích Bất cập Uông Luân tống ngã tình. (Nước đầm Đào Hoa, sâu ngàn thước Không bằng tình Uông Luân tiễn biệt ta.) (Lý Bạch - Tặng Uông Luân) Không gian đời thường thì lại rất thực, gần gũi, với những số đo thực, rất bình thường : Thu thuỷ tài thâm tứ ngũ xích Dã tràng cáp thụ lưỡng tam nhân Bạch sa thuý trúc giang thôn mộ Tương tống sài môn nguyệt sắc tân. (Đỗ Phủ - Dữ Chu Sơn Nhân) (Nước thu mới sâu độ bốn năm thước Đò đồng chở vừa hai, ba người Cát trắng, tre xanh cảnh chiều hôm trên xóm bến Tiễn nhau trước cổng gióng tre, ánh trăng mới mọc sáng ngời.) Từ "nghìn thước" của không gian vũ trụ, rút xuống bốn, năm thước của không gian đời thường, tính phiếm định và tính cụ thể, xác thực của hai loại không gian đều rất rõ. Không gian vũ trụ thường được vẽ nên bằng những nét chấm phá đơn sơ, gây ấn tượng và gợi liên tưởng. Nhưng với không gian đời thường thì ngòi bút thi nhân phải miêu tả cụ thể và có khi tỷ mỷ. Đó là vì tượng trưng và gợi ý thì đường nét cần thoáng mà tả chân thì nét bút cần cụ thể, đầy đủ và có khi phồn tạp. Thi pháp không gian là có tính quy luật. Khi con người vũ trụ thể hiện nội tâm, thể hiện khát vọng hoà nhập với vũ trụ thì không gian không thể là không gian đời thường. Nhưng con người đời thường thì đâu còn lòng dạ nào mà gửi tâm hồn vào cõi cao xa. Hai kiểu con người được đặt trong hai không gian hoàn toàn khác nhau, dẫu rằng vẫn là một đất nước ấy. Bởi vì không gian quan niệm đã đổi khác. Lý Bạch đi đâu thì cả vũ trụ chuyển dời theo : Mộ tòng bích sơn há Sơn nguyệt tuỳ nhân quy (Chiều hôm bước xuống chân đèo Bóng trăng trên núi cũng theo người về.) 27
  28. Đỗ Phủ đi đâu thì tai hoạ đuổi theo đến đó : Nhớ lại lúc chạy loạn Lên bắc bao hiểm nghèo Đêm Bành Nha khuya khoắt Đỉnh Bạch Thủy trăng treo. Bao gánh nặng tai ương sầu khổ dồn lại với nhà thơ (Bách ưu tập hành - Bài ca trăm mối lo dồn). Đời Đỗ Phủ đầy đau khổ, lo âu. Đi thi hai lần, thì hai lần gặp Lý Lâm Phủ đánh hỏng. Không muốn áp bức dân thì triều đình lại "ban" cho chức Huyện uý (coi việc thu thuế, ). Đỗ Phủ từ chối. Về thăm nhà thì trên đường đi chứng kiến bao cảnh đau lòng, gặp những đống xương chết rét bên đường, vừa về đến cửa thì nghe tiếng khóc vì "con thơ đói vừa mất". Bài thơ Tự kinh Phó Phụng Tiên huyện vịnh hoài viết trong lúc này chính là một sự "đốn ngộ" của nhà thơ. Lúc nhận được một chức quan nhỏ cũng là lúc nhận thức được rằng mình không thể không đứng về phía nhân dân, mình phải bênh vực những người dân nghèo khổ. Tự kinh phó Phụng Tiên huyện là một cái mốc quyết định trên con đường thơ, đường đời của Đỗ Phủ. Ngay tựa đề bài thơ cũng đã thể hiện sự vận động rời bỏ chỗ đứng vốn dĩ của mình đi về phía nhân dân: Từ kinh đô về huyện Phụng Tiên. Từ triều đình về với dân dã. Ta thấy rõ sự chuyển biến về lập trường, chỗ đứng, về tư tưởng và quan niệm nghệ thuật thể hiện ra ở sự vận động của không gian thơ : Từ kinh về huyện Bài thơ này, nói như Phan Ngọc, là "bản tuyên ngôn của một nền thi ca mới"(1). Khi không gian nghệ thuật thay đổi thì những hình tượng, sự vật, màu sắc được dung chứa trong đó cũng thay đổi. Lý Bạch thì đi với "thuyền lan, chèo quế" còn Đỗ Phủ thì chỉ có "đò nhà quê chở vừa hai ba người" và "Thi Thánh" đã trút hơi thở cuối cùng trên một con thuyền rách nát. Con chim "bố cốc" gọi đã bao đời nhưng "con người vũ trụ" có bao giờ để ý, vì họ đâu có quan tâm đến hạt lúa phải một nắng hai sương vất vả thế nào, chỉ khi đã trải qua đói rét, phải ăn quả dại thay cơm, người ta mới chú ý, vui mừng nghe tiếng chim giục giã: Nhà nông đầy hy vọng tiếc nắng tiếc mưa Chim bố cốc nơi nơi giục : xuân rồi gieo mạ. Cũng chỉ những nhà thơ hiện thực đầy lòng ưu ái với dân nghèo mới đau lòng trước "những điều trông thấy" đầy nghịch lý : "khắp nơi không có một tấc đất hoang, mà nhà nông còn chết đói". Đến các "gam" màu trong hai thế giới nghệ thuật cũng khác xa nhau. Trong không gian vũ trụ, mọi vật đều mang màu sắc tươi sáng, trong trẻo : Giang thiên nhất sắc vô tiêm trần Hạo hạo không trung cô nguyệt luân. (Trương Nhược Hư - Xuân giang hoa nguyệt dạ) Còn trong không gian đời thường, thế giới cảnh vật quanh cuộc đời vất vả đều mang màu sắc u tối, nhợt nhạt : Trần ai bất kiến Hàm Dương kiều (Bụi mù chẳng thấy cầu Hàm Dương) (1) Phan Ngọc, Đỗ Phủ, nhà thơ dân đen, NXB Đà Nẵng, 1990, tr. 195. 28
