Tài liệu Văn học Nga - Phùng Hoài Ngọc (Phần 2)

pdf 74 trang hapham 1960
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu Văn học Nga - Phùng Hoài Ngọc (Phần 2)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdftai_lieu_van_hoc_nga_phung_hoai_ngoc_phan_2.pdf

Nội dung text: Tài liệu Văn học Nga - Phùng Hoài Ngọc (Phần 2)

  1. Chương 8 VLADIMIR MAIAKOVSKI (Владимир Маяковски) Vladimir Maiakovski là nhà thơ lớn của Cách Mạng Tháng Mười và Chủ Nghĩa Xã Hội, là nhà cách tân táo bạo của thơ ca cách mạng vô sản. Công chúng văn học có những sở thích khác nhau về thơ ca Maiakovski, nhưng có điểm chung nhất trí: thơ ông đã góp phần đáng kể vào chiến thắng của Cách Mạng Tháng Mười và có sức mạnh khẳng định lý tưởng chủ nghĩa xã hội của loài người, trước hết ở đất nước của Lênin vĩ đại. Thơ ông đã khơi lên cả một dòng thơ độc đáo mạnh mẽ, làm phong phú tiếng nói thơ ca cách mạng. GIỚI THIỆU CUỘC ĐỜI VÀ SÁNG TÁC V.Maiakovski sinh ở Gruzia ngày 19/7/1893 trong một gia đình viên chức lâm nghiệp người Nga. Mồ côi cha năm 13 tuổi, gia đình chuyển về sống ở Moskva. Cuộc sống khó khăn, nhà ở dành cho sinh viên ở trọ và nấu cơm thuê cho họ. Maiakovski và hai chị phải đi làm thuê giúp đỡ mẹ. Những sinh viên trọ học đều tham gia hoạt động bí mật. Qua đó, Maiakovski tiếp xúc với cách mạng. Mười lăm tuổi, anh được kết nạp vào Đảng của Lênin, ít lâu sau được bổ sung vào thành ủy Moskva. Bị bắt 3 lần. Làm thơ trong tù. Sau khi ra tù lần 3, anh tuyên bố bỏ sinh hoạt Đảng và tuyên bố "tôi muốn làm nghệ thuật xã hội chủ nghĩa". Sau đó đi học ở một trường hội họa. Anh lại bỏ nghề họa sĩ và trở lại với thơ ca. Từ hồi nhỏ, anh đã say mê đọc sách triết học, chính trị, điều này có ảnh hưởng tích cực đến thơ ca về sau. Maiakovski là người có nhận thức sâu rộng và bản lĩnh lớn lao nhưng đầy mâu thuẫn. Tự ý ra khỏi Đảng, nhưng rồi trở thành nhà thơ lớn nhất của Đảng. Sinh thời, thơ ông không được Lênin hâm mộ, nhưng chính ông lại là nhà thơ viết hay nhất về Lênin; thơ ca của ông thể hiện cảm hứng yêu đời nồng nhiệt khác người, song lại kết thúc cuộc đời bằng việc tự sát khó hiểu. Để hiểu được sự nghiệp thơ ca của ông, phải nhìn thấy cái biện chứng trong khối mâu thuẫn lớn Maiakovski, qua đó nhìn thấy cả những mâu thuẫn thời đại, dưới góc nhìn của một nhà thơ. Trước Cách Mạng Tháng Mười (1917), Maiakovski chịu ảnh hưởng của trường phái nghệ thuật vị lai (vì tương lai, gắn liền với thành phố công nghiệp hiện đại). Trường phái này ra đời ở Italia và lan rộng Châu Âu. Họ chủ trương đoạn tuyệt với quá khứ, phủ định toàn bộ nghệ thuật truyền thống. Do đó, họ hướng về chủ nghĩa hình thức trong thơ ca, một biểu hiện của khuynh hướng "nghệ thuật vị nghệ thuật". Khuynh hướng này có phe "tả", nêu khẩu hiệu chống lại "nghệ thuật tư sản, quí tộc", châm chọc lớp công chúng giàu có, trọc phú đương thời. Nội dung thơ ông bàn tới những vấn đề xã hội, phê phán gay gắt thực tế xã hội đương thời. Một bài thơ đầu tay tiêu biểu, nhan đề "Đây này" (1913), ông đem đọc ở quán rượu, nơi các ngài tư sản giàu có ưa lui tới ăn uống và thưởng thức nghệ thuật. Nghe anh đọc thơ, đám thính giả giàu có kia đã giận dữ, la lối om xòm Tác phẩm lớn và nổi tiếng của Maiakovski trong thời kỳ này là bản trường ca "Đám mây mặc quần" (1915). Bài thơ mang một cái tên rất vị lai, nhưng lại bàn về xã hội rộng lớn, bức xúc và thấm đượm một tinh thần nhân văn sâu sắc. Cốt truyện thơ rất đơn giản: nhân vật trữ tình hẹn gặp người yêu ở một khách sạn vào lúc chập tối, chờ mãi, đến nửa đêm nàng mới đến và báo tin "em đã lấy chồng". Điên khùng và tuyệt vọng, anh ta quay ra suy nghĩ về toàn bộ cuộc sống tư sản đương thời và buông ra những tiếng thét "đả đảo". Bài thơ có 4 chương, mỗi chương đều có tiếng thét "đả đảo" ở phần chót : .Phùng Hoài Ngọc biên soạn 95
  2. Đả đảo tình yêu của các người ! đả đảo nghệ thuật của các người ! đả đảo tôn giáo của các người ! đả đảo chế độ của các người ! Trong thơ ca Nga và thơ ca thế giới cho tới lúc chưa thấy có bài thơ nào phê phán xã hội tư sản một cách toàn diện và quyết liệt như thế ! Cách Mạng Tháng Mười bùng nổ, Maiakovski coi đó là cuộc cách mạng của chính mình. Anh đi theo cách mạng ngay từ buổi đầu và đem hết sức lực làm việc cho chính quyền Xô viết. Ông chủ trương sáng tác theo "đơn đặt hàng" của xã hội, của cách mạng chứ không theo tùy hứng. Cách mạng đã giải phóng sức sáng tạo và toàn bộ nhân cách Maiakovski - người công nhân và nghệ sĩ. Maiakovski làm thơ, đi đọc thơ và nói chuyện thơ trước công chúng, đi vẽ tranh cổ động, viết kịch, đóng phim Trong sáng tác thơ, ông phân ra hai loại thơ: thơ đại chúng và thơ trình độ "kỹ sư" tức là có giá trị nghệ thuật cao. thơ đại chúng là thơ tuyên truyền cổ động kịp thời nhiệm vụ cách mạng, hướng về đông đảo quần chúng ít học. Những tác phẩm tiêu biểu của "dòng thơ lớn" tức là thơ có trình độ cao đã làm rạng rỡ tên tuổi ông trên thi đàn thế giới. Tiêu biểu là các tập thơ sau: "Hành khúc bên trái" (1918), "Những người loạn họp" (1922), "Từ biệt" (1926), "Đen và trắng" (1925), Tấm hộ chiếu Xô viết (1929). và trường ca "V.I Lenin" (1924), Tốt lắm (192 ). Hai vở kịch thơ "Con rệp" (1928) và "Phòng tắm" (1929) Maiakovski tự sát chết ngày 14/4/1930, để lại một bức thơ tuyệt mệnh khiến mọi người hết sức xúc động bàng hoàng. Trong 3 ngày sau đó, có khoảng 15 vạn người đã đến viếng linh cữu nhà thơ của mình. Lễ tang được tổ chức đặc biệt khác thường. Linh cữu được đặt trên sàn thép của một chiếc xe tải, kèm theo một vòng hoa tang kết bằng đinh ốc, búa, ổ trục với dòng chữ "vòng hoa thép viếng nhà thơ thép". Hàng vạn dân chúng lặng lẽ đưa tiễn nhà thơ đến nơi an nghỉ cuối cùng. NHỮNG CÁCH TÂN CỦA MAIAKOVSKI Nhà thơ bước vào hoạt động văn học nghệ thuật giữa lúc nhân loại đang trải qua bước ngoặt lớn của lịch sử : nhân dân lao động và các dân tộc trên thế giới đang vươn mình đứng dậy làm chủ vận mệnh của mình. Ơû nước Nga, bão táp cách mạng vô sản ầm ầm chuyển động. Sự sụp đổ của chế độ cũ chỉ còn tính từng ngày. Giữa lúc ấy nhà thơ tuyên bố "tôi muốn làm nghệ thuật xã hội chủ nghĩa", và để thực hiện cương lĩnh ấy, ông đã cách tân táo bạo thơ ca làm cho thơ ca trở thành vũ khí sắc bén góp phần có hiệu quả trực tiếp trong cuộc cách mạng. Nhà thơ quan niệm: thơ phải tác động vào chỗ mạnh của con người, phải làm tăng sức chiến đấu, phải "vung những vần thơ lấp lánh lưỡi lê" chứ không phải chỉ "véo trái tim bằng những hồi ức buồn tủi kèm theo thơ" như hàng ngàn năm nay người ta vẫn làm. Quan niệm này, về sau ta cũng thấy ở "Nhật ký trong tù" của Hồ Chí Minh (bài thơ "Cảm hứng đọc Thiên gia thi") Rõ ràng, ngay từ đầu, Maiakovski đã có ý thức đi mở đường cho một phong cách thơ ca chiến đấu, quyết tâm tạo ra "chất thép" trong thơ. Trước hết, Maiakovski chủ trương đưa thơ ca đến đông đảo quần chúng ít học, đang lao động và đấu tranh cách mạng. Thơ ca .Phùng Hoài Ngọc biên soạn 96
  3. "bác học" nước Nga từ bao đời nhường như chỉ là sở hữu của những người có học, của từng lớp quí tộc, thơ được đọc lên ở các phòng khách sạn sang trọng Nay, ông chủ trương đưa thơ ra đọc ở quảng trường, ngoài đường phố để công chúng cùng thưởng thức. Thơ của ông viết ra không chỉ để xem bằng mắt mà chủ yếu để đọc to lên trước công chúng đông đảo. Đây là điểm xuất phát cho những đổi mới quan trọng trong thơ ca Maiakovski. Một là: Phải đổi mới nhịp điệu câu thơ, để nghe cho vang, cho rõ trước công chúng. Lời thơ mang tính chất khẩu ngữ dễ hiểu. Khi in trên sách báo, thơ Maiakovski thường ngắt ra theo lối bậc thang, nhằm nhấn mạnh những từ ngữ quan trọng thay vì khi đọc cần nhấn giọng cho người nghe hiểu thấu ý thơ của mình. Hai là: đổi mới tư duy thơ và cách cấu tứ, sáng tạo hình ảnh ngôn ngữ. Thơ làm ra để đọc to trước công chúng trong cuộc hội họp, mit-ting, sinh hoạt tập thể nên nó phải dể nhớ, dễ gây được ấn tượng sâu đậm khó quên với người nghe. Về cấu tứ : thơ ông thường "gián đoạn", ý chuyển tiếp bị lược bỏ, nhằm gây ấn tượng bất ngờ. Thử đọc bài " Những người loạn họp" (1922) là bài thơ phê phán lối làm việc quan liêu giấy tờ của bộ máy hành chính Xô viết hồi đó. Mở đầu bài thơ là cảnh bận rộn chuyên cần của cán bộ cơ quan dưới con mắt nhà thơ nhìn từ bên ngoài: Mới tờ mờ sáng ngày nào tôi cũng thấy họ kéo nhau tới bàn giấy cơ quan. Khi tìm hiểu kỹ, nhà thơ mới biết cải guồng máy hành chính quan liêu ấy chỉ tự quay suông và thôi, chẳng giúp ích gì cho dân chúng: Nhà thơ ló mặt bên trong hỏi: - Bao giờ ngài mới tiếp khách ? Tôi đến đây từ thuở khai thiên" - Đồng chí Ivan Ivanưt đang tham nghị cấp trên bàn việc hợp nhất Vụ sân khấu với Nhà nuôi ngựa Truyền cho anh: một giờ sau hãy đến. Đang bận họp hợp tác xã cấp tỉnh tổ chức thu mua những lọ mực bỏ không" Thế là "nhân vật trữ tình" lại tiếp tục chờ đợi, chẳng quản đêm hôm Nhưng rồi sự kiên nhẫn cũng có giới hạn của nó. .Phùng Hoài Ngọc biên soạn 97
  4. Nỗi bất bình đối với bộ máy quan liêu đã lên đến tột đỉnh, đến cao trào và để giải quyết xung đột, nhà thơ đã sáng tạo ra một hình ảnh kỳ quặc : Giận điên người tôi chửi bới om sòm như băng tan tuyết đổ tôi xông đến hội trường và tôi thấy, toàn những nửa thân người ngồi đấy -ôi ma quỉ ! chém người !, giết người ! Tôi hô hoán cuống cuồng tôi rụng rời trước cảnh tượng kinh hồn Nhưng tiếng cô thư ký nghe vô cùng bình thản: - Một ngày chúng tôi họp hai chục bận phải đi hai cuộc họp một lần biết tính sai, thôi đành cắt đôi thân ở đây một nửa tới ngang hông còn nửa kia đi họp hành nơi khác " Hình ảnh "nửa thân người ngồi họp" là một hình ảnh quái dị- nỗi ám ảnh nạn hội họp lu bù. Hóa ra, toàn bài thơ là một giấc mộng, giấc mộng nặng nề do cuộc sống thực nhàm chán, ức chế tràn vào giấc ngủ. Hình ảnh đó là một chi tiết có ý nghĩa bi - hài kịch. Phần kết thúc bài thơ là một suy nghĩ tỉnh táo với cảm hứng hăng hái xây dựng lại, điều chỉnh lại: Kích động quá, không tài nào chợp mắt trời đã sáng mờ tôi đón ban mai với một khát khao: .Phùng Hoài Ngọc biên soạn 98
  5. "Ôi ! ước sao được họp thêm một cuộc để tìm phương thanh toán các cuộc họp trên đời". Kết thúc bất ngờ và sáng tạo! Bài thơ gây một ấn tượng khó quên trong tâm trí người nghe, đặc biệt là khi tác giả đến đọc trực tiếp cho họ thưởng thức. Để gây ấn tượng rõ nét, nhà thơ chủ ý chọn lọc ngôn từ. Maiakovski chọn từ ngữ theo nguyên tắc "vật thể hóa" hoặc "thực tại hóa". Chẳng hạn, khi người ta nói "gậm nhấm" là chỉ loài chuột, gián nhưng Maiakovski viết "làn khói chiều gậm nhấm cuộc đời tôi", hoặc "những vần thơ lấp lánh lưỡi lê". Nói về Karl Marx đang hoàn thành những tác phẩm lý luận thiên tài, nhà thơ tưởng tượng: " lúc chiếc cối trong đầu xay tư duy mẻ cuối " Maiakovski quan niệm rằng thơ có nhiều loại với các chức năng khác nhau, giống như các loại xe ôtô. Thơ ông là loại xe tải chứ không phải xe du lịch. Hồi đó, ở Nga có những người đòi vứt thơ ông ra đường phố, nhưng rồi thơ ông vẫn lặng lẽ đi vào lòng dân chúng và được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. NHỮNG CHỦ ĐỀ CHÍNH TRONG SÁNG TÁC CỦA MAIAKOVSKI. Thơ ca của ông xoay quanh hai vấn đề chính. Một là: ca ngợi hệ tư tưởng và sự nghiệp vĩ đại của cách mạng tháng 10 và chủ nghĩa xã hội. Châm biếm, đả kích mọi kẻ thù của cách mạng và CNXH. Chủ đề thứ nhất : thơ trữ tình công dân Trong mảng thơ này, tràn ngập một tình cảm lạc quan, trong sáng và chân thực. Thơ ông thể hiện một năng lực "nhìn thấy ở ngày hôm nay những sức sống vĩnh cửu sẽ vượt qua cái nhất thời". Chính cái tầm nhìn "vượt qua thời đại" này tạo nên kích thước lớn lao trong tác phẩm. Ông có khả năng khám phá sâu sắc những nét đẹp cao cả, vĩ đại trong cái bình thường quen thuộc hàng ngày của cuộc sống xã hội chủ nghĩa buổi ban đầu. Chủ đề thứ hai: trào phúng. Nhà thơ chia làm hai loại. Một cái "bàn chải hài hước" dùng để làm trong sạch nội bộ và một "cái chổi trào phúng" dùng để quét sạch rác rưởi ra khỏi nước cộng hòa. Maiakovski đã nói, làm thơ trào phúng châm biếm phải "kéo nước cộng hòa ra khỏi vũng bùn". Thơ của ông đả kích mọi loại kẻ thù: từ tên phản động "tư sản Xô viết", những kẻ quan liêu, đứa nịnh hót đặt điều đến kẻ thù lớn như chủ nghĩa đế quốc, những tay chính khách tư sản phản động. Trong thơ Maiakovski, chất trữ tình công dân và chất trào phúng thường hòa lẫn với nhau, khó mà tách riêng xem xét yếu tố nào trội hơn. Nhưng lịch sử văn học Xô viết và những người yêu thơ vẫn coi Maiakovski là nhà thơ trào phúng lớn của thời đại. .Phùng Hoài Ngọc biên soạn 99
  6. Trường ca "V.I. Lenin" (1924). Tác phẩm ca ngợi sự nghiệp của Lênin, lãnh tụ kiệt xuất của cách mạng tháng Mười vĩ đại. Bản trường ca được viết ngay trong những ngày nhân dân Liên Xô đang chịu tang Lênin. Maiakovski có chú tâm tránh xa những tác phẩm văn chương trên thế giới đã ca ngợi vĩ nhân của lịch sử. Ông lo sợ những lớn khuôn sáo, tán dương sẽ "làm vẩn đục tinh thần giản dị của Lênin". Maiakovski đã có những sáng tạo độc đáo, quan trọng: Sáng tạo thứ nhất: nhà thơ không kể lại lịch sử một cách khách quan mà sống với lịch sử, sống cùng nhân vật: Chẳng hạn khi viết về Lênin, nhà thơ nghĩ về Mac: (•) Lúc chiếc cối trong đầu xay tư duy mẻ cuối Lúc bàn tay sáp hí hoáy hoàn thành tôi biết Mác đã thấy viễn cảnh Kremmlin và Moskva rực cờ công xã Viết về Lênin, nhà thơ nghĩ tới Đảng: Đảng và Lênin anh em sinh đôi Mẹ lịch sử quí ai hơn ? Con nào cũng xứng. sáng tạo thứ hai: miêu tả, kết cấu tác phẩm theo cách: để cho tiểu sử nhỏ và tiểu sử lớn của Lênin lồng vào nhau, chuyển hóa lẫn nhau. Cuộc đời của cậu bé Volodia Ulianov ra đời ở thành phố Novoxibirsk năm 1870, nhưng tiểu sử của đồng chí Lênin thì lại bắt đầu từ "200 năm" trước khi chủ nghĩa tư bản ra đời: (Ulianov là họ của Lênin). "Ta đã rõ Bài thơ này có thể đã gợi ý sáng tạo cho bài thơ “Người đi tìm hình của nước” của Chế Lan Viên (PHN). .Phùng Hoài Ngọc biên soạn100
  7. cuộc đời Ulianov đời ngắn ngủi này rõ tận phút lâm chung ( ) Ta phải viết viết một thiên sử mới về đồng chí Lênin đã có từ xưa hai trăm năm trước" Bài thơ thấm đượm một suy nghĩa nghiêm túc về lịch sử, cố gắng miêu tả cái tầm vóc vĩ đại và cái tất yếu lịch sử của sự nghiệp Lênin như một lãnh tụ kiệt xuất của cách mạng vô sản. Lênin là con đẻ của lịch sử, là nhân vật của thời đại, là thiên sứ truyền lệnh và đòi thi hành lập tức: phá bỏ cái vật chướng ngại lớn trên đường đi của lịch sử: đó là chủ nghĩa tư bản già nua. Mai sau nhìn lại những năm tháng lịch sử này trước tiên ta thấy vầng trán Lênin đây đỉnh đèo rạng rỡ chuyển sang thời công xã bên kia dốc nô lệ ngàn vạn năm liền Nhà thơ còn nhấn mạnh Lênin còn là một con người rất mực là người: khiêm tốn, giản dị, hiểu thấu lòng dân. Sáng tạo thứ ba: bố cục độc đáo của tác phẩm. Bản trưởng ca gồm 3 phần: phần 1 trữ tình, phần 2 tự sự dài nhất và phần kết thúc trữ tình. Bản trường ca này thể hiện một quá trình ý thức về nỗi đau để vượt qua nó. Ở phần đầu, nỗi đau thương trước cái chết của Lênin là một tình cảm bản năng, tự phát, khiến ta cảm thấy bị đè nặng tâm hồn: Điện tín .Phùng Hoài Ngọc biên soạn101
  8. khàn khàn tin điện buồn ngân mãi lệ tuyết ròng ròng hoen mí đỏ lá cờ những lá cờ rong và đoàn người lũ lượt như nước Nga trở lại thời du mục lang thang Sang phần tự sự, người kể chuyện dần dần ý thức được rằng Lênin mất, nhưng sự nghiệp của Người không thể chết, học thuyết Lênin còn tiếp tục phát triển, dẫn dắt mọi người tiến lên phía trước. Vì thế, đến phần cuối, nỗi đau đã được ý thức, đã được "thanh lọc", chuyển hóa thành một niềm tin đầy phấn chấn : Tôi sung sướng vang vang dòng hành khúc cuốn tôi đi người nhẹ bỗng lông hồng trận hồng thủy bước chân người rậm rạp truyền sức mạnh lan vòng tròn tới tấp càng lan càng rộng nhập vào tư tưởng nhân gian. Trường ca "V.I.Lênin" của Maiakovski là một tượng đài ngôn ngữ độc đáo tương xứng nhất với thân thế, sự nghiệp và tư tưởng vĩ đại của Lê nin mà cho đến nay chưa có một công trình nghệ thuật nào vượt qua được. Maiakovski là nhà thơ sống vì tương lai, với tương lai. Không ít tác phẩm lớn của ông thường chịu số phận long đong .Nhiều năm tháng qua đi người ta mới hiểu hết giá trị của nó. Một nhà phê bình Tiệp Khắc trước đây đã viết " Nhân loại sẽ đi con đường của mình. Năm mươi năm nữa đến một ngã tư lịch sử nào đó, chúng ta sẽ gặp lại Maiakovski ngồi chờ chúng ta ở đấy từ lâu". .Phùng Hoài Ngọc biên soạn102
  9. .Phùng Hoài Ngọc biên soạn103
  10. Chương 9 MIKHAIL ALEXANDROVICH SOLOKHOV (Шолохов Михаил Алехандрович) (1905-1984) GIỚI THIỆU CUỘC ĐỜI VÀ SÁNG TÁC Mikhail Sholokhov xuất thân trong một gia đình viên chức nhỏ, địa chủ ở vùng Kozak Sông Đông. Bố là người Nga di cư đến đây, còn mẹ là một người phụ nữ nông dân Kozak . Về sau này, ông thường nói”Tôi tự hào rằng tôi là người yêu mến vùng Sông Đông thân thiết của tôi”. Thuở bé học ở trường trung học của trấn Vesenxkaia nơi mà về sau này, khi đã thành đạt, ông vẫn sống trọn đời. Solokhov có trí tuệ thông minh sắc sảo và nghị lực phi thường. Chỉ trong vòng 20 năm, từ một cậu bé học hành dở dang bậc trung học trở thành viện sĩ hàn lâm của một đất nước rộng lớn có nền văn hóa cao, một nhà văn được giải Nobel văn học, vinh dự không dễ gì đạt được bằng con đường tự học. Tài năng văn học và phong cách nghệ thuật độc đáo của ông được khẳng định sớm. Nhà văn Xeraphimovich khi đọc những truyện ngắn đầu tay của ông đã phải thốt lên “Một con đại bàng non của thảo nguyên bất thần vỗ lên đôi cánh mênh mông”. Năm Mikhail 12 tuổi thì Cách Mạng Tháng Mười, kế tiếp là Nội chiến, bùng nổ, đặc biệt gay gắt đẫm máu ở vùng Sông Đông. 15 tuổi, cậu đã hăng hái tham gia vào đội trưng thu lương thực, đi khắp vùng sông Đông. Cuộc đấu tranh giai cấp ác liệt ở đây đã để lại một ấn tượng thật sâu sắc trong lòng nhà văn tương lai. Đầu 1922, Nội chiến vừa kết thúc, Mikhail một mình lên thủ đô Moskva định xin vào học trường bổ túc công nông nhưng không đủ tiêu chuẩn nhập học, anh đành phải kiếm việc làm để sống và tự học và bắt đầu viết văn. Làm đủ nghề, từ phu thợ nề, phu khuân vác, kế toán viên . Đầu năm 1923, anh trở về sông Đông theo lời khuyên của một nhà thơ, để viết văn. Đầu năm 1925, tập truyện ngắn đầu tay ra đời mang tên “Truyện sông Đông”. Lần tái bản năm sau bổ sung thêm một số tác phẩm và tập truyện lấy tên là “Thảo nguyên xanh”. Năm 1926, lúc 21 tuổi, ông bắt đầu viết bộ tiểu thuyết “Sông Đông êm đềm” (tới năm 1940 mới hoàn thành). Năm 1930, khi đang viết tập 3 bộ tiểu thuyết này thì M.Sholokhov đồng thời bắt tay vào viết bộ tiểu thuyết “Đất vỡ hoang” để phục vụ kịp thời công cuộc tập thể hóa nông nghiệp ở Liên Xô. Năm 1932, tập I “Đất vỡ hoang” ra đời. năm 1937, ông được bầu vào đại biểu quốc hội và liên tiếp làm công tác đó đến cuối đời. Năm 1939, ông được bầu làm Viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học Liên xô. Trong thời kỳ Chiến Tranh Vệ Quốc chống phát xít (1941-1945) ông tình nguyện ra mặt trận làm phóng viên của báo Sự Thật. Viết nhiều bài chính luận, tùy bút, truyện ngắn về chiến tranh, trong đó có truyện “Khoa học căm thù” (đã được dịch sang tiếng Việt hồi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp). Cũng trong thời kỳ này, ông bắt tay viết bộ tiểu thuyết mới “Họ chiến đấu vì tổ quốc”. Tác phẩm này cho đến cuối đời không hoàn thành. .Phùng Hoài Ngọc biên soạn104
  11. Sau chiến tranh, ông viết truyện ngắn nổi tiếng “Số phận con người” (1957) và hoàn thành tập II bộ tiểu thuyết “Đất vỡ hoang” (1959). Do những cống hiến lớn lao của Mikhail Sholokhov cho nước Nga Xô viết nói chung và nền văn học Xô viết nói riêng, Nhà nước Liên Xô trước đây đã tặng ông nhiều huân chương và giải thưởng lớn về văn học. Ông là nhà văn duy nhất ở Liên Xô được dựng tượng đài khi còn sống. Sholokhov qua đời năm 1984 tại quê nhà bên bờ sông Đông êm đềm. I. SÔNG ĐÔNG ÊM ĐỀM (Тихий Дон) Đây là bộ tiểu thuyết sử thi gồm 4 tập (8 phần) viết về cuộc đấu tranh giai cấp đẫm máu ở vùng Kozak sông Đông trong cuộc Cách mạng Tháng Mười và Nội chiến. TÓM TẮT CỐT TRUYỆN Gia đình Panchelay Melekhov ở làng Tartarsk là một gia đình trung nông. Ông Pancheley có 3 người con, 2 trai, 1 gái. Con trai cả Petro đã có vợ Đaria, con trai thứ 2 là Grigori chưa vợ và con gái út Đunhiaska độc thân. Câu chuyện diễn ra bắt đầu vào khoảng năm 1912 (2 năm trước cuộc chiến tranh thế giới lần I). Grigori có thiện cảm và yêu Acxinia, người phụ nữ hàng xóm có chồng là Xtêphan. Nhân lúc chồng lên huyện luyện tập quân sự, nàng ở nhà lén lút đi lại với Grigori. Dư luận bắt đầu xì xào. Acxinia lo sợ, rủ Grigori bỏ nhà đi nơi xa lập nghiệp, nhưng anh không đi. Xtêphan đang ở trại huấn luyện, nghe tin nhà, giận dữ gây sự đánh nhau với Petro (anh trai Grigori). Khi về nhà liền đánh đập vợ rất tàn nhẫn. Petro và Grigori nhảy qua hàng rào sang đánh can. Thù oán giữa hai gia đình bắt đầu từ đó. cuộc đời Acxinia vốn bất hạnh nay càng đau khổ hơn, nhất là khi biết Grigori miễn cưỡng nghe lời cha đi hỏi vợ. Ông Panchelay nhờ mụ mối đến nhà lão phú nông Corsunốp hỏi cô Natalia cho con trai. Natalia là một cô gái dịu hiền, trầm lặng được cả gia đình Melekhov chiều chuộng, nhưng riêng Grigori thì lạnh nhạt, chàng vẫn tìm cách gặp gỡ Acxinia. Lúc này Acxinia đã có mang. Hai người quyết bỏ nhà đi tới một làng xa, xin ở làm công cho nhà lão địa chủ Lisyniski có con trai là sĩ quan Nga hoàng thường vắng nhà. Acxinia làm hầu phòng, làm xà ích (đánh xe ngựa). Ở quê, Natalia buồn khổ, viết thư cho chồng mong anh trở về nhưng vô hiệu. Chiến tranh nổ ra, Grigori nhận được lệnh nhập ngũ, ông già Panchelay đến thăm con, chuẩn bị giục giã anh lên đường. Acxinia lúc đó sinh con gái. Đại đội lính Nga hoàng trong đó có ra mặt trận đánh nhau liên miên. Grigori một lần cứu sống một viên trung tá, nên được tặng huân chương Thánh Gioóc. Ở nhà, Natalia tìm gặp Acxinia đòi trả lại chồng, nhưng bị từ chối phũ phàng. Đứa con của Acxinia chết vì bệnh. Grigori bị thương vào mắt, phải nằm viện. Sau khi ra viện, chàng về phép thăm Acxinia. Biết rằng lúc này Acxinia đã dan díu với tên trung úy Litxưnhitski con trai chủ nhà do hắn cố tình quyến rũ. Grigori trên đường chở tên trung úy bằng xe ngựa ra ga, chàng đánh hắn một trận nên thân rồi bỏ về nhà với Natalia. Cả nhà vui mừng. Hết hạn nghỉ phép, Grigori lại ra trận và không nguôi buồn nhớ Acxinia. Ở nhà, Natalia sinh đôi 1 trai 1 gái. Cách mạng tháng Mười bùng nổ, binh lính rã ngũ lũ lượt trở về làng. Grigori đã bỏ hàng ngũ Nga hoàng chạy sang sang hàng ngũ quân đội Bolsevich. Chàng được phong thiếu úy, đại đội trưởng, sau là tiểu đoàn trưởng cách .Phùng Hoài Ngọc biên soạn105