  29. hoặc Vợ chồng nhìn nhau mặt đều xanh bủng hoặc Thằng con nuông nhất đời Nước da trắng nhợt hơn tuyết Thấy cha liền ngoảnh mặt khóc oà Chân đầy ghét bẩn không bít tất. Hai bàn chân đầy ghét bẩn ấy làm sao tồn tại được trong không gian vũ trụ, nó đầy cáu ghét vì giẫm trong cát bụi của đời thường, hơn nữa - đời loạn lạc. Cứ dùng phép so sánh song hành như thế, chúng ta sẽ thấy rõ sự khác biệt của hai "kiểu" không gian nghệ thuật - và cũng dễ thấy tính quy luật của quan hệ giữa quan niệm nghệ thuật về con người với các yếu tố khác của thi pháp, trong đó có không gian nghệ thuật. Điều cần lưu ý là : - Dù có hai "kiểu" không gian tiêu biểu, nhưng trong thơ Đường vẫn thường liên tưởng tới một thế giới yên tĩnh, cao vời, xa xăm - thế giới của sự hoà điệu (điều này còn phụ thuộc vào tâm lý tiếp nhận mà ở đây chúng tôi không có điều kiện trình bày). - Cả hai "kiểu" không gian nghệ thuật của thơ Đường đều đạt đến trình độ "cổ điển", tiêu biểu cho không gian nghệ thuật thơ Trung Quốc. 29
  30. CHƯƠNG IV: THỜI GIAN NGHỆ THUẬT: I − KHÁI NIỆM "THỜI GIAN NGHỆ THUẬT" Khái niệm "thời gian'' là một phạm trù triết học. Thời gian cùng với không gian là hình thức tồn tại của vật chất. Chỉ trong thời gian và không gian thì sự vật mới được xác định. Thời gian là một đại lượng để xác định quá trình tồn tại, vận động và phát triển của mọi vật, mọi sự trong thế giới. Hình tượng nghệ thuật cũng chỉ có thể được xác định trong không gian - thời gian. Thời gian khách quan (thời gian tự nhiên) có một tính chất rất đặc biệt, đó là quy luật : chỉ vận động theo một chiều. Nhưng trong tác phẩm nghệ thuật, thời gian được tái tạo lại mang tính chủ quan của tác giả. Cả chiều dài, quy mô, hướng vận động, nhịp độ, của nó đều tuỳ thuộc tác giả. Có nghĩa là thời gian trong tác phẩm nghệ thuật không tuân thủ quy luật "một chiều" của thời gian khách quan nữa. Khi đọc một tác phẩm văn học, ta ít quan tâm đến thời gian. Vậy mà ta chỉ hiểu tác phẩm khi đặt nó trong mối tương quan thời gian của nó. Đặc điểm của thời gian nghệ thuật là luôn luôn mang tính cảm xúc (tâm lý) và tính quan niệm. Nó đầy tính chất chủ quan vì nó do "một con người" (tác giả) tạo nên. Con người trong tác phẩm chỉ là hình tượng con người. Do đó, thời gian trong tác phẩm là thời gian của hình tượng. Vậy : thời gian nghệ thuật là hình tượng thời gian được sáng tác nên trong tác phẩm nghệ thuật. Ở đây thời gian được dùng làm phương tiện để phản ánh đời sống, thể hiện cảm xúc và tư tưởng. Thời gian nghệ thuật có tính chất tự do so với thời gian khách quan - nó có thể bị đảo ngược (vận động ngược chiều), bị hãm tốc hoặc bị tăng tốc, Trong tiến trình lịch sử văn học, thời gian nghệ thuật đã nhiều phen thay đổi. Thường là tương ứng với một giai đoạn, một loại hình, một xu hướng, Có những "kiểu" thời gian xác định. Thời gian nghệ thuật là một phương diện (yếu tố) quan trọng của thi pháp. Đối với tác giả, nó là một phương tiện để tác giả phản ánh đời sống, thể hiện xúc cảm và tư tưởng. Đối với người đọc, nó là tín hiệu để khám phá bản chất của hình tượng. II − THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG THƠ ĐƯỜNG Với thơ Đường, thơ Trung Quốc bước vào một thế giới mới - con người đời Đường, ở đây là thi nhân đời Đường, đặc biệt quan tâm tới thời gian. Điều đó chứng tỏ sự trưởng thành, chín muồi trong quan niệm nghệ thuật về thời gian. Chúng tôi cho rằng, quan niệm về thời gian trong thơ Đường cũng chịu sự chi phối của sự hội tụ ba dòng tư tưởng Nho, Phật, Đạo. Mặt khác hoàn cảnh lịch sử của đời Đường bị chia làm hai giai đoạn chính với loạn An − Sử là cái mốc. Nó tác động sâu sắc đến thơ ca, khiến thơ có hai khuynh hướng : Trữ tình lãng mạn và phản ánh hiện thực, dẫn đến trong thơ có hai "kiểu" con người cơ bản : con người vũ trụ và con người xã hội. Tương ứng với hai kiểu con người đó là hai kiểu" không gian : không gian vũ trụ và không gian đời thường. 30
  31. Xét về phương diện thời gian, ta cũng thấy : tương ứng với hai "kiểu con ngưòi trong thơ thuộc hai khuynh hướng, cũng có hai kiểu thời gian nghệ thuật cơ bản : thời gian vũ trụ và thời gian đời thường. 1. Thời gian vũ trụ Như trong Chương III đã nói, "vũ trụ" có nghĩa là không - thời gian. Nói "thời gian vũ trụ" tức là nói thời gian trong mối quan hệ thống nhất biện chứng với không gian, với tư cách là "chiều thứ tư" của không gian. Thông thường, người ta có một tập quán cho rằng vũ trụ là một khái niệm chỉ không gian. Cho nên khi nói "không gian vũ trụ" thì dễ dàng chấp nhận, còn nói "thời gian vũ trụ" thì cảm thấy khó chấp nhận. Nhưng một khi đã hiểu rằng : từ "vũ trụ" có nghĩa là (không+ thời) gian, vũ trụ thống nhất là hình thức tồn tại của vật chất, hệ thống này gồm hai yếu tố : "Tứ phương, thượng hạ vị chi vũ" = không gian Vãng cổ lai kim vị chi trụ" = thời gian và đã chấp nhận "không gian vũ trụ" thì cũng có nghĩa là mặc nhiên chấp nhận "thời gian vũ trụ". Ta thường quan niệm rõ hơn về không gian vì không gian là cái có thể nhìn thấy được, còn thời gian thì vô hình, ta