  12. mạng. Trong một lần chứng kiến viên chỉ huy trung đoàn giận dữ bắn giết, tàn sát tù binh mà chàng can ngăn không được. Chàng rất căm ghét y và tinh thần cách mạng của chàng lại dao động. Trong một trận đánh, bị thương vào đùi. Ra viện, Grigori trở về nhà thăm gia đình, vợ con. Gặp tên Ixvarin tuyên truyền về “thuyết tự trị” của dân vùng Kozak, anh lại hoang mang và rời bỏ hàng ngũ cách mạng. Bọn phản động nổi dậy ở làng, sau đó hồng quân kéo đến, khôi phục lại chính quyền Xô viết xã. Miska Cosevoi vốn là bạn thân cũ của Grigori nay là phó chủ tịch ủy ban cách mạng thôn. Dunhiaska (em gái của Grigori) yêu Cosevoi. Chàng cựu binh Grigori lại bỏ làng đi theo quân bạch vệ làm trung đoàn trưởng rồi lên cấp sư đoàn trưởng, chỉ huy một sư đoàn quân phiến loạn. Bọn sĩ quan gốc quí tộc khinh bỉ anh ra mặt vì biết anh là nông dân thiếu học vấn, Grigori cũng rất căm ghét bọn này. Grigori cho người về tìm Acxinia, đón nàng đi theo anh. Ở nhà, Natalia lại có mang. Nghe tin chồng, nàng rất đau khổ, bèn tìm cách phá thai, rồi chết vì bệnh. Grigori lại trở về nhà trong tâm trạng buồn chán. Hồng quân chuyển sang thế phản công mạnh, Grigori theo họ ra trận, sau bị bệnh thương hàn nên trở về nhà. Chị dâu Đaria (vợ Petrô) sau một chuyến đi dân công dài ngày, bị bệnh nặng đã tự trầm mình trên sông Đông. Ông già Pancheley cũng được bọn phản cách mạng huy động ra phục vụ mặt trận mà chết. Chồng Acxinia là Xtephan cũng đã chết trận. Petro bị Mitska Cosevoi xử bắn sau một trận đánh. Cosevoi từ mặt trận trở về nhà thăm người yêu, bị bà Melekhov phản đối vì đã giết con trai bà. Nhưng Đunhiaska cố gắng thuyết phục mẹ. Hai người làm lễ cưới ở nhà thờ. Còn bà Melekhov nghe tin Grigori sắp trở về, chờ mãi, rồi ốm chết, không gặp con. Acxinia đón hai con Grigori – Natalia về nhà nuôi. Côsêvôi lúc này làm chủ tịch cách mạng thôn. Grigori trở về nhà gặp Cosevoi và tâm sự “Bây giờ mình chán cả cách mạng lẫn phản cách mạng, chỉ muốn sống yên với hai con”. Nhưng chủ tịch Cosevoi bảo anh phải lên trấn để đầu thú. Dọc đường lên trấn, anh gặp Phomin nay là trùm thổ phỉ thuyết phục anh đi theo hắn. Sống với bọn thổ phỉ ít lâu, anh chán nản, bỏ trốn về làng đón Acxinia cùng đi xa. Dọc đường gặp một đội tuần tra cách mạng, hai người bỏ chạy, Acxinia trúng đạn, chết. Chôn cất nàng xong, anh lại lang thang trên đồng cỏ, gặp bọn đào ngũ, chúng đưa anh về hang ẩn trốn. Bây giờ chỉ còn mái nhà êm ấm và mấy người thân ít ỏi ở quê hương Sông Đông hàng đêm réo gọi thôi thúc anh quay về. Một buổi sáng mùa xuân, Grigori đi trên lớp băng đã thủng lỗ chỗ trên mặt sông Đông, ném hết súng đạn xuống dòng sông, chùi tay vào vạt áo, rồi bước những bước dài về phía nhà mình. Đến gần cổng, nhìn thấy thằng bé Misatka, con trai anh đang một mình nhặt từng miếng tuyết nhỏ ném chơi, chàng vội quỳ xuống hôn hai bàn tay hồng hồng, lạnh buốt của con, nghẹn ngào gọi mấy tiếng “con , con” rồi chàng bế thằng con trai lên. Chàng hỏi: - Ở nhà như thế nào hở con? cô và Poliusca còn sống, còn khỏe không ? Vẫn không nhìn bố, thằng bé khẽ nói: - Cô Đunhiaska vẫn khỏe, nhưng Poliuska đã chết hồi mùa thu vì bệnh yết hầu. Còn chú Mitska thì đi bộ đội . .Phùng Hoài Ngọc biên soạn106
  13. Thế là cái ước mơ nhỏ nhoi của Grigori trong bao đêm không ngủ đã được thực hiện. Chàng đứng bên ngoài cổng ngôi nhà thân yêu, bồng thằng con trên tay . Đây là tất cả những gì trong đời còn lại được cho chàng, nó tạm thời còn gắn bó chàng với mảnh đất, với toàn bộ cái thế giới bao la đang hiện lên rạng rỡ dưới ánh mặt trời lạnh lẽo. Đó là cảnh cuối cùng khép lại bộ tiểu thuyết “Sông Đông êm đềm”. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM Sự trả giá nặng nề cho những lầm lạc lịch sử của nhân dân Kozak trong khi tìm kiếm chân lý cuộc sống trước bước ngoặt lịch sử của thời đại là chủ đề chính của bộ tiểu thuyết sử thi Đan xen vào chủ đề chính còn có chủ đề thứ hai được thể hiện qua mối tình say đắm tự do giữa Acxinia và Grigori, cái chủ đề thể hiện ý thức chống đối tập tục phong kiến lạc hậu thời Nga hoàng vừa phản ánh xung đột cá nhân giữa đam mê và nghĩa vụ. Nếu chủ đề thứ nhất nhằm bao quát và thể hiện cái bi kịch đẫm máu của một cộng đồng và mở ra chiều rộng hoành tráng anh hùng ca của tác phẩm thì chủ đề thứ hai nhằm thể hiện cái bi kịch cá nhân mang bóng dáng bi kịch xã hội, tạo ra chiều sâu tâm lý, làm cho âm sắc cuộc sống thêm phong phú, chân thực, sinh động dù đó là cuộc sống bão táp của những sự kiện đẫm máu. (Chủ đề thứ nhất làm nên tính sử thi, chủ đề thứ hai xác định tính chất tiểu thuyết, nhưng hai chủ đề này xuyên thấu mật thiết lẫn nhau). Để thực hiện hai chủ đề trên một cách trọn vẹn, Solokhov đã tìm ra kiểu kết cấu thích hợp . Nội dung tác phẩm gồm nhiều sự kiện, biến cố, nhân vật, nhưng bắt đầu từ một điểm cụ thể : Gia đình Melekhov ở làng Tatarsk, từ đó mở ra theo vó ngựa rong ruổi của nhân vật chính Grigori như một đường tròn xoáy ốc đến độ cực lớn, vòng xoáy nhỏ lọt trong vòng xoáy lớn: cả nước Nga chìm ngập trong khói lửa Nội chiến. «Vòng xoáy nhỏ Grigori» thỉnh thoảng lại trở về điểm xuất phát ban đầu: Gia đình nhà Melekhov suy tàn dần cùng những buồn vui chồng chất của làng thôn Tartaxk bên bờ sông Đông. Kết cấu tác phẩm như vậy giúp ta hình dung được rõ nét cái ác liệt dữ dội của cơn bão táp cách mạng và Nội chiến vùng Sông Đông và cái nhịp độ căng thẳng khẩn trương của cuộc sống cùng nhịp với nội tâm, tâm lý nhân vật. Nhân vật không có nhiều thời gian để băn khoăn, do dự mà cần phải lựa chọn dứt khoát khẩn trương. Gia đình Melekhov gồm có 9 người, sau cơn bão táp cách mạng chỉ còn 3 mà trên thực tế chỉ còn 2 (Đunhiaska và cậu bé Mitska), còn đến đây coi như kết thúc số phận nhân vật của mình trong lịch sử. Ngoài ra còn rất nhiều con người trẻ trung, yêu đời, nhiều khả năng và ước mơ, đã vĩnh viễn nằm xuống ở những vùng đất xa lạ hoặc ngã gục ngay trên bờ sông Đông. Dòng sông êm đềm đã bao lần nổi sóng dữ dội, và giờ đây như câu hát dân ca của người Kozak mà tác giả đã đưa vào để làm đề từ cho nhiều chương sách: - Hỡi sông Đông êm đềm, cha thân yêu của chúng ta, cha hỡi ! .Phùng Hoài Ngọc biên soạn107
  14. Hỡi sông Đông êm đềm , vì đâu ? Vì đâu sóng người ngầu đục. - Ôi, dòng sông Đông ta chảy sao khỏi đục ! Từ dưới đáy ta, đáy sông Đông êm đềm chảy ra những dòng nước giá Trong lòng ta, lòng sông Đông êm đềm, cá trắng quẫy ngầu. - Sông Đông êm đềm trào dâng vì nước mắt những người làm mẹ làm cha Trong suốt bộ tiểu thuyết này, dòng Sông Đông luôn luôn ẩn hiện như một nhân vật đặc biệt, sống cùng các nhân vật, chứng kiến và chia sẻ niềm vui, nỗi đau cùng những sự thăng trầm của bao nhiêu số phận, trong đó có mối tình say đắm, ngang trái và mãnh liệt của hai nhân vật chính Grigori và Acxinia. Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn đặt tên cho bộ tiểu thuyết sử thi của mình là "Sông Đông êm đềm ". Dòng sông Đông trong tác phẩm khi trong khi đục, lúc êm đềm khi dữ dội là biểu tượng của sức mạnh lương tri, là ký ức lịch sử và là bản anh hùng ca bất tuyệt của cộng đồng người Kozak trong thời điểm lịch sử của cuộc tái hòa nhập vào cộng đồng dân tộc Nga vĩ đại của mình, cái giá phải trả cho sự lầm lạc lịch sử này quả là rất lớn: những tổn thất về nhân mạng, sự khủng hoảng về niềm tin và chân lý trước sự phản trắc của những kẻ cầm đầu phản cách mạng. Thể hiện tập trung sâu sắc và sinh động cái lầm lạc lịch sử qua hình tượng nhân vật Grigori Melekhov. Grigori- nhân vật bi kịch lịch sử Ngay từ những chương đầu, đã xuất hiện Grigori, một thanh niên khỏe mạnh, đẹp đẽ, tính tình thẳng thắn, cương nghị, chân thành với mọi người. Anh là người gan dạ, yêu thích lao động và có cuộc sống nội tâm khá tinh tế, dễ rung động trước những hiện tượng xảy ra trong cuộc sống. Trong một buổi đi cắt cỏ, anh nâng niu trên tay, vẻ mặt ân hận xót xa con chim nhỏ non nớt bị lưỡi hái của anh chém phải, khiến người đọc cảm nhận được tính nhân hậu của anh. Có một nét đáng chú ý trong tính cách Grigori đó là cái định kiến xấu xa với người “ngoại bang”, tức là những người không có nguồn gốc Kozak. Tóm lại, Grigori là một con người có tính cách mạnh mẽ, phong phú, rất đàn ông, tiêu biểu cho nét đẹp truyền thống của người Kozak Sông Đông. Có nhận xét cho rằng Grigori có một nét tính cách đáng chú ý là tính chao đảo, thiếu kiên định, mang tính chất giai cấp trung nông (giai cấp trung gian giữa bần nông và phú nông). Đó là nhận xét theo quan điểm chính trị, cũng là một cách cảm thụ. Song trong văn học nghệ thuật, một hình tượng nghệ thuật có sự phong phú hơn. Nếu chỉ căn cứ vào tiêu chí chính trị và đấu tranh giai cấp thì chưa đủ, chẳng hạn khi người đọc cảm thụ hình tượng “sông Đông” Nhân vật Grigori quả có sự ngả nghiêng giữa hai trận tuyến: cách mạng và phản cách mạng. Bi kịch của đời anh chính là tình trạng chạy qua chạy lại giữa hai trận .Phùng Hoài Ngọc biên soạn108
  15. tuyến. Cái động lực bên trong thúc đẩy anh hành động không phải là ý thức thành phần trung nông của mình, mà là ý thức về chủng tộc dòng máu Kozak của mình trên đường tìm kiếm chân lý. Những nét tính cách Grigori được bộc lộ dần trong cuộc sống đầy những biến động chính trị xã hội phức tạp, đồng thời anh khao khát một cuộc sống tự do, hạnh phúc theo quan niệm của dân chúng sông Đông. Sự việc bắt đầu từ cuộc gặp gỡ Acxinia trên bờ sông Đông, khi Grigori ra sông cho ngựa uống nước. Vẫn là người phụ nữ láng giềng lặng lẽ, nhẫn nhục ấy nhưng hôm nay, lần đầu tiên Grigori thấy nàng đẹp và hấp dẫn, chàng còn động lòng trắc ẩn trước cuộc sống bất hạnh của Acxinia hàng xóm, trong anh bỗng bừng lên cảm giác yêu thương. Và thế là thiên tình sử đậm đà hương vị ngọt ngào pha lẫn đắng cay, nước mắt của họ mở đầu, rồi trải ra theo suốt chiều dài và chiều sâu tác phẩm. Khi bão táp cách mạng và Nội chiến dồn dập kéo tới vùng Sông Đông cuốn hút các tầng lớp nhân dân Kozak vào vòng xoáy của nó thì đôi tình nhân này cùng bị cuốn theo. Cái thành kiến chủng tộc ở Grigori thực sự trỗi dậy, chi phối mọi ý nghĩ và hành động trong quá trình gian nan đi tìm chân lý cuộc sống. Trong 8 phần của cuộc sống thì phần thứ 5 (quyển 5) là đỉnh điểm mà Grigori đã đạt tới trong cuộc tìm kiếm chân lý: Đó là lúc anh làm chỉ huy phó trung đoàn hồng quân dưới quyền Potchenkov – một đảng viên cộng sản. Trong ba phần cuối, cuộc sống của Grigori là quá trình đi xuống không thể kìm hãm được, để rồi cuối cùng tự biến mình thành một tên thổ phỉ bất đắc chí sống lẩn lút mà vẫn không sao thoát khỏi sự trừng phạt của chính lương tri mình. Hình ảnh sông Đông vào một buổi sáng tháng ba, khi lớp băng trên sông đã thủng lỗ chỗ dưới vầng mặt trời lạnh lẽo và hình ảnh Grigori bế thằng bé Mitska trên tay có một ý nghĩa khái quát, lớn lao và sâu sắc. Nó báo hiệu sự sụp đổ, tan rã nhanh chóng, hoàn toàn của lớp băng giá đè nặng trên dòng sông suốt cả mùa đông dài, nay sắp trôi vào quá khứ Và một mùa xuân ấm áp sẽ đến, dù là dưới “vầng mặt trời” còn “lạnh lẽo”. Cuộc đoàn tụ giữa người cha hối hận trước đứa bé hồn nhiên thơ dại trong một bối cảnh thật xúc động lòng người có sức gợi mở trong tâm hồn người đọc bao điều đáng suy nghĩ, trăn trở về cuộc đời, về số phận con người. Hình tượng Grigori được coi là sự trả giá nặng nề cho những sai lầm trong hành trình đi tìm chân lý lịch sử và đồng thời là sự sụp đổ một nhân cách mang đầy tính bản năng mù quáng. Cuộc sống tình yêu và hôn nhân của Grigori mặc dù hướng tới một tình yêu chân chính song vẫn thất bại, chủ yếu do sai lầm của anh trong việc chọn đường. NHÂN VẬT ACXINIA- bi kịch tình yêu, bi kịch xã hội Đây là một trong hai nhân vật chính của tác phẩm. Nhân vật chính thể hiện chủ đề thứ hai của bộ tiểu thuyết. Acxinia cũng xuất hiện ngay từ những chương đầu. Đó là một thiếu phụ đẹp, thông minh, nhạy cảm và có cá tính mạnh mẽ. Trải qua những bất hạnh gia đình và biến cố xã hội, nàng càng thể hiện một cuộc sống tâm hồn đẹp, phong phú , tế nhị. Số phận của nàng thật nghiệt ngã, bất hạnh ngay từ thời thiếu nữ. Cô bé Acxinia 16 tuổi đã bị ông bố đánh xe ngựa nghiện rượu cưỡng hiếp trong một cơn say. Mẹ và anh nàng đã nổi cơn điên đánh chết bố nàng. Rồi nàng bị gả bán cho Xtephan, một gã nông dân cục cằn thô lỗ, hắn xem nàng như một con vật, nàng rất căm ghét và chán nản, nhưng đành phải phục tùng chồng. Bởi vì nàng đã bị những nỗi đau mà hoàn cảnh giáng xuống từ quá sớm. .Phùng Hoài Ngọc biên soạn109
  16. Nhưng rồi với tính cách mạnh mẽ tiềm ẩn, đến một lúc nào đấy, Acxinia sẽ bừng dậy giành lấy tình yêu của mình và quyết bảo vệ nó. Cái cơ hội ấy đã đến khi nàng “phát hiện” ra chàng trai Kozak Grigori. Nàng thấy anh đã trưởng thành, bằng chứng là anh bắt đầu biết trêu chọc và tán tỉnh nàng tuy có vẻ bâng quơ, đùa chơi. Và ngay lúc ấy, trên bờ sông, nàng chỉ nói một câu nhưng chứa đầy ngụ ý: ”Anh còn trẻ lắm, đừng lấy vợ vội”. Nàng đã chọn Grigori để trao gởi tình cảm và tìm chỗ dựa hạnh phúc, hẳn không phải là ngẫu nhiên. Đối với nàng, đây là mối tình đầu thật sự đã được chuẩn bị kỹ càng. Hai tâm hồn, hai tính cách ấy đã gặp gỡ nhau khi lửa tình yêu bốc cháy thì không còn sức mạnh nào dập tắt nổi. Mối tình của hai người đã trải qua nhiều chướng ngại gian nan, ngọt ngào chen lẫn đắng cay, do hoàn cảnh và cũng do chính họ gây ra nữa, trải qua bao lận đận mà tình yêu chẳng bao giờ lụi tắt trong lòng họ. Tình yêu là tất cả, là lẽ sống duy nhất đối với Acxinia. Do đó nàng cố sức bảo vệ, giành giật thật quyết liệt. Nàng thẳng thắn nói với Natalia khi cô đến yêu cầu trả chồng cho cô : Nếu chị đủ sức thì cứ kéo anh ấy về, bằng không cũng xin đừng giận. Tôi không dễ dàng buông tha Grisa đâu. Tuổi tôi không còn trẻ nữa, và mặc dù chị gọi tôi là con đĩ, nhưng tôi không phải là ả Đasca nhà chị, tôi vốn không bao giờ đùa giỡn với những việc như vậy đâu. Chị còn có con, chứ tôi thì chỉ có Grisa (tên thân mật của Grigori) trên đời này thôi ! Người đầu tiên và là người cuối cùng đấy! Hình tượng Acxinia là sự bừng tỉnh của một tâm hồn bị chà đạp, một hành động thách thức quyết liệt táo bạo đối với số phận, đối đầu với các tập tục lạc hậu, bất công lâu đời của xã hội Kozak mà bao nhiêu phụ nữ phải gánh chịu, nhưng nàng phải trả giá đắt cho sự thách thức ấy. Acxinia bước vào tình yêu say đắm với Grigori như một người có ý thức, có nghị lực vươn tới tự giải phóng mình về mặt đạo đức, luân lý. Acxinia là một số phận đáng thương, một tính cách không đáng khinh ghét mà đáng được tôn trọng, thông cảm. Mặc dù dưới ngòi bút hiện thực nghiêm ngặt của Sholokhov, đôi khi nhân vật có thể khiến độc giả thất vọng, nghi ngờ, khi nàng dan díu với tên trung úy quí tộc Lisyniski hoặc khi nàng nói lời tàn nhẫn với Natalia. Những khuyết tật của nhân vật này trong những hoàn cảnh có thể thông cảm được . Trong văn học Nga thế kỷ XIX đã có không ít nhân vật nữ có cá tính mạnh mẽ, có hành động thách thức số phận và môi trường xung quanh như Anna Karenina trong tác phẩm cùng tên của L.Tolstoi. Khi đọc những trang miêu tả Acxinia, người đọc sẽ liên tưởng ngay đến các nhân vật khác. Có sự khác nhau cơ bản là Acxinia không phải là phụ nữ quí tộc thượng lưu có học thức. Nàng là phụ nữ nông dân nghèo khổ, không được học hành, lại chịu nhiều đau khổ, vùi dập. Vì thế, trong cái hành động phản kháng của nàng, ngoài sự phẫn uất của một tâm hồn phụ nữ bị chà đạp, còn có sự gào thét bất bình của bản năng giai cấp ở nàng. Điều này càng làm cho cuộc đấu tranh giai cấp ở mảnh đất sông Đông thêm đa dạng, giàu âm sắc. Lần đầu tiên trong văn học Xô viết xuất hiện hình tượng phụ nữ nông dân đẹp, có đời sống lý tưởng không đơn sơ và gây được ấn tượng mạnh mẽ sâu sắc như vậy. Đây cũng là một đóng góp đáng kể của thiên tài Sholokhov. .Phùng Hoài Ngọc biên soạn110
  17. Ngoài hai nhân vật chính còn có khoảng 300 nhân vật có tên tuổi, tính cách, trong đó một số nhân vật lịch sử như các viên tướng bạch vệ được ngòi bút khắc họa sinh động rõ nét. Trong các nhân vật Bonsevich, Solokhov chú trọng xây dựng hình tượng nhân vật Mitska Cosevoi là nhân vật tương phản với Grigori. Hai người vốn là bạn cùng làng, chơi với nhau từ nhỏ, cùng dự các buổi “học chính trị” do Stocman tổ chức. Khi cách mạng và Nội chiến xảy đến, hai người dần dần đứng vào hai trận tuyến đối địch, trở thành hai kẻ thù. Rốt cuộc, Mitska trở thành em rể của Grigori và góp phần gánh vác cơ ngơi nhà Melekhov và đại diện cho chính quyền Xô viết mới ở làng Tartask. Còn Grigori thì sau bao năm tháng thăng trầm, chỉ còn biết sống nốt phần đời còn lại lặng lẽ ở làng quê. Sự thay đổi vị thế trong cuộc sống của hai nhân vật này mang một ý nghĩa tượng trưng sâu sắc. Những định kiến chủng tộc sai lầm đã bị phá sản, thế giới cũ đã sụp đổ, sức mạnh và lẽ phải thuộc về phía cách mạng. Trong khi phần lớn những người trong gia đình Melekhov tiêu biểu cho dĩ vãng tối tăm và lầm lạc của người Kozak thì Dunhiaska được nhà văn miêu tả là cô thiếu nữ tiêu biểu cho tương lai của nhân dân vùng Sông Đông. Cô này cuối cùng đã đi theo con đường khác hẳn. Sự phản đối lịch liệt của cha mẹ không lay chuyển được mối tình chung thủy của cô với Mitska Cosevoi chiến sĩ Bonsevich cũng là dân Kozak . Trở lại với Grigori Melekhov nhân vật chính thứ nhất của bộ tiểu thuyết. Anh là một trong những nhân vật điển hình đậm nét nhất trong văn học thế giới, đồng thời là một trong những nhân vật phức tạp nhất của văn học Nga Xô viết. Tính phức tạp của nhân vật này đã gây nên những cuộc tranh luận dữ dội trong giới văn học Xô viết. Ở nước ngoài, đặc biệt ở Trung Quốc, những năm 60, giới phê bình Mao-it (Maoism) sặc mùi giáo điều đã tìm mọi cách xuyên tạc nội dung tư tưởng của “Sông Đông êm đềm” và bản chất của hình tượng Grigori. Để hiểu được tư tưởng nhân đạo cao cả của tác phẩm, cần nắm được bản chất thẩm mỹ của xung đột có tính bi kịch trong nhân vật Grigori sẽ tránh được lối phê bình công thức, giáo điều. Nhà văn M.Solokhov đã từng nói “Tôi muốn thể hiện trong Grigori khát vọng của một con người”. Và mặc dù Grigori mắc sai lầm, nhưng không cần phải miêu tả như một nhân vật tiêu cực (hoặc phản diện). Mặc dù sai lầm, nhân vật này vẫn chiếm được trái tim của hàng triệu độc giả. Nhân vật Grigori vẫn là một điển hình về con người đẹp thất bại nhưng biết trở về” . Trên đường đi tìm chân lý, Grigori bộc lộ một nhân cách trung thực, dũng cảm và cao cả. Nhưng cuối cùng, cái bản chất Kozak đưa vào bằng sữa mẹ, được nuôi dưỡng suốt cuộc đời, đã thắng cái chân lý vĩ đại của nhân loại. Đó là nguyên nhân chủ yếu, dẫn tới kết cục bi kịch của Grigori. Nhưng với chủ nghĩa hiện thực tỉnh táo (hoặc nghiêm ngặt), nhà văn còn miêu tả cả những sai lầm, ấu trĩ trong công tác lãnh đạo của một số cán bộ, sĩ quan cách mạng như Pochenkov, Koliarov và Cosevoi qua đó lý giải một số nguyên nhân dẫn đến sự khủng hoảng niềm tin, hành động sai lầm của Grigori và những người trung nông Kozak. .Phùng Hoài Ngọc biên soạn111
  18. Grigori đã tự rời bỏ hàng ngũ thổ phỉ (tàn quân), từ chối chạy theo bọn lưu vong ra nước ngoài, chàng trở về quê hương, mặc dù biết mình mắc nhiều tội lỗi với cách mạng, và chàng còn mang nặng trong tim biết bao đau đớn và tang tóc. Bởi vì chàng vẫn như xưa, quyến luyến khát khao vô cùng cuộc sống lao động, đất trời cỏ cây nơi quê hương bên dòng Sông Đông đang trở lại êm đềm. Tấn bi kịch của Grigori mặc dù vang lên âm hưởng u buồn cay đắng, nhưng âm hưởng bi kịch đó không thể nào lấn át được âm hưởng lạc quan tươi sáng vang lên từ bối cảnh lịch sử Nội chiến đã kết thúc, mở ra những viễn cảnh sáng tươi, rực rỡ. VÀI NÉT VỀ THI PHÁP “SÔNG ĐÔNG ÊM ĐỀM” Trong phong cách tiểu thuyết hiện thực XHCN còn có hai yếu tố cơ bản là sử thi và bi kịch làm nên bộ tiểu thuyết này. Có thể nói đây là lần đầu tiên trong lịch sử văn học thế giới, hai thể loại lớn này được tập hợp lại để tạo nên một cấu trúc tiểu thuyết độc đáo và sâu sắc. Về thể loại bi kịch, Solokhov tiếp thu thành tựu của văn học Phục hưng, trước hết là Shakespeare. Nhà văn nắm bắt được đặc điểm gần giống nhau giữa thời đại Phục hưng và thời đại cách mạng vô sản khi nhân loại đi tới một bước ngoặt lịch sử to lớn và quyết định. Hai thời đại này có sự giống nhau ở tính chất quyết liệt trong xung đột giữa cái cũ và cái mới, ở đây là chiều sâu của cuộc cách mạng ý thức hệ. Chính những tính cách bi kịch kiểu Shakespeare đã được phát triển trở thành yếu tố thẩm mỹ nổi bật ở Sông Đông êm đềm. Các thủ pháp bi kịch được vận dụng một cách thấu triệt trong tiểu thuyết này. Nghệ thuật bi kịch đã thể hiện sâu sắc ý nghĩa lịch sử và thời đại trong số phận của tính cách Grigori. Nếu các nhân vật bi kịch Hamlet, Romeo và Juliet, Macbeth, King Lear đã trở thành nhân vật điển hình của thời đại Phục hưng thì Grigori điển hình cho thời kỳ hiện đại, khi nhân dân lao động đang từ trong bóng tối bước vào buổi bình minh đẹp nhất của nhân loại – thời kỳ họ bắt đâu làm chủ vận mệnh của mình. Tấn bi kịch không chỉ thể hiện rõ nhất ở Grigori mà còn được khắc họa ở số phận của cả gia đình Melekhov, Cosevoi và cả những nhân vật chiến sĩ cách mạng khác, nói rộng ra, tấn bi kịch bao trùm cả cộng đồng dân Kozak ở Sông Đông. Tuy vậy, thời đại Cách Mạng Tháng Mười có khác biệt cơ bản so với thời đại Phục Hưng ở chỗ: thời đại sau đã mở ra triển vọng và đặt cơ sở thực tiễn cho việc giải quyết những mâu thuẫn đối kháng trong quan hệ xã hội có giai cấp. Chưa bao giờ nhân dân lại có vai trò to lớn đối với công cuộc sáng tạo lịch sử như trong cuộc cách mạng vô sản. Thời đại mới đòi hỏi một cách bức thiết vai trò nghệ sĩ nói lên khát vọng chí hướng của thời đại, khơi dậy sức sáng tạo vô tận của quần chúng. Sholokhov đã là người nghệ sĩ như vậy. Ông vừa tiếp thu nghệ thuật bi kịch nhưng cũng biết rõ giới hạn của nó. Kết cấu bi kịch của Shakespeare không hàm chứa được nội dung quá trình cải tạo thế giới quan và sự trưởng thành của nhân dân lao động. Mâu thuẫn bi kịch của Grigori (với tư cách đại diện quần chúng nhân dân) không thể bị giới hạn phạm trù bi kịch cá nhân hay gia đình, nó phải cuốn hút vào dòng thác sử thi sôi sục và rộng rãi. Chính nhờ sự kết hợp sử thi và bi kịch mà tác phẩm bi kịch ấy tìm ra hướng giải quyết tích cực, lác quan và tươi sáng. Nhân vật bi kịch Grigori dù phải chịu nhiều tổn thất và cay đắng .Phùng Hoài Ngọc biên soạn112