không cảm nhận được bằng ngũ quan. Thời gian vô hình mà chẳng có gì là không vận động trong thời gian, "đi" trong thời gian. Hơn nữa con người còn bị thời gian chi phối khắc nghiệt hơn cả không gian, vì thời gian chỉ có một chiều, đã đi là mất. Con người mà cảm nhận được bước đi của thời gian là con người rất đau khổ. (Người hạnh phúc mấy khi quan tâm đến thời gian). Cũng chỉ người trưởng thành mới ý thức được thời gian một cách sâu sắc. Thơ Đường đã đạt đến độ trưởng thành của thơ Trung Quốc - ở đó quan niệm về thời gian cũng đạt đến độ sâu chưa từng thấy. + Đặc tính thứ nhất của "thời gian vũ trụ" trong thơ Đường là luôn luôn có mối quan hệ biện chứng với không gian. Đó là cái lẽ vì sao mà người ta có thể dùng không gian để thể hiện thời gian và ngược lại. Nhàn vân đàm ảnh nhật du du Vật hoán tinh di kỷ độ thu. (Vương Bột - Đằng Vương Các) (Mây lơ lửng, đầm lồng bóng, chuỗi ngày dài dằng dặc trôi Vật đổi sao dời, thu qua bao độ.) Cái cảm giác "nhật du du" (cảm giác về thời gian) cơ hồ là do "nhàn vân đàm ảnh" (không gian) đưa lại; và con người nhận biết được "kỷ độ thu" là do sự quan sát, thể nghiệm về sự đổi thay trong không gian, vật đổi sao dời" (trong Truyện Kiều ta thấy điều này rất rõ : nhìn màu "lửa lựu lập loè" ta biết mùa hè, nhìn hoa cúc ta biết mùa thu). Thời gian với không gian thống nhất lại, làm nên "thế giới" (cõi - đời), làm nên "vũ trụ" bao trùm "tiểu vũ trụ - con người". Ta đã thấy trong thơ Đường rất nhiều địa danh, dường như thi nhân có ý thức đóng con dấu của mình lên không gian. Khảo sát thời gian nghệ thuật, ta lại thấy thêm một điều : thời gian luôn luôn có mặt cùng với không gian trong mối quan hệ không thể chia tách và phần nhiều cũng được đặt luôn vào tựa đề của bài thơ. Chẳng hạn : Thục trung cửu nhật, Bạch Đế hoài cổ, Xuân giang hoa nguyệt dạ, U Châu tân tuế tác, Cửu nguyệt cửu nhật ức Sơn Đông huynh đệ, Dạ bạc Ngưu chử hoài cổ, Ngay cả khi chỉ có tín hiệu không gian, ta vẫn thấy hàm ẩn, thấp thoáng đằng sau địa danh ấy một thời gian. Ví dụ :"Dịch Thuỷ tống biệt". Địa danh "Dịch Thuỷ" đã gợi lên trong tâm trí 31
  32. khoảng thời gian dằng dặc từ thời Yên Đan tiễn Kinh Kha đi vào đất Tần. Kinh Hạ bì, Dĩ Kiều hoài Trương Tử Phòng thì Dĩ Kiều với Trương Tử Phòng đã thông tin cho người đọc biết thời gian hoài cổ của bài thơ, Về phương thức thể hiện thì thời gian ấy cũng rất đa dạng. Người xưa cũng biết thời gian chỉ có một chiều nhưng đồng thời cho rằng nó vận động theo chu kỳ tuần hoàn. Quan niệm thời gian tuần hoàn một chiều này đến Đường đã rất thành thục vì thời này cả ba dòng tư tưởng, ba kiểu tư duy Nho, Phật, Đạo đã dung hợp. Do quan niệm thời gian lưu chuyển tuần hoàn một chiều này mà con người vừa thấy đời người dù có dài đến trăm năm cũng chỉ là một khoảnh khắc, một "sát na" tạm bợ trên vòng lưu chuyển luân hồi của thời gian vô thuỷ vô chung. Huống chi thực tế lại cho họ biết rằng" nhân sinh thất thập cổ lai hy" (Người thọ bảy mươi xưa nay hiếm). Họ phải tìm cách giải thoát khỏi "định mệnh" khắc nghiệt đó. Nếu như các đạo sĩ suốt đời tìm "linh chi", "tiên dược", luyện đan mong thực hiện khát vọng "thọ ngang trời đất"; các hoà thượng "tinh tấn" tu trì mong giải thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi, thì thi nhân gửi gắm khát vọng trường tồn vào thơ ca. Thời gian vũ trụ chính là một phương thức thể hiện khát vọng đó : Thi thành thảo thụ giai thiên cổ (Lý Bạch) (Bài thơ làm xong thì cỏ cây đều sống ngàn năm.) Họ nhận thấy nghệ thuật có thể chiến thắng thời gian Khuất Bình từ phú huyền nhật nguyệt Sở Vương đài tạ không sơn khâu (Lý Bạch - Giang thương ngâm) (Từ phú của Khuất Nguyên vẫn sáng với mặt trời, mặt trăng Lâu đài vua Sở đã thành núi gò trơ trụi.) Đó là lý do khiến thi nhân không đóng khung thời gian nghệ thuật trong thời hiện tại. Mặc dù con người bao giờ cũng chỉ "hiện sinh" (sinh tồn trong thời hiện tại) nhưng nếu trong không gian, nó luôn luôn đứng giữa đất trời, khát vọng hoà nhập vào "thiên địa" thì trong thời gian, nó cũng xác định mình ở một điểm (điểm hiện tại) trên dòng vận động lưu chuyển của thời gian, để tâm trí rong ruổi trong thời gian vô thuỷ vô chung. Vậy nên, với tư cách là thời gian vũ trụ, thời gian nghệ thuật trong thơ Đường ít chịu đóng khung trong thời hiện tại mà luôn có xu hướng vận hành trong vòng lưu chuyển của thời gian, ngược về quá khứ, xuôi đến tương lai. Nhưng khảo sát thơ Đường, ta thấy một thực tế này : - Thơ Đường ưu tiên cho thời quá khứ, và thời quá khứ đó chủ yếu được thể hiện dưới hai dạng : thời gian hoài cổ và thời gian ký ức. Trong thơ Đường, ta bắt gặp vô số tâm trạng hoài cổ. Mở quyển Thơ Đường, tập I (1) là tuyển tập của ba trăm năm thơ Đường, ngay trang đầu tiên ta gặp Vương Tích : Trường ca hoài thái vi. (Hát ngao chạnh nhớ người hái rau vi.) "Người hái rau vi" là Bá Di, Thúc Tề từ thời cổ. Và trang cuối cùng ta lại gặp Tào Đường với nỗi hoài niệm sự tích "Lưu, Nguyễn nhập Thiên Thai". Thi nhân toàn những nhớ người xưa. Lạc Tân Vương đến bờ sông Dịch nhớ lại : Tích thời nhân dĩ một (1) NXB Văn học, H., 1987. 32