  19. nhưng không tuyệt vọng như hoàng tử Hamlet của Shakespeare. Trong cảnh kết thúc của tiểu thuyết. Nhân vật Grigori bồng đứa bé trên tay – chú bé Misatka, sẽ là tương lai của chàng, và chẳng có gì cản trở Grigori tiếp tục hòa mình vào thế giới mới. Do sự kết hợp giữa sử thi và bi kịch, bộ tiểu thuyết đồ sộ đạt được những phẩm chất cơ bản sau đây: • Phản ánh hiện thực rộng rãi xoay quanh các biến cố lớn. • Hiện thực ấy được lý giải bởi nguồn gốc lịch sử vừa mở ra triển vọng tương lai. • Có chiều sâu triết lý và tâm lý. Trên đây là yếu tố thi pháp của tiểu thuyết Sông Đông êm đềm xét về mặt “tư tưởng thể loại” . Bên cạnh đó còn có những sáng tạo thi pháp khác nữa, chẳng hạn “thi pháp thiên nhiên” trong “Sông Đông êm đềm” . Thi pháp tiểu thuyết “Sông Đông êm đềm” sẽ còn tiếp tục vận động và phát triển trong bộ tiểu thuyết “Đất vỡ hoang” và truyện ngắn sử thi “Số phận con người” để hình thành ổn định, rạng rỡ một thi pháp Solokhov, đại biểu ưu tú của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa đã được cả thế giới thừa nhận. TRUYỆN NGẮN "SỐ PHẬN CON NGƯỜI" (Судьба Человека) Khi thiên truyện này được đăng trên báo Sự Thật ngày 31/12/56 nó trở thành một sự kiện làm rung chuyển văn đàn Liên xô. Nhà văn tiếp tục giới thiệu hình tượng người anh hùng kiểu mới–nhân vật Andrey Socolov. Qua cuộc đời đầy đau thương, mất mát và những chiến công của anh lính Socolov, nhà văn đặt ra vấn đề nóng bỏng và bức thiết đối với con người trên toàn bộ hành tinh chúng ta: “Nhân loại có thể chiến thắng đau thương và mọi sự tàn phá, hủy diệt do chủ nghĩa phát xít và các thế lực đen tối khác gây nên hay không? Con người có thể vượt qua hậu quả chiến tranh để phục hồi cuộc sống thanh bình trên đống hoang tàn của chiến tranh khốc liệt hay không?”. Hình tượng Socolov đã trả lời vấn đề này một cách tích cực và khẳng định với âm hưởng lạc quan đầy sức mạnh. “Số phận con người” với tư cách là một truyện ngắn dài hơn 30 trang sách, nhưng tác giả không chú ý xây dựng một chi tiết hạt nhân nào như lẽ thường mà sáng tạo hàng loạt tình tiết xâu chuỗi với nhau làm thành một cốt truyện phong phú – dài hơi, có dáng dấp tiểu thuyết. Từ đó, giới phê bình gọi đấy là một “truyện ngắn sử thi”. Trên cơ sở thi pháp hoàn chỉnh và độc đáo mở ra từ Sông Đông êm đềm, xuyên qua Đất Vỡ Hoang, Solokhov tiếp tục tư tưởng nghệ thuật của mình và tạo ra một đỉnh cao mới với truyện ngắn”Số phận con người”. Vẫn duy trì kết cấu tiểu thuyết sử thi, nhà văn đặt toàn bộ nội dung vào trong một kết cấu “nhạc giao hưởng cổ điển” (cũng gọi là bản giao hưởng anh hùng) khá lý thú. Một bản giao hưởng có thể gồm 2 phần : phần giáo đầu và phần kết thúc và 3 chương chính. Truyện “Số phận con người” cũng có các phần tương đương như vậy. Nôi dung 3 chương miêu tả cuộc đời gian nan của nhân vật chính Socolov, đồng thời, mỗi chương vẫn là một câu chuyện trọn vẹn. .Phùng Hoài Ngọc biên soạn113
  20. Có hai chủ đề xuyên suốt các chương đó là: chủ đề bi thương và chủ đề anh hùng. Hai chủ đề này đan xen, đối chiếu và xung đột với nhau. Trong chương I, Socolov vượt qua những thử thách gian nan để chiến đấu thời kỳ Nội chiến và lao động trong những năm phục hồi kinh tế. Cha mẹ và anh chị em Socolov đều bị chết đói, chỉ có một mình anh đứng vững được. Dần dần anh xây dựng nên một gia đình mới, hạnh phúc, có nhà cửa, có vợ hiền và ba đứa con ngoan ngoãn, thông minh. Sang chương II, chiến tranh vệ quốc bùng nổ, Socolov từ giã vợ con ra tiền tuyến. Trong chiến trận, không may anh và nhiều đồng đội bị quân phát xít bắt làm tù binh. Anh đã phải chịu đựng biết bao sự tra tấn, chà đạp tàn bạo khủng khiếp của kẻ thù . Nhưng anh khôn khéo chiến thắng, chạy trốn khỏi trại tù binh trở về đơn vị hồng quân lại còn lập thêm chiến công : bắt sống một tên thiếu tá phát xít đem về đơn vị. Về tới đơn vị, Socolov lại nhận được tin đau đớn nhất : trái bom của máy bay phát xít đã chôn vùi ngôi nhà cùng người vợ và hai đứa con của anh Qua chương III, một niềm vui lớn lại sưởi ấm cuộc đời giá lạnh của anh: nhận được tin và thư của cậu con trai lớn nay đã trở thành một đại úy pháo binh thông minh, có tài năng, đẹp trai và đầy triển vọng . Hai cha con hồi hộp chờ đợi ngày gặp gỡ. Đúng vào cái ngày kết thúc chiến tranh và chiến thắng phát xít Đức, Socolov tìm đến gặp con trai nhưng cũng để đưa tiễn người con trai anh dũng ấy tới nơi an nghỉ cuối cùng. Sau đó anh phải đi tìm việc làm để kiếm sống trong nỗi cô đơn buồn khổ. Anh làm tài xế xe tải, chở lúa mì cho một huyện lỵ. Rồi anh gặp đứa bé mồ côi Vania (cha mẹ em đều chết trong chiến tranh). Cậu bé Vania không nhớ mặt cha và tin rằng cha còn sống. Nhân đó Socolov bảo cậu bé: anh chính là cha ruột Vania, nay đã trở về đoàn tụ với con. Sự xuất hiện em bé Vania ở chương này thêm một câu chuyện đau thương, là một tiếng thét phẫn nộ (bằng giọng nói non nớt trẻ em) đối với chiến tranh, là một bản án đối với chủ nghĩa phát xít . Nhưng đây không phải là một kết thúc tốt đẹp mĩ mãn. Cuộc sống của “hai cha con” vẫn còn nhức nhối chưa nguôi. Chủ đề bi thương vẫn thỉnh thoảng khe khẽ trỗi lên. Đó là lúc cậu bé chợt nhớ chiếc áo bành tô da của cha đẻ ngày xưa mà Socolov không ngờ tới; đó cũng là lúc Socolov không thể chạy trốn khỏi những giấc mơ khi đêm về thấp thoáng hình ảnh vợ và con, “Mỗi khi anh thức giấc thì gối đẫm nước mắt”. Phần kết thúc, bản giao hưởng văn xuôi tiếng Nga vang lên tiếng nói của nhà văn - lúc này trở lại giọng người kể chuyện, đó là tiếng nói chính luận hòa quyện cảm xúc trữ tình cất lên bi tráng trong suy tư man mác “Hai kẻ côi cút, hai hạt cát bị cơn bão chiến tranh với sức mạnh ghê gớm thổi bạt tới những miền xa lạ. Cái gì đang chờ đợi họ phía trước? Tôi nghĩ rằng họ sẽ khắc phục được mọi điều, vượt qua tất cả trên đường đi tới ”. Tuy thế âm hưởng lạc quan vẫn cố gắng vươn lên, lấn át cảm xúc bi thương. Hình ảnh đứa bé chạy trước, người lính cựu binh chậm rãi theo sau chính là đứa bé đang dẫn dắt anh đi tiếp lên cuộc đời phía trước. Tư tưởng nhân đạo cao cả của thiên truyện ngắn sử thi vì thế trở nên sâu sắc mà không rơi vào tình trạng nông cạn hời hợt. .Phùng Hoài Ngọc biên soạn114
  21. Ngày nay ở nước Nga vẫn còn tồn tại Khoa nghiên cứu văn học mang tên “Solokhov học” (Trên thế giới còn có hai khoa đặc biệt nữa: Hồng học ở Trung Quốc, Shakespeare học ở Anh). Điều đó chứng tỏ sự phong phú và phức tạp của thiên tài M.Solokhov và sự nghiệp văn học của ông.  .Phùng Hoài Ngọc biên soạn115
  22. CHƯƠNG 10. MỘT SỐ TÁC GIẢ TIÊU BIỂU KHÁC ALEXEI TOLSTOI (Алексей Толстой) (1834-1945) Tên tuổi sự nghiệp của A.Tolstoi chiếm một vị trí cao trong nền văn học Xô viết, được coi như một nhà văn kinh điển trong thời kì văn học này. Điều đáng chú ý trước tiên, ông vốn là một nhà văn quí tộc trước cách mạng tháng Mười. Ông đã trải qua “con đường đau khổ” về mặt tinh thần để trở thành một nhà văn Xô viết nổi tiếng, được nhân dân yêu mến, kính trọng. Ngoài ra ông còn là một viện sĩ viện hàn lâm khoa học Liên Xô, nhà hoạt động văn hóa xã hội nổi tiếng. TIỂU THUYẾT “CON ĐƯỜNG ĐAU KHỔ” (Хождене По Мукам) Đây là một bộ tiểu thuyết sử thi lớn, một kiệt tác của nền văn học Xô viết. Bộ sách được viết trong hai mươi năm mới hoàn thành (1921-1941). Tập I : Hai chị em Câu chuyện bắt đầu năm 1914, hai chị em Katya và Đasa là con gái bác sĩ Bulavin ở thành phố Xamara. Katia tốt nghiệp đại học sư phạm và lấy có chồng là luật sư Smokovnokov giàu có ở , nhưng cuộc sống tinh thần của hai người không êm thấm vì khác nhau về lý tưởng xã hội. Đasa lên học đại học và ở với anh chị ở thành phố này. Gia đình Katia thường xuyên có nhiều bạn bè trí thức lui tới trao đổi về nghệ thuật và những đề tài chính trị xã hội khác. Một hôm gia đình tiếp một vị khách tên là Rotsin sĩ quan Nga hoàng từ mặt trận về ghé chơi. Katia tỏ ra rất có thiện cảm với anh ta, còn Đasa, trong một buổi dạ hội hóa trang đã gặp và làm quen chàng kỹ sư Teleghin. Buổi đầu gặp gỡ, nàng đã nghĩ “Có lẽ ở , chỉ còn chàng trai này là chưa mất trí " . Hai người trở nên thân thiết và yêu nhau. Có sự bất hòa giữa hai vợ chồng Katia, họ quyết định ly thân tạm thời, lúc bấy giờ là cuối năm 1916 đầu năm 1917, luật sư Smokovnikov được lệnh nhập ngũ. Katia tiễn chồng đi. Sau cuộc Cách Mạng Tháng Hai 1917, Smokovnikov được cử làm phái viên của chính phủ lâm thời đi khuyến dụ binh lính ngoài mặt trận ủng hộ chính phủ lâm thời. Trong một lần diễn thuyết, ông ta bị đám sĩ quan phản đối và đánh chết. Ở nhà, Katia nghe tin chồng mất, nàng ân hận đau buồn toan uống thuốc tự tử. Tình cờ sĩ quan Rotsin từ mặt trận ghé về, cứu kịp. Hai người sau đó trở thành vợ chồng. Còn Đasa và Teleghin cũng đi tới hôn nhân. Tập một kết thúc với cảnh hoàng hôn rơi xuống kinh đô cũ sau Cách Mạng Tháng Mười 1917. Katia và Rotsin đi bên nhau, cùng nhìn lên cung điện Smonưi – đại bản doanh của cách mạng. Rostin nói với Katia:”Năm tháng sẽ trôi qua, chiến tranh sẽ kết thúc, cuộc cách mạng sẽ thôi gầm thét và chỉ còn lại bất diệt tấm lòng dịu dàng, trìu mến và đầy tình thương của em”. TẬP I I: Năm 18 Bắt đầu cuộc Nội chiến. Vợ chồng Đasa đã có một đứa con. Teleghin gia nhập Hồng quân, Đasa một mình ở lại thành phố h vắng vẻ tiêu điều. Con chết, nàng định tìm đường về quê với bố ở thành phố Xamara phương Nam, giữa lúc đó, nàng gặp một người quen biết của gia đình. Anh ta thuyết phục Đasa phục vụ cho một tổ chức phản động. Còn Rotsin nghe theo lời kêu gọi của bọn phản động Nga hoàng cũ, đã đi theo đội quân phản cách mạng để “cứu rỗi nước Nga .Phùng Hoài Ngọc biên soạn116
  23. khỏi bàn tay bọn Bonsevich” bất chấp lời can ngăn của vợ. Katia trên đường về với bố, bị bọn tay chân của trùm thổ phỉ Macno bắt giữ. Còn Đasa trong một chuyến đi công tác cho bọn phản động, gặp một người quen cũ của chồng khuyên bảo nên rời bỏ bọn này và tìm đường trở về với bố. Trong một lần đi công tác chuẩn bị chiến trường, Teleghin ghé thăm bố vợ và hỏi thăm tin tức Đasa. Bố vợ anh, bác sĩ Bulavin, bây giờ là một nhân vật cao cấp trong chính phủ phản động đã tìm cách báo cho cảnh binh đến bắt con rể. Đasa tình cờ nghe tiếng động, vội chạy ra, bất ngờ gặp Teleghin. Nàng đã nhanh trí cứu chồng thoát nạn. Sau đó nàng đoạn tuyệt với bố và bỏ nhà đi tìm chồng. Trong khi đó, Rotsi đi với bọn bạch vệ, bị chúng nghi ngờ và trong một lần ra trận bị một kẻ bắn sau lưng, bị thương nhưng thoát chết. Sau khi ra viện, chàng hối hận và quyết định đi tìm vợ để xin nàng tha thứ. TẬP III – Buổi sáng ảm đạm Đasa đang đi lang thang trong đồng cỏ thì bị đội dân quân tuần tra bắt giữ và bị nghi ngờ là gián điệp. Khi gặp viên chỉ huy, biết ông ta là bạn của chồng mình, nàng được ở lại làm y tá cho bệnh viện dã chiến Nàng gặp một người thương binh đôi mắt bị băng kín, nhận ra chồng mình, nàng săn sóc chu đáo, nhưng chưa để cho chàng biết vì sợ ảnh hưởng vết thương. Khi tháo băng , Teleghin nhận ra vợ mình. Từ đó họ sống đoàn tụ, hạnh phúc ở trạm quân y. Còn Rotsin đánh liều đi tìm vợ ở sào huyệt của bọn thổ phỉ Macnô. Tên thổ phỉ lợi dụng chàng để đi thương lượng phối hợp với đơn vị hồng quân để đánh chiếm một cứ điểm của bọn bạch vệ đang uy hiếp cả hai phía. Sau trận đánh thắng lợi, Rotsin ở lại trong đội ngũ hồng quân. Còn Katia bị tay chân của Macnô bắt giữ đem về quê y định cưới nàng làm vợ. Nhờ người chị dâu của tên phỉ và bà con trong làng giúp đỡ, che chở, nàng đã thoát khỏi tay tên thổ phỉ. Rotsin trong một trận tiễu phỉ đã giết chết tên Macno. Trên đường đi tìm vợ, chàng đã đến một xóm ngoại ô và tình cờ gặp được Katia lúc ấy đang làm giáo viên dạy con em các chiến sĩ hồng quân và dân lao động. Tác phẩm kết thúc với cảnh nhà hát lớn ở Moskva đang diễn ra Hội Nghị Toàn Nga thông qua kế hoạch “điện khí hóa nước Nga”. Cả bốn nhân vật chính đều có mặt tại hội nghị. Câu nói của Rotsin với Katia chấm dứt bộ tiểu thuyết sử thi này: “Em có biết không, mọi cố gắng của chúng ta, máu đã đổ ra vì tất cả những đau khổ thầm lặng không ai biết đến của chúng ta có ý nghĩa lớn lao biết chừng nào! Thế giới sẽ được cải tạo lại vì những mục đích tốt lành”. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM Tựa đề của tiểu thuyết đã nói lên chủ đề của nó: cuộc hành trình gian khổ của những người trí thức giàu lòng yêu nước đi tìm chân lý cuộc sống, đến với cách mạng. “Con đường đau khổ” mà bốn nhân vật chính đã trải qua không giống nhau, nhưng có một điểm chung. Đó là, rốt cuộc họ đều tìm và trở về cội nguồn của mình: nhân dân. Nhân vật Rotsin Nhân vật này trăn trở về sự mất còn của tổ quốc. Là một thanh niên quí tộc, được giáo dục từ nhỏ về lòng yêu nước và nghĩa vụ theo quan điểm truyền thống mà tượng trưng là nhà nước Đại Nga của Nga Hoàng. Khi cách mạng bùng nổ, chàng nói với Teleghin “Chúng ta không còn tổ quốc nữa, mà chỉ còn nơi xưa kia tổ quốc từng tồn tại”. Chàng cảm thấy tâm hồn hụt hẫng, nghĩ rằng điều thiêng liêng nhất đã mất. Chàng chỉ còn trông cậy vào tình yêu làm chỗ dựa cho qua ngày, để chờ một thời cơ Bão táp cách mạng chưa lắng dịu thì ngọn lửa Nội chiến lại bùng lên. Cái ý thức nghĩa vụ với tổ quốc Đại Nga lại trỗi dậy và lôi cuốn Rotsin ra trận. .Phùng Hoài Ngọc biên soạn117
  24. Chàng nhận ra những đồng đội trong hàng ngũ bạch vệ chỉ là những kẻ man rợ. Hối hận, lại suýt chết vì viên đạn của đồng đội, Rotsin dứt khoát đoạn tuyệt với chúng. Trên đường đi công tác cho bọn phỉ Macnô, chàng gặp gỡ một lính thủy là phái viên của hồng quân. Anh lính thủy đã giúp chàng nhận ra chân lý, anh chỉ vào những người dân đi trên xe lửa mà nói “Tổ quốc chính là họ”. Sau đó Rotsin gia nhập đội ngũ hồng quân, nhờ đó gặp lại Katia cùng lập lại cuộc sống gia đình hạnh phúc. Nhân vật Teleghin “Con đường đau khổ” của Teleghin diễn ra không gay go phức tạp như Rotsin và nhiều người bạn khác. Cái đau khổ của chàng sinh ra do xung đột giữa nghĩa vụ và tình yêu, chung và riêng chứ không phải do sự ngộ nhận về lý tưởng. Khi cách mạng bùng nổ, chàng phải đấu tranh quyết liệt với bản thân để đủ can đảm từ biệt người vợ trẻ đẹp ở lại trơ trọi giữa thành phố đói rét, lộn xộn. Chàng tin vào cách mạng và tin ở lòng chung thủy, nhân hậu của Đasa. Đối với Teleghin, tổ quốc và cách mạng chỉ là một. Trong quá trình chiến đấu, chàng hiểu thêm: tổ quốc và cách mạng chính là nhân dân. Cùng chiến đấu, chàng chia sẻ gian lao ngọt bùi với những người lính bình thường, chàng càng hiểu biết họ và được họ tin cậy. Cuộc gặp lại Đasa ở chiến trường càng làm cho niềm vui hạnh phúc của họ có đầy đủ ý nghĩa : niềm vui nhỏ của riêng hai người đã hòa vào niềm vui lớn của nhân dân Nga. Nhân vật Katia “Con đường đau khổ” đến với cách mạng của người phụ nữ quí phái xinh đẹp vốn được xã hội thượng lưu chìu chuộng này không diễn ra trong sự trăn trở nhận thức mà bị cuốn vào trực tiếp trong cơn lốc Nội chiến. Nàng chỉ nhận ra sự tất yếu bằng cảm quan nhạy bén với cái thiện , cái ác, cái tốt đẹp và cái xấu xa. Nàng chỉ biết can ngăn chồng khỏi tham gia vào lực lượng phản động. Khi bị lâm vào tình huống bất trắc, nàng vẫn tìm được cách ứng xử đúng với mọi người và thoát khỏi nguy hiểm. Katia dạy học và làm việc tình cờ, nhưng cũng hợp với logic phát triển của tình hình. Việc đó giúp nàng gần gũi dân chúng, hiểu ra nổi đau khổ lớn lao hơn của số phận nhân dân, trước mắt là của bao nhiêu trẻ em, con cái những gia đình lao động nghèo. Trước đây, Katia chẳng hiểu nhiều về đời sống nhân dân. Từ đây, nàng hiểu cách mạng và ý nghĩa, mục tiêu tranh đấu của cách mạng. Nhân vật Đasa Là một nữ trí thức trẻ, thông minh, trung thực và có nghị lực, Đasa khác chị mình ở chỗ nàng không muốn hòa nhập vào xã hội thượng lưu và không muốn bị phụ thuộc vào ai. Nàng tin vào khả năng của mình, muốn tự định đoạt tương lai. Cô chị Katia thường tạo điều kiện , giới thiệu, dẫn dắt em mình đến với những vị khách quí, sang trọng, giàu có để chuẩn bị tương lai cho em. Nhưng Đasa đều tìm cách khéo léo chối từ. Nàng lấy cớ bận học tập để tránh các buổi dạ hội. Đasa có cảm quan nhạy bén, sớm nhận thấy cuộc sống của chị mình và luật sư Smokovnikov là thiếu hạnh phúc, cảm thấy sự đam mê của Katia với nhà thơ Betsonov là viển vông, những vị khách quan trọng có vẻ gì đó không chân thực. Lần đầu tiên gặp Teleghin trong dạ hội hóa trang , Đasa cảm thấy ngay rằng” đây là con người duy nhất ở Peteburgh còn chưa mất trí”. Nàng tin vào người yêu, tin vào con đường cách mạng mà Teleghin đã chọn. Sự lựa chọn của Teleghin vì thế không trải qua trăn trở gay go. Lúc tiễn Teleghin ra trận, nàng động viên chồng mặc dù biết những khó khăn bất hạnh nếu mình ở lại trơ trọi chốn kinh thành này Cuộc tái ngộ của hai người ở chiến trường là một hình ảnh đẹp, mang tính chất sử thi. Niềm hạnh phúc của họ gắn bó với niềm vui lớn của mọi người, khi cuộc Nội chiến sắp kết thúc. .Phùng Hoài Ngọc biên soạn118
  25. Cuộc đoàn tụ của bốn nhân vật chính trong cuộc Hội Nghị Toàn Nga bàn về công cuộc phục hồi và xây dựng lại tổ quốc sau Nội chiến có ý nghĩa tượng trưng sâu sắc. Trong bộ tiểu thuyết, còn có hàng trăm nhân vật được miêu tả chân thực, sinh động trong đó có một số nhân vật lịch sử. Tài năng nghệ thuật và tình yêu cách mạng của nhà văn Tolstoi đã tạo ra bộ tiểu thuyết đồ sộ có sức thuyết phục sâu sắc đối với người đọc trong và ngoài người, làm rạng rỡ cuộc Cách Mạng Tháng Mười vĩ đại . Câu hỏi luyện tập Miêu tả cuộc hành trình lịch sử của nhân vật “con người thừa” khởi lên từ , Lermentov, L.Tolstoi đến A .Tolstoi. (So sánh các nhân vật chính gốc quí tộc mang tính cách “con người thừa” ở các tác phẩm Evgeni Oneghin, Người con gái viên đạy úy, Nhân vật của thời đại, Chiến tranh và hòa bình, Anna Karenina , Phục sinh và Con đường đau khổ)  .Phùng Hoài Ngọc biên soạn119
  26. NICOLAI OXTROVSKI (Николаи Островски) (1904-1936) Nhà văn N. Oxtrovski và tiểu thuyết “Thép tôi đã thế đấy” của ông là một hiện tượng đặc biệt trong đời sống văn học Nga Xô viết và văn học thế giới nói chung. Trong các thế hệ thanh thiếu niên Việt Nam, nhất là ở hậu phương của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cuốn tiểu thuyết đã trở thành người bạn thân thiết, bạn đồng đội và kỷ niệm không thể phai mờ. VÀI NÉT VỀ CUỘC ĐỜI SÁNG TÁC N.Oxtrovski sinh ngày 29.4.1904 tại một làng quê Ukraina trong một gia đình lao động nghèo. Năm lên 11 tuổi, Nicolai cùng gia đình chuyển lên thị trấn, anh bắt đầu lao động để kiếm sống. Tháng 7.1919, anh cùng 5 thanh niên đầu tiên của thị trấn được kết nạp vào Đoàn Thanh Niên Cộng Sản. Sau đó anh tình nguyện gia nhập hồng quân. Bị thương, ra viện, về nhà nghỉ với gia đình. Lên thành phố Kiev để học tập và công tác. Năm 1921, anh vào học lớp trung cấp kỹ thuật điện của ngành đường sắt và làm thợ phụ sửa điện ở xưởng sửa chữa đường sắt. Mùa thu năm 1922, anh cùng một nhóm thanh niên Kiev ngừng học tập đến công trường Baiarơca để xây dựng một nhánh đường sắt. Tại đây anh bị ngã bệnh thương hàn, đưa về tuyến sau điều trị. Tháng 8.1924, anh được kết nạp vào Đảng Bonsevich. Từ cuối năm 1924, anh phải đi chữa bệnh ở Khaccốp rồi lại chuyển đi nhiều bệnh viện và trại điều dưỡng khác. Cuối năm 1926, anh lập gia đình và bệnh tật lại quật ngã anh. Trên giường bệnh anh vẫn cố gắng học tập và đọc sách. Anh xin học hàm thụ trường Đại học Xverlop. Đến tháng 11.1928, anh bị đau mắt nặng phải bỏ học, ít lâu sau bị mù hẳn. Đầu năm 1930, anh bắt đầu viết cuốn tự truyện “Thép đã tôi thế đấy” và cuối năm 1933 thì hoàn thành. Cuối năm 1934, anh bắt tay vào viết “Ra đời trong bão táp”, viết xong tập I, không viết xong tập II vì sức khỏe suy kiệt. N.Oxtrovski mất ngày 22.12.1936 lúc 32 tuổi. Tiểu thuyết “THÉP TÔI ĐÃ THẾ ĐẤY” (Как Закалясь Сталь) Là một cuốn truyện mang nhiều yếu tố tự thuật. Cuộc đời nhân vật Paven Corsaghin gần trùng khớp với cuộc đời tác giả. Một số nhân vật khác trong truyện cũng có nhiều nét giống với bạn bè, đồng chí của anh, trong đó có một số ít được giữ nguyên tên họ. Nội dung tác phẩm phản ánh chân thực quá trình hình thành thế hệ thanh niên Xô viết đầu tiên nhận lấy sứ mệnh lịch sử chiến đấu bảo vệ chính quyền Xô viết và xây dựng xã hội mới sau cách mạng, cuộc Nội chiến ở Ukraina và toàn liên bang. .Phùng Hoài Ngọc biên soạn120
  27. Đó là sự hình thành nhân sinh quan cộng sản và lý tưởng xã hội chủ nghĩa của các nhân vật chính, qua sự tôi luyện khắc nghiệt trong máu lửa của cách mạng và trong cuộc sống cực kỳ gian khổ những ngày đầu thời kì Xô viết. Thông qua tựa đề cuốn truyện, nhà văn nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng của sự tôi luyện trong hoàn cảnh thực tiễn đấu tranh cách mạng. Và chỉ ra đặc trưng tinh thần của thế hệ đó là ý chí kiên cường và lòng dũng cảm. Hai chủ đề đó thể hiện tập trung và sinh động qua hình tượng nhân vật Paven Corsaghin. Từ một cậu bé nghèo khổ, thất học, sớm phải lao động vất vả kiếm sống, Paven đến với cách mạng hồn nhiên, hăng hái. Qua cuộc chiến đấu ác liệt ngoài mặt trận và khắc nghiệt trên công trường, anh trở thành chiến sĩ cách mạng, đảng viên Bonsevich và sau cùng thành một nhà văn sáng tác trong hoàn cảnh bệnh tật hiểm nghèo: cuộc đấu tranh gay go cuối cùng của anh. Trong một bản dịch cuốn truyện này sang tiếng Anh, dịch giả đã đổi tựa đề là “Trở thành anh hùng”. Đúng là cuộc đời Paven và các đồng đội đã trải qua cuộc tôi luyện quyết liệt để trở thành người anh hùng có ý chí sắt thép trong cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản. Ở Paven, trước hết là quá trình trưởng thành ý thức giai cấp, ý thức đồng đội và rũ bỏ những thói quen xấu là tính tự do vô kỷ luật và hành động theo bản năng. Không có sự dìu dắt của những người cộng sản như Giukhrai, Tokarev và những đồng đội như Giacki, Pankratov thì Paven không thể trở thành người anh hùng. Lời nói nổi tiếng sau đây của Paven khi đứng trước nấm mồ liệt sĩ: “Cái quí nhất của con người là đời sống. Đời người chỉ sống có một lần, phải sống sao cho khỏi xót xa ân hận vì những năm tháng sống hoài phí, cho khỏi hổ thẹn vì dĩ vãng ti tiện và nhỏ nhen của mình để đến khi nhắm mắt xuôi tay ta có thể nói rằng: tất cả đời ta, tất cả sức ta đã hiến dâng cho sự nghiệp cao cả nhất trên đời- sự nghiệp đấu tranh giải phóng loài người”. Nhân vật Paven còn được mô tả sinh động trong cuộc sống riêng tư phong phú của anh. Mối tình đầu của Paven là một người con gái xinh đẹp Tonia, con gái viên chức kiểm lâm giàu có và anh đã đón nhận một cách chân thành, trong sáng. Nhưng rồi mối tình đó không diễn ra trên một hòn đảo mộng mơ mà ở trên mảnh đất nóng bỏng đấu tranh giai cấp nên cuối cùng số phận tình yêu đã được định đoạt. Paven không thể rời bỏ cách mạng, còn Tonhia không đủ can đảm đi cùng anh. Anh nói với cô “Em đã có gan yêu một công nhân, nhưng em không đủ can đảm để yêu lý tưởng của người ấy”. Cái buổi chiều cuối cùng của mối tình đầu rất đẹp ấy đã được miêu tả rất chân thực và cảm động. Mối tình thứ hai thầm lặng với Rita, người cán bộ Đoàn, diễn ra thật trong sáng và đẹp đẽ, như đã có sẵn một tình yêu giai cấp làm nền tảng. Chỉ do một sự hiểu lầm của Paven và cũng do hoàn cảnh cuộc Nội chiến, tin tức gián đoạn, đến khi tình cờ gặp lại thì đã muộn. Cả hai người đã cố gắng vượt qua cái đã mất để giữ gìn và làm đẹp thêm cái còn lại giữa hai người là tình bạn, tình đồng chí cao cả. Đọc lá thư của .Phùng Hoài Ngọc biên soạn121