  33. Kim nhật thuỷ do hàn. (Người xưa đã khuất rồi. Nước sông Dịch ngày nay còn giá lạnh.) Tinh thần xả thân trừ bạo của Kinh Kha nghìn năm trước vẫn còn đây, dòng sông Dịch, "chứng nhân" của lịch sử còn buốt lạnh. Lời ca vĩnh viễn của người tráng sĩ ngày xưa làm cảm khái cả trời đất, nay vẫn hiện về trong cảm khái của nhà thơ. Ta sẽ thấy trong thơ Đường bao nhiêu là thơ hoài cổ - Bạch Đế hoài cổ, Tây Thi vịnh, Việt trung lãm cổ, Vịnh hoài cổ tích, Xích Bích hoài cổ, Trong ý niệm, thậm chí trong tiềm thức của thi nhân, cái gì của ngày xưa cũng đẹp, cũng có giá trị. Người xưa bao giờ cũng tốt đẹp ,là những tấm gương, là những chuẩn mực mà con người ngày nay ngưỡng mộ. Thánh vương chỉ có ở thời cổ (Nghiêu, Thuấn, Vũ, ). Thánh nhân cũng chỉ có ở thời cổ (Di, Tề, Khổng, Mạnh, ). Hiền thần cũng chỉ ở xa xưa (Y, Doãn, Lã Thượng, Chu Công, Gia Cát Lượng, ). Anh hùng cũng chỉ anh hùng ngày xưa mới đáng ca ngợi (Hạng Vũ, Trương Lương, Lý Quảng, ) và mỹ nhân cũng phải là mỹ nhân thời cổ mới gây nên ở họ sự ngưỡng vọng (Tây Thi, Chiêu Quân, Phi Yến, ). Tài tử cũng phải là tài tử ngày xưa và bao giờ họ cũng muốn sánh được với tài tử ngày xưa (Khuất Nguyên, Tống Ngọc, Ban Cố, Dương Hùng, ). Phải nói đó là tâm lý, tư duy bảo thủ, đặc biệt được tô đậm bởi quan niệm của nho gia. - Nhưng thời gian hoài cổ không phải luôn luôn được đánh dấu bằng những tên tuổi, những cột mốc cổ xưa mà nhiều khi nó chỉ mang tính phiếm chỉ - miễn "cổ" là đủ để yên tâm : Ngã hữu vạn cổ trạch Tung Dương Ngọc Nữ phong (Lý Bạch - Tống Dương Sơn Nhân quy Tung Sơn) (Ta có ngôi nhà muôn năm Ở trên ngọn Ngọc Nữ núi Tung Dương.) Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ (Người xưa đã cưỡi hạc vàng đi đâu mất) (Thôi hiệu - Hoàng Hạc Lâu) Tại sao người ta thích hoài cổ, thích tựa lưng vào quá khứ như vậy ? Vì cái gì của cổ nhân cũng đã được thời gian kiểm nghiệm rồi - không thực sự có giá trị thì sao có thể tồn tại mãi hàng ngàn năm ? Cho nên, vượt được thời gian là đủ độ tin cậy. Nếu không là "cổ" thì chí ít cũng là "cũ" mới đáng tin cậy. Bạn phải là bạn cũ mới quý, vì thế ta gặp rất nhiều "cố nhân" trong thơ : − Cố nhân cụ kê thử. (Mạnh Hạo Nhiên) − Phù vân du tử ý Lạc nhật cố nhân tình. (Lý Bạch) − Tây xuất Dương quan vô cố nhân. (Vương Duy) − U ý cánh như thử Huống nãi cố nhân lai. (Bạch Cư Dị) Quê hương cũng phải là quê cũ (cố hương, cố quốc, cố viên) mới gợi nhớ da diết : 33
  34. − Quân tự cố hương lai Ưng tri cố hương sự. (Vương Duy) − Nhược vi hoá đắc thân thiên ức Tán tác phong đầu vọng cố hương. (Liễu Tông Nguyên) (Ước thân hóa làm muôn ức Đứng vạn đầu non vọng cố hương.) − Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ Cô chu nhất hệ cố viên tâm. (Đỗ Phủ - Thu hứng I) (Khóm trúc lại tuôn thêm dòng lệ ngày ấy Con thuyền cô quạnh buộc mãi mối tình vườn cũ.) − Độc thương giang lâu cố quốc tình. (Dương Sĩ Ngạc - Đăng lâu) (Một mình lên lầu cao bên sông, chạnh niềm cố quốc.) Bạn cũ thì bây giờ vẫn là bạn, quê hương thì bây giờ vẫn là quê hương, nhưng trong tâm thức phải là bạn cũ, quê cũ mới đáng yêu quý, trân trọng, gắn bó - lại cũng chỉ vì cái "cũ" là cái đã được kiểm nghiệm, đã qua thử thách. Không gian, cảnh vật, con người, tình tự, được đóng dấu "cổ" (ít ra cũng là cũ) lên mới thành giá trị. Bản tính con người là thích cái mới. Thi nhân có đa tình, mộng mơ đến mấy thì cũng chỉ có thể yêu "lân nữ"(cô láng giềng), yêu những người con gái cùng thời với họ chứ làm sao yêu được Tây Thi, Ngu Cơ, Chiêu Quân, Nhưng đối với thơ Đường, hình như cái mới, cái hiện kim chưa đủ độ tin cậy vì nó chưa qua sự kiểm nghiệm của thời gian, giá trị của nó còn chưa được khẳng định, mà tương lai thì lại càng mờ mịt, mơ hồ cho nên họ hoài cổ, đem cái cổ về với hiện tại để làm thước đo, làm chuẩn mực cho giá trị. Một dạng nữa của thời gian quá khứ trong thơ Đường là thời gian ký ức (hay hồi tưởng, kỷ niệm). (Hoài cổ là thời quá khứ xa xăm, còn ký ức là quá khứ gần). Một thao tác thường thấy của thơ Đường là biến thời gian thành ký ức. Chẳng hạn, hai người đang chia tay nhau nhưng thời hiện tại chỉ được nói đến trong nửa đầu, sang đến nửa sau thì nửa đầu đã trở thành quá khứ. Hiện tại nhiều khi cũng được cảm nhận như một quá khứ gần. Đêm mưa thu hôm nay là ký ức được gợi lại trong câu chuyện bạn cùng ta nhắc đến lúc ngồi bên cửa sổ phía tây : Quân vấn quy kỳ vị hữu kỳ Ba sơn dạ vũ trướng thu trì Hà đương cộng tiễn tây song chúc Khước thoại Ba Sơn dạ vũ thì. (Lý Thương Ẩn - Dạ vũ ký bắc) (Bạn hỏi ngày về, chưa hẹn được Đêm mưa núi Ba ao thu đầy nước Bao giờ ở cửa sổ phía tây cùng chong đèn 34
  35. Lại cùng trò chuyện về lúc mưa đêm ở núi Ba.) Cách cảm nhận và thể hiện này đã nhanh chóng biến các hình ảnh của hiện tại thành ký ức, gợi nên không gian và thời gian xa xăm để con người hoài niệm. Nó không nói về chỗ đứng của nó mà nói về xung quanh; nó không nói về lúc nó đang tồn tại mà đẩy về phía trước để ngoái lại nhìn : Kim nhật tống quân tu tận tuý Minh triêu tương ức lộ man man. (Giả Chí - Tống Lý Thị lang phó Thường Châu) (Còn bữa này thôi sau tuý luý Nhớ nhau, mai lại cách muôn vàn.) Cái ngày hôm nay thế là quý lắm, vì nó là nỗi nhớ của ngày mai. Sao người ta lại làm thao tác ấy ? Vì người ta muốn lưu giữ kỷ niệm, muốn hôm nay phải trở thành kỷ niệm cho ngày sau. Đặc tính của thời gian là trôi chảy. Muốn thời gian không mất thì hãy "chất" nó vào kho tàng ký ức. Trong thơ Đường (bộ phận thể hiện con người vũ trụ) sao mà nhiều nỗi nhớ đến thế. Ta gặp khắp nơi những "hoài","ức","tư","niệm" (đều có nghĩa là nhớ). Một chữ "nhớ" hiện lên biến tất cả thành kỷ niệm. Con người thường ghi lại khoảnh khắc nó "nhớ". Vì khi "nhớ" là khi nó ở trạng thái tâm hồn đẹp, ở tư thế đẹp, nó lưu giữ được thời gian; nói cách khác : nó khắc phục được hạn chế của thời gian. Kỷ niệm bao giờ cũng đẹp (cái gì không đẹp thì dễ bị lãng quên). Quá khứ là đẹp vì nó hiện lên trong ta qua màn sương kỷ niệm. Thơ Đường hay nói đến quá khứ (và tương lai hư ảo) còn vì đó là cái vô cùng. Khi nói đến không - thời gian (vũ trụ) vô cùng, con người cảm giác được thư giãn, được giải thoát khỏi cái không - thời điểm (tồn tại) hạn hẹp, giải thoát khỏi những hệ luỵ của đời thường. Như vậy, phải chăng cũng có nghĩa là: trong cảm niệm của thi nhân, thơ là một phương tiện giải thoát (hay nói cách khác - đối với họ (thi nhân) thơ như là một thứ tôn giáo)? (Ông Lâm Ngữ Đường cũng cho rằng, thơ là tôn giáo của người Trung Quốc)(1). Nhưng nói về quá khứ không phải vì quá khứ. Người ta thường nói về quá khứ vì khao khát có mặt ở tương lai. Lập luận như vậy có vẻ như là nghịch lý. Nhưng cái lý là ở chỗ: Vì tương lai như thế nào không sao biết được, mà con người lại muốn trường tồn - họ nhớ mãi về thời xa xưa, nhắc nhở, ca ngợi ngàn xưa. Thực tế đã diễn ra như vậy - Lý Bạch nói : "Từ phú của Khuất Nguyên vẫn sáng cùng mặt trời mặt trăng" thì hậu thế lại nói "văn chương Lý, Đỗ còn, ánh sáng chiếu muôn trượng", Nhà phê bình Thánh Thán cũng thừa nhận động cơ của mình khi phê bình những tác phẩm văn chương của người xưa : "Bản ý tôi là muốn làm duyên với người sau đôi chút, chứ hơi đâu mà chật vật vì người đời xưa". Trong văn học Việt Nam, Nguyễn Du cũng đã thể hiện nỗi lo hậu thế quên mình : Bất tri tam bách dư niên hậu Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như ? (Không biết ba trăm năm sau Thiên hạ có ai khóc Tố Như chăng?) Nhà thơ mong mỏi người đời sau hiểu mình như bây giờ mình đang hiểu và thương xót nàng Tiểu Thanh. (1) Lâm Ngữ Đường, Nhân sinh quan và thơ văn Trung Hoa, Ca Dao, Sài Gòn, 19. 35
  36. Một điều nữa rất quan trọng, ấy là : hoài cổ chính vì thương kim, vì không bằng lòng với hiện tại. Không thoả mãn không chỉ là đặc tính của nghệ sĩ. Đó cũng là đặc tính của con người. Nhưng ở nghệ sĩ, điều này càng sâu sắc vì nghệ sĩ thường nhạy cảm và luôn luôn khao khát sự hoàn thiện. Chứng kiến bao cảnh bất công, ngang trái ở đời, đau lòng vì hiện tại, họ tìm về những tấm gương tốt đẹp của ngày xưa là cố ý nhắc nhở con người hiện tại. Trong cảm niệm thời gian của thi nhân thời cổ, cái gì của quá khứ cũng tốt đẹp, và hiện tại không bằng quá khứ. Hiện tượng ấy là do nhiều nguyên nhân đưa lại. "Sự hướng về quá khứ trong dòng thời gian một cách chủ quan là một đặc điểm của người Trung Quốc cổ xưa không thấy các thế kỷ đã qua đứng sau lưng mình; trái lại, họ hướng về chúng bằng tất cả tồn tại của họ"(1). Nhận định đó của Lixêvích là đúng. Nhưng phải thấy rằng, đằng sau thời gian hoài cổ là một niềm thương xót cho hiện tại và cho tương lai. Hiện tượng này trong văn học cũng đồng dạng với phong tục thờ cúng tổ tiên của người Trung Quốc, Việt Nam, Họ thờ cúng tổ tiên, tức phụng thờ quá khứ, một phần do tình cảm đối với tổ tiên, đối với ông bà, cha mẹ, nhưng một phần quan trọng là họ muốn nhắc nhở con cháu đời sau sẽ nhớ đến mình, sẽ kế thừa những gì tốt đẹp của các thế hệ đi trước. Khi thắp nén hương tưởng nhớ tiền nhân, họ còn muốn