  28. Rita gởi cho Paven sau Đại Hội Đoàn toàn quốc, chúng ta vừa xúc động vừa quí mến họ, những con người biết sống đẹp vì một cái gì khác, lớn hơn cái tôi của mình . Mối tình thứ ba, mối tình cuối cùng của Paven. Trong thời gian điều dưỡng, anh quen biết gia đình cô gái nghèo Taia có một ông bố quá quắt. Anh đã tỏ tình với Taia để giải thoát cô khỏi cảnh gia đình tồi tệ. Họ cưới nhau và sống êm đềm về tinh thần hơn là về vật chất. Họ sống cho nhau, vì nhau trong những năm Paven nằm trên giường bệnh, vật lộn với tử thần để “trở lại đội ngũ” bằng cây bút – vũ khí của mình. Hình tượng Paven Corsaghin là khuôn mặt tinh thần tiêu biểu cho thế hệ thanh niên Xô viết đầu tiên, thế hệ trẻ của đất nước Xô viết trong thời kỳ đầu tiên “lấy tinh thần thắng vật chất”, họ chỉ có đôi mắt rực cháy niềm tin lý tưởng là biểu hiện sinh động duy nhất sức mạnh vô địch của họ. Cuộc đời của nhà văn N.Oxtrovski tuy ngắn ngủi, tác phẩm của ông thành công chỉ có một, nhưng ông đã lập nên kỳ tích chưa từng có trong lịch sử văn học thế giới: Chưa có ai như ông ốm đau liệt giường, bị mù cả hai mắt rồi mới học tập và viết văn. Tác phẩm viết ra có một sức sống và sức mạnh khác thường. Tiểu thuyết “Thép đã tôi thế đấy” đã phát huy tác dụng giáo dục động viên rất to lớn đối với các thế hệ trẻ Liên xô và nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam (♣).  .(♣) Trang đầu tập Nhật kí của bác sĩ liệt sĩ anh hùng Đặng Thùy Trâm nắn nót viết lời nói của nhân vật Paven :Cái quí nhất của con người là đời sống. Đời người chỉ sống có một lần, phải sống sao cho khỏi xót xa ân hận vì những năm tháng sống hoài phí, cho khỏi hổ thẹn vì dĩ vãng ti tiện và nhỏ nhen của mình để đến khi nhắm mắt xuôi tay ta có thể nói rằng: tất cả đời ta, tất cả sức ta đã hiến dâng cho sự nghiệp cao cả nhất trên đời- sự nghiệp đấu tranh giải phóng loài người” .Phùng Hoài Ngọc biên soạn122
  29. ALEXANDOROR FADEEV (Александорор фадеев) (1901-1956) A . Fadeev là một nhà văn lớn của đất nước Xô viết, đồng thời là nhà lý luận phê bình văn học có uy tín của văn học Xô viết. Số lượng tác phẩm của ông không nhiều, nhưng chất lượng được công nhận có nhiều đóng góp cho sự phát triển của văn học Xô viết. GIỚI THIỆU CUỘC ĐỜI VÀ SÁNG TÁC A.Fadeev thuộc thế hệ những nhà văn Xô viết trưởng thành cùng cách mạng ngay từ buổi ban đầu gian khổ. Họ cầm súng trước khi cầm bút. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình cách mạng. Năm 1918 ,17 tuổi ông đã trở thành đảng viên Bonsevich, đi du kích chống bọn bạch vệ và quân can thiệp Nhật ở vùng Viễn Đông. Năm 1921, Fadeev đi dự đại hội Đảng lần X. Đi dẹp loạn, bị thương nặng, nằm viện. Xuất ngũ, đi học Đại học Mỏ ở Moskva. Chưa học xong, đi công tác vùng Kafkaz theo điều động của Đảng. Viết những tiểu thuyết đầu tay và khi tiểu thuyết “Chiến bại” ra đời (1926), Fadeev được công chúng văn học rộng rãi chú ý. Cùng với tác phẩm “Tsapaev” của Furmanov, “Suối thép” của Xerafimovich, “Chiến bại” của Fadeev là mốc đầu tiên của văn học Xô viết . Lúc sắp kết thúc chiến tranh vệ quốc, ông hoàn thành tiểu thuyết “Đội cận vệ thanh niên” (1945). Đây là tác phẩm hay nhất của ông giữ vị trí vững chắc trong nền văn học Xô viết. Sau chiến tranh, Fadeev còn viết nhiều bài lý luận phê bình văn học có giá trị và một số tác phẩm khác. Do một căn bệnh kéo dài và trong một bối cảnh xã hội phức tạp sau Đại hội Đảng lần thứ XX, ông đã tự sát vào năm 1956, bỏ dở nhiều dự định tốt đẹp của mình. Tiểu thuyết “CHIẾN BẠI” (Р а з г р м) Nội chiến Nga 1918-1921 Cuộc chiến đấu của một đội quân du kích chống lại bọn can thiệp Nhật (bênh vực Nga hoàng) ở vùng Viễn Đông thời kỳ Nội chiến. Levinsơn chỉ huy đại đội du kích. Marozka xuất thân nông dân nghèo ít học, chiến đấu gan dạ và sống trung thực. Metsich vốn là học sinh trung học, đẹp trai con nhà giàu ở thành thị. Hai du kích đi trinh sát, gặp địch, Marozka bắn súng báo hiệu cho đồng đội, bị lộ và tử trận. Còn Metsich rời bỏ hàng ngũ về vùng tạm chiếm. Levinsơn bề ngoài yếu ớt, nhỏ nhắn nhưng thực sự là một người anh hùng vĩ đại – người cộng sản. Sức mạnh của anh là ở ý chí, một trí tuệ sáng suốt, tỉnh táo, gắn bó với đồng đội và nhân dân. .Phùng Hoài Ngọc biên soạn123
  30. Tiểu thuyết “ĐỘI CẬN VỆ THANH NIÊN” (1945) (М о л д а я г в а р д и я) Tác phẩm được viết dựa trên một câu chuyện có thật. Một tổ chức bí mật gồm các thanh niên Xô viết ở thành phố Krasnoda bắt đầu hoạt động từ 1942 trong thời kỳ phát xít Đức chiếm đóng. Hạt nhân lãnh đạo và linh hồn của đội cận vệ vốn là nhóm học sinh thanh thiếu niên trung học gồm: Alec Kosevoi, Liuba, Sevsova, Xecgey Tulenin, Nina, Gromova và Ivan Demunkov. Họ rải truyền đơn, phá trại giam, lật đổ các đoàn tàu chở vũ khí, ám sát lính Đức và tay sai Vừa hoạt động, họ vừa phát triển tổ chức từ 5 người cho tới gần một trăm đội viên cận vệ hoạt động ở trong và ngoài thành phố Ít lâu trước khi thành phố được giải phóng, bọn phát xít phát hiện ra tổ chức của Đội cận vệ, mở chiến dịch vây bắt và đem xử bắn. Chính phủ Liên xô đã tuyên dương anh hùng 5 đội viên trong Ban tham mưu. Chủ đề chính của tác phẩm là: chủ nghĩa yêu nước Xô viết và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của thế hệ trẻ Xô viết trong cuộc đấu tranh chống phát xít xâm lược, bảo vệ tổ quốc XHCN. Nhân vật chính là con người Xô viết trẻ tuổi với những ước mơ cao đẹp, hoài bão, quan hệ bạn bè trong sáng, đẹp đẽ, vô tư. Đối lập với họ là những tên phát xít tham lam, hèn hạ, ích kỷ. Cắn xé đồng đội nhưng bên ngoài vẫn vênh váo hợm hĩnh, tỏ ra thông minh đi khai hóa cho nước Nga. Năm nhân vật chính trong ban tham mưu đội cận vệ này là kết quả của chủ nghĩa xã hội. Họ sinh ra và lớn lên, được nuôi dưỡng và giáo dục trong lòng chế độ Xô viết. Những gương mặt hồn nhiên lạc quan, ước mơ thật cao đẹp. Những con người thông minh, dũng cảm, yêu thiết tha thành phố quê hương đang xây dựng chủ nghĩa xã hội. Họ sống trong tình bạn, tình đồng đội và tình yêu trong sáng, cao cả và vị tha. Đây là bước phát triển mới trong việc xây dựng nhân vật chính diện của nền văn học Xô viết. Một số đặc điểm nghệ thuật của “Đội cận vệ thanh niên” Dựa trên những tư liệu người thật, việc thật, tác giả đã đưa tác phẩm vượt qua khuôn khổ thể ký đến với truyện. Trong lần xuất bản đầu tiên, nhà văn bám sát các tư liệu sống mà không chú ý phần hư cấu nghệ thuật của tiểu thuyết. Ông mô tả cuộc chiến đấu của đội cận vệ là những hành động tự phát ngoài sự lãnh đạo của Đảng : Sự thật của đời sống có thể đúng như vậy, nhưng sự thật trong nghệ thuật có thể khác. Báo chí Xô viết hồi ấy đã phê phán rằng: cuộc chiến đấu trong một thành phố bị Đức chiếm đóng trong thời kỳ chiến tranh vệ quốc do Đảng cộng sản lãnh đạo mà lại không có mối liên hệ tinh thần (chưa nói đến mối liên hệ tổ chức cụ thể) với tổ chức Đảng cộng sản thì kể như tác phẩm thiếu sót, chưa đủ sức khái quát tư tưởng, nghệ thuật. Tác giả đã sửa lại bản thảo và cuốn tiểu thuyết chính thức lưu hành cho tới ngày nay. Hình tượng những người cộng sản mới được đưa vào tác phẩm như Liutikov, bí thư cơ sở Đảng bí mật ở thành phố, Protsenko phụ trách Đảng bộ khu. Một đặc điểm nghệ thuật khác: chất ký sự tiểu thuyết hòa với chất lãng mạn anh hùng ca khá nhuần nhuyễn. Giọng điệu người kể chuyện khi hùng tráng, khi êm ái dịu dàng mô tả các đội viên cận vệ; mỉa mai châm biếm khi miêu tả bọn phát xít. Người .Phùng Hoài Ngọc biên soạn124
  31. ta gọi phong cách tự sự của Fadeev trong tiểu thuyết này là tự sự – anh hùng – trữ tình. Với tư cách nhà lý luận phê bình văn học, A. Fadeev đã đóng góp tích cực vào việc xây dựng lý luận về chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Những bài viết của ông có các tác dụng hướng dẫn đối với các nhà văn trẻ vượt qua những bước chập chững ban đầu. A.Fadeev đã từng giữ trọng trách đứng đầu Hội nhà văn Liên xô trong nhiều năm, đóng góp lớn trong việc tập hợp đoàn kết những người cầm bút và mở rộng quan hệ ảnh hưởng của văn học Xô viết ra nước ngoài.  .Phùng Hoài Ngọc biên soạn125
  32. CHINGHIZ AITMATOV (ЧИНГИЗ АЙТМAТOB) Tác giả của những tác phẩm bi kịch tràn đầy sức sống Sinh năm 12.12.1928, quê hương ông là làng Sheker, vùng Talass của Kyrgyzia. Tuổi thơ ông rong ruổi trên những cánh đồng và thảo nguyên vùng Trung Á thơ mộng. Lớn lên Aitmatov đến sinh sống cùng gia đình tại Moskva. Nước Nga với những cánh rừng bạch dương hùng vĩ và những con người nhân hậu đã nuôi dưỡng tâm hồn Aitmatov, hun đúc nên những tác phẩm bất hủ của ông. Chính vì thế, những tác phẩm của Aitmatov đều thể hiện bằng hai thứ tiếng Kyrgyzia và Nga. Từ năm 1952, những tác phẩm đầu tiên của Chingiz Aitmatov lần lượt ra đời. Anh là con trai ông Turekula Aitmatov, khi đó là bí thư Trung ương Đảng nước cộng hòa Kirgizia, cậu bé Chinghiz đã sớm chịu cảnh côi cút. Năm 1934, ông Turekula Aitmatov bị quy là “kẻ thù dân tộc” và bị bắt. 4 năm sau, ông bị xử bắn. Chinghiz sống với mẹ, nguyên là nghệ sĩ trong một nhà hát và bắt đầu làm quen với tiếng Nga, văn học và văn hóa Nga. Cái chết của người cha đã đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách của Chinghiz. Nhà văn Khamid Ismailov, người Uzbek, nhận xét: “Rõ ràng điều đó đã trở thành cú hích khiến Aitmatov chỉ còn biết giao phó tình cảm của mình cho tờ giấy trắng, nơi ông có thể khiến mình tỏa sáng”. 6 năm sau cái chết của cha, Chinghiz phải đối mặt với một thách thức lớn. Đó là năm 1944, cuộc Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại bước vào giai đoạn ác liệt, tất cả đàn ông đều lên đường nhập ngũ. Chàng trai Chinghiz 16 tuổi khi đó được cử làm Thư ký Hội đồng Nông trang. Những khó khăn của thời bấy giờ, những rung động đầu đời được Chinghiz mô tả rất hay trong “Giamilia” - “thiên tình sử hay nhất thế gian” nói theo lời của nhà thơ cộng sản Pháp Louis Aragon. Chinghiz Aitmatov bắt đầu viết văn khi theo học Trường Đại học Nông nghiệp Frunze (nay là Bishkek). Đầu tiên chỉ là những đoản văn, tùy bút đăng ở các tờ báo địa phương. Nhưng điều đó không làm chàng trai hài lòng. Năm 1956, Aitmatov khăn gói lên Mátxcơva thi vào khóa viết văn cao cấp. Hai năm sau, ông trở nên nổi tiếng toàn Liên Xô với truyện vừa “Jiamilia” kể lại mối tình cảm động giữa một cô gái Kirgiz có chồng ngoài mặt trận nhưng lại đem lòng yêu một anh thương binh. Khả năng viết xuất sắc cả bằng tiếng Nga lẫn tiếng Kirgizia khiến Aitmatov vừa trung thành với những giá trị cội rễ của mình lại vừa gần gụi với đông đảo độc giả. Aitmatov viết chậm. Ông không chạy đua với thời gian. Sau khi “Giamilia” chinh phục độc giả trên toàn lãnh thổ của Liên bang Xôviết, ông cho ra đời những tác phẩm khác tiếp tục làm rung động lòng người như “Người thầy đầu tiên”, “Cây phong non trùm khăn đỏ”, “Chuyện núi đồi và thảo nguyên”, “Vĩnh biệt Gulsary”, “Con chó chạy dọc bờ biển”, “Đoạn đầu đài” Ông luôn đặt ra những câu hỏi muôn thuở về con người, tâm hồn, tình cảm, lương tâm của con người. Chính Aitmatov đã từng nói: “Lương tâm là tài sản vĩ đại, là di sản vĩ đại của dòng giống loài người, của nhận thức và tinh thần con người. Nhờ có lương tâm mà con người trở thành con người”. Trong một lần trả lời phỏng vấn, Aitmatov nói rằng tình yêu là nguồn sinh lực quan trọng nhất trong cuộc đời con người. Điều này được thể hiện rất rõ trong các tác phẩm của ông. Đọc Aitmatov ta thấy ở đó chứa chan tình yêu đối với con người- bộ .Phùng Hoài Ngọc biên soạn126