truyền anh linh của tổ tiên cho con cháu. Tâm lý này, nguyện vọng này có nguồn gốc sâu xa từ nền văn minh nông nghiệp - "Thần Nông giáo dân nghệ ngũ cốc". Hàng ngàn năm trồng cây, cư dân nông nghiệp nhận thấy tầm quan trọng của hạt giống. Họ coi trọng việc để giống và luôn lo "mất giống" - mà hạt giống là đại biểu của quá khứ và bao giờ cũng phải là tốt nhất. Dần dần, trong con người lắng đọng một ý thức biết ơn hạt giống, biết ơn quá khứ vì luôn luôn mong mỏi những vụ mùa "phong thu". Họ lo mất giống, lo âu "vô hậu". Tâm lý ấy tác động đến lý tưởng thẩm mỹ. Trong văn bản nghệ thuật, quan niệm thẩm mỹ ấy hiện ra ở cái đẹp của quá khứ, ở cảm hứng hoài cổ, ký ức, hồi tưởng, Đặt con người trong vòng lưu chuyển của thời gian để luôn nhắc nhở con người biết ơn quá khứ, trách nhiệm với hiện tại, lo lắng và dành lại những gì tốt đẹp cho tương lai - đó là ý nghĩa nhân văn đích thực của thời gian vũ trụ trong thơ Đường. 2. Thời gian đời thường Trong dòng thơ hiện thực, tức bộ phận phản ánh đời sống của con người xã hội, thời gian nghệ thuật là thời gian đời thường. Không còn nữa những "thiên thu","vạn cổ" của kiểu thời gian vũ trụ. Nhà thơ Đỗ Phủ : Nằm đói đã mười ngày rồi Áo rách vá trăm mảnh chằng chịt. Và người làm ruộng thì : Tháng hai bán sớm tơ Tháng năm bán non thóc Cắt miếng thịt cuống tim Trị vết thương trước mắt. Nhìn chung, thời gian đời thường chủ yếu là thời hiện tại, có tính chất cụ thể, trực cảm. Đó là thời gian sự kiện, thời gian sinh hoạt, gần như trùng với thời gian trần thuật. Người ta kể về cái đang diễn ra (chứ không nhớ về cái đã qua như trong thời gian vũ trụ) : (1) Lixêvích, Tư tưởng văn học Trung Quốc trong buổi giao thời giữa cổ xưa và trung cổ , Sđđ. 36
  37. Lúc này vác thuổng về tay không Gái khóc, trai rên, bốn vách lặng. (Đỗ Phủ - Càn nguyên trung tác ca) Thời gian không được giãn nở một cách thoải mái, phiếm định nữa mà khắc khoải trườn qua những nỗi đau khổ liên tiếp: Nửa đêm bờ đê mưa lẫn tuyết Vừa về, quan lại bắt đi tiếp Đêm lạnh, tơi ngắn áo dính da Ngực thủng chân rách dám kêu ca ! Đến sáng đắng cay không chỗ nói. (Vương Kiến - Thuỷ phu dao) - Hôm qua xóm Nam khóc Tiếng khóc bao thương đau Rằng vợ khóc chồng đó Chồng hai nhăm tuổi đầu - Sớm nay thôn Bắc khóc Tiếng khóc bao thê thảm Rằng đây mẹ khóc con Con mười bảy, mười tám. (Bạch Cư Dị - Văn khốc giả) Trong thời gian đời thường hầu như không có hoài niệm, không có những quá khứ xa xăm vì người ta nói về những việc đang diễn ra (kể việc = tự sự) : Trời tháng chạp vào năm thứ tám Suốt năm ngày tuyết xuống bời bời Trúc thông cũng chết cóng rồi Huống chi không áo bao người dân kia. (Bạch Cư Dị - Thôn cư khổ hàn) Đó cũng là thời gian của công việc lao động : − Xới lúa trời đứng trưa Mồ hôi rơi xuống ruộng. (Lý Thân - Mẫn nông) − Sáng chăn trâu Lùa trâu khúc sông dưới Tối chăn trâu Lùa trâu hóc xóm núi. (Lý Thiệp - Mục đồng từ) Do tính chất tự sự mà có "thời gian đồng hiện", đây là điểm rất mới của thời gian nghệ thuật thơ Đường: Cửa son rượu thịt ôi Ngoài đường xương chết buốt. Hai bức tranh chỉ cách nhau gang tấc, hai sự kiện xảy ra cùng một lúc, nhưng đối lập trời vực : 37
  38. Thử hỏi là ai đó ? Người rằng : bọn nội thần Ních no lòng thấy khoái Chén khướt khí thêm oai! Năm ấy Giang Nam hạn Cồ Châu người ăn người. (Bạch Cư Dị - Khinh phì) Đó là cảnh bọn quan lại yến ẩm phè phỡn trong khi người dân đói khát phải ăn thịt lẫn nhau. Nếu thời gian vũ trụ được giãn nở với "thiên nhiên", "vạn tuế", với sự khoan thai nhàn nhã thì thời gian đời thường gấp gáp, cấp tập : Vào cửa nghe kêu gào Con thơ đói vừa mất. (Đỗ Phủ - Tự kinh phó Phụng Tiên ) Con người vũ trụ bay lượn trong không gian mênh mông, thời gian trường cửu, nhịp thơ khoan thai, Còn con người sống trong đời thường luôn tất bật, họ không những phải đi nhanh mà còn phải chạy: Xe rầm rầm Ngựa hí vang Người đi cung tên đeo bên lưng Cha mẹ vợ con chạy theo tiễn Bụi mù chẳng thấy cầu Hàm Dương. Thậm chí phải "quăng thân" (đầu) vào cuộc tồn sinh trong loạn lạc : Mộ đầu Thạch Hào thôn Hữu lại dạ tróc nhân Lão ông du tường tẩu Lão phụ xuất khan môn. Thời gian nghệ thuật trong bài Thạch Hào lại rất đặc biệt. Bao nhiêu sự kiện dồn dập xảy ra trong một đêm. Nhất là trong bốn câu đầu vừa dẫn ra : Nhà thơ tất bật (đầu - quăng thân); viên lại vội vàng, chực đêm đến để chộp người (dạ tróc nhân); ông lão hốt hoảng (du tường tẩu = vọt tường chạy trốn); bà lão lật đật (xuất khan môn). Nhịp thơ của Đỗ Phủ rất khẩn trương; ngòi bút rất hoạt của Đỗ Phủ đã là một yếu tố nổi bật trong phong cách thơ ông. Ngòi bút rất hoạt ấy được thể hiện rõ nhất ở thời gian nghệ thuật trong thơ. Ta thấy nhà thơ bao giờ cũng vội. Nhịp thơ dồn dập cho thấy bước đi vội vã của thời gian, bước chân chạy loạn của con người. Con người khi nhàn hạ thì hay hồi tưởng quá khứ, hay mơ mộng về tương lai, nên trong thời gian vũ trụ ít có thời hiện tại mà nhiều thời quá khứ và thời gian tâm tưởng. Con người đời thường là con người đang sống và hành động. Nó không nhàn rỗi để mà hoài niệm hay mộng mơ. Nó bận làm việc. Nên thời gian đời thường chủ yếu là thời gian sự kiện, thời gian sinh hoạt và hầu như không có thời gian tâm tưởng. Nó có nghĩ tới "trước", tới "sau" thì cái "trường" thời gian của nó cũng rất hạn hẹp. Điều đó cũng lý giải vì sao trong thơ Đường, bộ phận thơ thể hiện con người vũ trụ trong không − thời gian vũ trụ vẫn chiếm tỷ lệ cao hơn so với bộ phận thơ hiện thực, phản ánh con người xã hội trong không - thời gian đời thường. Đó là vì con người vũ trụ nhàn hạ, thích trầm 38
  39. tư, có thời gian để suy tư và thể hiện tâm tình. Còn con người trong đời thường đang bận ứng phó với thời cuộc đầy biến động, đang phải lao động và chiến đấu, Họ có ít thời giờ để suy nghĩ, để "làm thơ". Một phép so sánh song hành sẽ giúp ta thấy rõ sự khác biệt của hai "kiểu" thời gian nghệ thuật trong thơ Đường. Thời gian vũ trụ Thời gian đời thường - Thiên về quá khứ - Thiên về hiện tại - Thiên về tâm tưởng - Thiên về hành động - Thiên về kỷ niệm - Thiên về sự kiện - Rộng mở, trường cửu - Ngắn ngủi, hạn hẹp - Nhàn nhã, khoan thai - Vội vàng, gấp gáp - Nhiều chất thơ. - Đầy tính ký sự. Con người vũ trụ hay buồn. Con người đời thường luôn khổ, Như vậy, ta thấy trong hệ thống thế giới hình tượng, thời gian nghệ thuật là một yếu tố quan trọng, nó thống nhất hữu cơ với các yếu tố khác. Trong thơ Đường, cả hai "kiểu" thời gian nghệ thuật đều tiêu biểu cho thời gian nghệ thuật trong thơ cổ điển Trung Quốc. CHƯƠNG V: THỂ LOẠI VÀ NGÔN NGỮ I − CÁC THỂ THƠ ĐƯỜNG VÀ Ý NGHĨA THI PHÁP CỦA CHÚNG "Thể loại tác phẩm văn học là khái niệm chỉ quy luật loại hình của tác phẩm; trong đó ứng với một loại nội dung nhất định có một loại hình thức nhất định, tạo cho tác phẩm một hình thức tồn tại chỉnh thể(1). Cũng trong ý nghĩa ấy, nhưng ở đây chúng ta ứng dụng khái niệm trên với một nội hàm hẹp hơn - khảo sát các thể thơ mà thi nhân đời Đường đã sử dụng tương ứng với từng loại nội dung. Như các chương trước đã xác định, thơ Đường có hai khuynh hướng với hai hệ thống nội dung và tương ứng với chúng có hai hệ thống thi pháp. Về phương diện thể thơ, ta thấy cũng theo quy luật ấy. Các nhà thơ đời Đường sử dụng hai thể thơ chính là cổ thể (gồm cổ phong và nhạc phủ) và kim thể (hay cận thể - gồm luật thi và tuyệt cú). Các thể thơ này đều đã được hình thành hoặc manh nha từ các thời đại trước. Thơ cổ thể định hình từ đời Hán. Còn thơ cận thể (hay kim thể) thì đã được manh nha từ thời Lục triều, (1) Phương Lựu − Trần Đình Sử − Nguyễn Xuân Nam, Lý luận văn học, Tập II, NXB Giáo dục, H., 1987, tr. 154. 39
  40. gần nhất là thời Tề, Lương và được hoàn thiện ở đời Đường. Vì thế mà thể này có hai tên gọi. Gọi cận thể là muốn nói nó được hình thành ở thời kỳ gần đây. Gọi kim thể là muốn nói nó được hoàn thiện ở thời kỳ này (đời Đường). Từ góc độ hệ thống thi pháp mà xét, ta nhận thấy: Nhìn chung, con người vũ trụ thường được thể hiện trong thơ kim thể; còn khi phản ánh hiện thực với con người xã hội trong không - thời gian đời thường, người ta thường sử dụng thơ cổ thể. Tuy nhiên, đó là nhìn đại thể chứ sự phân định này không phải là tuyệt đối. Lý do của nó, ta sẽ tìm hiểu trong phần tiếp theo. 1. Thơ cổ thể Thơ cổ thể có hai dạng là cổ phong và nhạc phủ. Nhạc phủ là tên gọi chung của nhiều thể khác nhau, gọi nhạc phủ vì chúng thường được phổ nhạc. Còn cổ phong thường là thơ năm chữ hoặc bảy chữ. Thơ cổ thể, cả cổ phong và nhạc phủ đều không có luật lệ nhất định - không hạn định số câu trong bài và số chữ trong câu cũng tương đối tự do, thường là năm chữ, bảy chữ, nhưng cũng có khi câu dài ngắn không đều. Thể này không quy định niêm luật và cũng không yêu cầu đối ngẫu. Nhìn chung, thể này có dung lượng lớn hơn thơ cách luật, thể cách cũng không nghiêm ngặt nên gần gũi hơn với đời thường. Trong giai đoạn đầu của đời Đường, tức đời Sơ, Thịnh Đường, trước loạn An Lộc Sơn - do khuynh hướng chính là trữ tình lãng mạn, chủ yếu là thể hiện con người vũ trụ nên kim thể và cổ thể đều được các nhà thơ sử dụng để thể hiện con người vũ trụ. Nhưng từ khi xuất hiện khuynh hướng thơ hiện thực, phản ánh con người xã hội trong không thời gian đời thường thì thơ kim thể, do chỉ có tám câu hoặc bốn câu, quá ngắn gọn, hàm súc, không đủ dung lượng để phản ánh hiện thực đầy biến động, cuộc đời phức tạp, bộn bề với bao ưu hoạn, vất vả của con người đời thường nên bộ phận thơ hiện thực thường sử dụng thơ cổ thể. Tuy vậy, con người vũ trụ trong thơ trữ tình lãng mạn không phải hoàn toàn vắng bóng ở thời Trung, Vãn Đường. Nó vẫn có vị trí rất quan trọng và các nhà thơ chủ yếu dùng thơ kim thể để thể hiện con người vũ trụ, thể hiện tâm tình của mình. 2. Thơ kim thể Thơ kim thể được manh nha từ thời Lục triều và đến đời Đường thì được hoàn thiện. Nó cũng chính là thành tựu đặc sắc của đời Đường. Thơ kim thể có hai dạng chính là luật thi và tuyệt cú. Luật thi gồm thất ngôn bát cú luật thi (gọi tắt là thất - luật) và ngũ ngôn bát cú luật thi (gọi tắt là ngũ luật). Tuyệt cú (ở ta thường gọi là thơ tứ tuyệt) là thơ chỉ có bốn câu, gồm thất ngôn tuyệt cú (thất tuyệt) và ngũ ngôn tuyệt cú (ngũ tuyệt). Ngoài ra còn có "bài luật" là dạng kéo dài của luật thi. Thơ tuyệt cú còn được gọi là "tiểu luật". Do đó cả "luật thi" và "tuyệt cú" đều là thơ cách luật. Niêm luật của thơ tuyệt cú tương ứng với luật thi, do đó ở đây chúng ta chỉ xét kỹ luật thi. Luật thi buộc phải theo cấu trúc nhất định của thanh âm cũng như của bố cục tình ý. Sự quy định này rất chặt chẽ. "Luật đây là sáu luật, là luật hoà hợp âm thanh. Luật thơ cũng giống như kỷ luật dụng binh, pháp luật hình án, nghiêm ngặt, chặt chẽ, không được vi phạm"(Tiền Mộc Yêm - Đường âm thẩm thể). Cụ thể về thể cách của luật thi như sau : Một bài thơ phải đảm bảo sáu yêu cầu về niêm, luật, vận, đối, tiết tấu, bố cục. + Niêm : Niêm nghĩa đen là "dính", là nguyên tắc phối thanh theo chiều dọc, nó làm các "liên" thơ kết với nhau. Trong một bài thơ có bốn liên, các "liên" thơ đi với nhau từng đôi một. (1+2, 3+4, 40
  41. 5+6, 7+8)."Niêm" làm cho các liên thơ dính lại. Hệ thống "niêm" này lấy căn cứ từ chữ thứ nhì của mỗi câu, bằng niêm với bằng, trắc niêm với trắc. Nó yêu cầu = câu 2 niêm với câu 3, câu 4 niêm với câu 5, câu 6 niêm với câu 7. Vậy còn câu 8 ? Không còn câu nào đứng sau nữa, biết "niêm" vào đâu ? Câu 8 phải niêm với câu 1! Kỳ diệu chính là ở chỗ này. Câu 8 niêm với câu 1, làm bài thơ được "dán" lại thành một vòng khép kín, tạo nên một cấu trúc nội tại bền chặt. + Luật: Luật là luật điều tiết thanh (phối thanh) theo chiều ngang, sao cho bằng, trắc hoà hợp. Hệ thống này được tính từ chữ thứ hai của câu thứ nhất. Nếu từ này bằng thì gọi là"bằng khởi cách", nếu từ này trắc thì gọi là "trắc khởi cách". Trong từng câu, các thanh bằng, trắc phải hoà hiệp sao cho cân xứng, cứ một câu 4 trắc 3 bằng lại đến một câu 4 bằng 3 trắc, và phải luân phiên xen kẽ, sao cho "đòn cân thanh điệu" được cân bằng. Đòn cân thanh điệu được hệ thống các chữ thứ 2, 4, 6 đảm trách. Vì vậy mà luật thi yêu cầu "nhị, tứ, lục phân minh". Chữ thứ tư là tâm đối xứng của đòn cân thanh điệu, cũng là tâm đối xứng của câu thơ. Các chữ 2, 4, 6 phải tuyệt đối đúng thanh điệu, nếu thay đổi thì làm đòn cân thanh điệu bị nghiêng lệch, phá vỡ sự hài hoà, sự cân bằng của câu thơ. Do đó, chữ thứ tư phải khác thanh với chữ thứ hai và chữ thứ sáu (2 và 6 cùng thanh) tức là : (4) T (2) (6) B B hoặc T T (2) (6) B (4) Còn "nhất tam ngũ bất luận" là để một khoảng tương đối thoải mái cho người làm thơ, vả lại nếu chúng có thay đổi chút ít cũng không làm nghiêng lệch đòn cân thanh điệu, vì chức năng này đã có "nhị tứ lục" đảm trách. Còn chữ thứ bảy thì đương nhiên là đảm bảo thanh bằng nếu là chữ gieo vần, còn không gieo vần thì phải là thanh trắc. Luật phối thanh đảm bảo bằng, trắc cân xứng, tức cân bằng âm dương, làm cho bài thơ có âm điệu hài hoà. + Vận (tức vần) Một bài thơ bát cú có năm vần (tuyệt cú hai hoặc ba vần). Thơ Đường luật chỉ gieo vần bằng, và mỗi bài chỉ có một vần (vần trắc ít được dùng, coi như không chính quy - chỉ thơ cổ thể mới hay dùng vần trắc). Trong một bài thơ (cả thất ngôn và ngũ ngôn) có thể "trốn vần" (chiết vận) nhưng chỉ được phép trốn một lần ở câu đầu. Nhưng đã trốn vần thì lại phải theo nguyên tắc: hai câu đầu phải đối nhau (gọi là song phong = hai ngọn núi đối sánh nhau). + Đối Đối cũng là một nguyên tắc bắt buộc của luật thi. Nguyên tắc này yêu cầu liên 2 (câu 3, 4) và liên 3 (câu 5, 6) phải là hai "đối liên" - tức là câu 4 phải đối với câu 3, câu 6 phải đối với câu 5. Trước kia trong văn học đã yêu cầu có câu đối văn và câu đối phú. Còn câu đối thơ nếu có thì chỉ là ngẫu nhiên, thường là lý do nghĩa chứ không phải là phép tắc của thể loại. Với thơ Đường luật thì câu đối thơ là bắt buộc. Đối phải bảo đảm cả về thanh (bằng đối với trắc, trắc đối với bằng). Về từ loại (từ loại nào đối với từ loại ấy) và cả về ý. Trong một bài luật thi, cả 4 yêu cầu này đều phải được tuân thủ một cách nghiêm ngặt. + Tiết tấu (ngắt nhịp) 41