  33. phận cấu thành của thiên nhiên; còn thiên nhiên thì được nhân cách hóa, mang những đặc tính của con người. Một trong những đặc điểm nổi bật trong các sáng tác của Aitmatov là hình thái độc đáo của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo - sự kết hợp giữa thế giới thi ca của các truyền thuyết với thực tế hiện đại. Điều này được thể hiện rất rõ trong “Con tàu trắng”. Ravil Bukharev, nhà văn dân tộc Tatar, nhận xét: “Thế giới mà ông ở đó là thế giới thần thoại và văn học dân gian của những ngọn núi và vũ trụ Kirgizia. Thần thoại của ông là sự phản ánh thần thoại trong cuộc sống thường nhật. Chính vì lẽ đó mà ông là tài nghệ bậc thầy”. “Trong bất cứ tác phẩm nào mà ông viết, từ “Con tàu trắng” với hình tượng hươu mẹ, hay con lạc đà hoang từ ga xép bão tuyết trong “Một ngày dài hơn thế kỷ”, hay hình tượng phương bắc trong tác phẩm bất hủ “Con chó chạy trên bờ biển”, đều toát lên một cái nhìn nhất quán. Đó là sự tìm kiếm tiếng nói chung với toàn bộ loại người”- Ravil Bukaraev viết. Bên cạnh hoạt động văn chương, Chinghiz Aitmatov còn là nhà ngoại giao xuất sắc. Thời còn thể chế Liên Xô, ông là đại biểu Xôviết Tối cao khóa 7, là Đại sứ Liên Xô tại Pháp. Sau khi Liên Xô tan rã, ông làm Đại sứ Kirgizia tại Luxemburg, Hà Lan, Bỉ Sự nghiệp ngoại giao của nhà văn Aitmatov đã mang lại nhiều lợi ích cho Kirgizia. Thời Liên Xô, thế giới biết đến Aitmatov nhiều hơn là Kirgizia. Sau đó ông trở thành hiện thân cho “tấm hộ chiếu tinh thần” của đất nước và nhân dân Kirgizia. Ông viết: “Tôi luôn cảm thấy cuộc đời là tấn bi kịch. Với một kết cục tràn đầy sức sống”. Đến nay, những tác phẩm của nhà văn đã được tái bản tới 650 lần trên thế giới và được dịch sang 170 ngôn ngữ khác nhau với số lượng lên đến 60 triệu bản. Tiểu thuyết cuối cùng của nhà văn "Khi nào núi đổ (nàng dâu vĩnh viễn)" vừa được xuất bản tại Moskva năm 2006. Năm nay (2008) ở Kirgizia là "Năm Chingiz Aitmatov". Người Đức đã chuyển thể “Con tàu trắng” thành một vở ca kịch và thu được thành công lớn ở Bonn. Aitmatov rất hâm mộ nhà văn Mỹ Ernest Heminguay, vì vậy khi đạo diễn đề nghị ông đổi tên vở diễn “Con tàu trắng” thành “Cậu bé và biển cả” (ngụ ý theo cảm hứng Ông già và biển cả), ông đã đồng ý ngay. Mới đây, tại Thổ Nhĩ Kỳ, một ủy ban vận động đề cử Aitmatov làm ứng cử viên giải thưởng Nobel văn học được thành lập. Sáng kiến đề cử Aitmatov do Hội nghị Bộ trưởng các nước Thổ Nhĩ Kỳ, Azerbaijan, Kazakhstan, Uzbekistan, Kyrgyzstan, Turkmenistan, Altai, Tatarstan, Tuva đưa ra. Hội nghị khẳng định Aitmatov là nhà hoạt động văn học xuất sắc của cộng đồng Turkic. "Chingiz Aitmatov được coi như biểu tượng tinh thần và nhân phẩm của tất cả nhân dân Turkic trên toàn thế giới, còn toàn bộ cuộc đời nghệ thuật của ông có ý nghĩa quốc tế sâu rộng"- tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Abdull Gul tuyên bố. Chingiz Aitmatov đã từng giữ các chức vụ như Tổng biên tập tạp chí "Văn học nước ngoài", Thư ký Hội Nhà văn Liên Xô. Ông được phong danh hiệu nhà văn nhân dân của Kyrgystan, Anh hùng Lao động XHCN, được nhận giải thưởng Lênin, 3 lần đoạt giải thưởng Quốc gia Liên Xô, Đại biểu Xôviết tối cao Liên Xô, Ủy viên BCH T.Ư Đảng Cộng sản Kyrgyzia. 16 năm cuối đời, Aitmatov làm đại sứ của Kyrgyzia ở châu Âu. .Phùng Hoài Ngọc biên soạn127
  34. Bạn đọc Việt Nam mến yêu Chingiz Aitmatov nhà văn huyền thoại nước Nga qua những tác phẩm đã dịch sang tiếng Việt như:"Người thầy đầu tiên", "Núi đồi và thảo nguyên", "Jamilia", "Cây phong non trùm khăn đỏ", "Vĩnh biệt Gulsary", "Một ngày dài hơn thế kỷ", "Đoạn đầu đài" Đó là những thiên truyện đã làm ngây ngất những con tim luôn khát khao với cuộc sống mến yêu, với thiên nhiên thấm đẫm tình người. Chingiz Aitmatov thực sự là cây đại thụ trong nền văn học Nga Xô viết, một nhà văn chói ngời với những tư tưởng nhân văn. Giới thiệu 06 tác phẩm của Aitmatov Một ngày dài hơn thế kỷ, Jiamilia, Con tàu trắng, Vĩnh biệt Gulsary, Đoạn đầu đài Một ngày dài hơn thế kỷ Đó là chuyến đi của đời người, của số phận. Cao hơn nữa, đó là hành trình của văn hoá, từ truyền thống đến hiện đại. Người công nhân đường sắt già Yedigei suốt đời làm ăn chật vật, cuối đời trụ lại một ga xép nằm giữa thảo nguyên hoang vu khô cằn. Cái ga xép nơi gặp nhau các tuyến giao thông chính của đất nước lại có ý nghĩa biểu tượng lớn lao: nối liền Đông và Tây, thực hiện cuộc thống nhất cả thế giới. Tác giả triển khai hai tuyến truyện: 1.Những truyền thuyết về khu mộ cổ hiện nay nằm trong phạm vi xây dựng sân bay vũ trụ. 2. Truyện khoa học giả tưởng về hai phi công vũ trụ Nga và Mỹ tiếp xúc với người ngoài hành tinh Yedigei cố gắng hết sức để chôn cất bạn mình là Kazangav được yên nghỉ tại nghĩa trang truyền thống của làng trong lòng đất quê hương theo đúng phong tục tập quán, mặc cho con trai người quá cố và dân làng nhạo báng, nói rằng từ lâu họ đã chẳng còn tin vào truyền thống nữa. Chỉ đến khi biết được khu nghĩa trang của làng bây giờ nằm trong địa phân dành cho các hoạt động nghiên cứu vũ trụ của Liên Xô và sẽ phải dời chuyển, ông mới đành thôi. Hai mạch cốt truyện song hành của “Một ngày dài hơn thế kỷ” là để tác giả nêu lên sự căng thẳng giữa giá trị của tiến bộ khoa học kỹ thuật và tầm quan trọng của việc duy trì truyền thống và bản sắc. Một ngày dài hơn thế kỷ là các ngày đó, ngày Yedigei đưa Kazangap ra nghĩa trang, dọc đường ông hỏi trong cả cuộc đời mình và bạn mình đã sống với biết bao biến cố, bao điều đã thấy và đã nghĩ. Con người thiếu văn hoá tức là mất ký ức, là trở thành nô lệ cho kẻ khác, là thành sát nhân. Một người mẹ có đứa con bị quỷ thần bắt và lấy mất ký ức. Khi bà mẹ tìm được đứa con về thì nó chẳng còn nhớ gì bố mẹ, chẳng biết mình sinh ra ở đâu, và cuối cùng nó đã giết người mẹ vì nghe nói bà định làm hại nó. Tên người mẹ trong truyền thuyết đó được đặt cho cái nghĩa trang làng mà Yedigei muốn chôn cất bạn mình. Và từ tiểu thuyết, ''mankurt'' đã trở thành một danh từ chung chỉ loại người mất .Phùng Hoài Ngọc biên soạn128
  35. văn hoá, mất ký ức cội nguồn, bỏ cái của mình chạy theo các của người khác. Tóm lại, “mankurt'' là ''kẻ mất gốc''. Jiamilia Đó là chuyến đi của Tự do, của sự giải phóng. Cô gái Jiamilia (trong truyện cùng tên) ở một vùng núi Kyrgyzya đã nghe theo tiếng gọi của tình yêu đích thực mà không ngại ngần yêu và bỏ trốn khỏi làng cùng người lính giải ngũ Daniyar, bỏ lại phía sau mình làng quê cùng những lề thói cũ, bỏ lại người chồng đang ở mật trận chỉ biết coi vợ như một đồ vật tôn thờ chứ không phải người yêu. Người em chồng đã ủng hộ chị dâu việc ấy. Câu chuyện không chỉ là lời phê phán sự bất bình đẳng nam nữ trong các xã hôi truyền thống Phương Đông, nó còn là lời ngợi ca tình yêu, ngợi ca vẻ đẹp tinh thần con người dám sống và dám yêu. Nhà thơ Pháp Louis Aragon đọc truyện này xong đã không ngần ngại khen tặng ''đó là thiên tình sử hay nhất thế giới''. Những ước mơ rồi sẽ thành hiện thực khi con người biết mơ ước. Con tàu trắng Cậu bé mồ côi mơ trở thành cá để đi tìm lại người bố yêu quý mà cậu tin là đang đi trên con tàu trắng ở hồ lssyk-kul. Ước mơ vô vọng của cậu bé rơi vào cảnh sống vô nhân đạo, mông muội giữa con người với con người, con người với thiên nhiên. Vĩnh biệt Gonsarư Thông qua số phận của một con ngựa già, tác phẩm dựng lại một giai đoạn tập thể hóa nông nghiệp với những sai lầm sâu sắc ảnh hưởng đến tính cách, số phận bao nhiêu người. Đoạn đầu đài Nhà văn nhìn thấy con người đang đi đến “đoạn đầu đài” của họ trong sự suy thoái nhân phẩm, tự đầu độc bản thân bằng ma túy, tàn phá thiên nhiên, săn đuổi động vật Người đi “một ngày dài hơn thế kỷ” và dắt dẫn bao độc giả khắp thế giới đi cùng mình đó là nhà văn Chingiz Aitmatov, một người con của núi đồi và thảo nguyên nưóc Cộng hoà Trung Á Kyrgyzstan. Bằng nhưng trang văn thấm đầy nhân ái và văn hoá, ông đã mang xứ sở núi non của mình ra thế giới và góp cho văn học thế giới mọt khuôn măt độc đáo. Tâp truyện Núi đồi và thảo nguyên của ông được giải thưởng Lênin (1963) đã nhanh chóng khẳng định một tài năng văn chương đích thực. Năm 1964, tập truyện này đã được dịch và in ở Việt Nam. Nó đã được đón nhận hân hoan và cũng đã bị phê phán kịch liệt. Cũng dễ hiểu thôi, ỏ cái thời tính giai cấp còn được coi là cao hơn và mạnh hơn tính nhân loại, mặc dù ở Liên Xô tác phẩm này ra đời và được trao giải thưởng cao nhất là vào thời kỳ ''hửng ấm'', khi bắt đầu những nỗ lực (nhưng nhanh chóng thất bại) làm cho ''chủ nghĩa xã hội mang bộ mặt người''. Phải chờ thêm gần hai mươi năm nữa, trước cận kề đổi mới, các tác phẩm của Aitmatov mới ùa vào Việt Nam cùng tác phẩm của một số nhà văn tiêu biểu khác cuối thời Xô Viết, đem lại cho nhà văn và độc giả Việt Nam một luồng sinh khí mới trong cảm nhận, suy tư và sáng tạo. .Phùng Hoài Ngọc biên soạn129
  36. Thời ấy, đầu những năm 80 thế kỷ trưóc, Liên Xô và Việt Nam, người ta nói nhiều đến ba cuốn tlểu thuyết có tên bắt đầu bằng chữ “p” (tiếng Nga): Đám cháy (V. Rasputin), Thám tử buồn (V. Astaflev) và Đoạn đầu đài (C.Altmatov). Những cuốn sách phơi bày môt thực trạng xã hội lâu nay che kín và gióng lên tiếng chuông cảnh tỉnh con người trước nguy cơ ô nhiễm sinh thái tự nhiên và sinh thái văn hoá. Dễ hiểu với một tâm thức nhà văn như vậy nên khi nước Cộng hoà Kyrgyzstan tách ra độc lập Aitmatov đã không quản ngại đảm nhiệm các chức vụ đại sứ để giới thiệu đất nưóc mình với thế giới và tìm kiếm sự hoà hợp van hoá của nưóc mình với nhân loại. Nhưng trên hết và sau hết, ông vẫn là một nhà văn. Khi những ngọn núi sụp đổ Cuốn tiểu thuyết cuối cùng của ông Khi những ngọn núi sụp đổ (Cô dâu muôn đời) vẫn đi tiếp mạch viết Đoạn đầu đài nói về ý nghĩa cuộc sống trong thế giới hiện đại. Người thầy đầu tiên Đó là chuyến đi của sự hy sinh cho lợi ích con người. Người thầy đầu tiên là anh lính trẻ Duysen về làng đem dăm ba chữ biết được ở quân đôi dạy cho các trẻ nhỏ. Anh không chỉ dạy chữ mà còn đấu tranh vơi các hủ tục để bảo vệ nhân phẩm con người cho các em. Anh đã đưa ánh sáng văn minh chiếu rọi nơi tăm tối, và anh lặng lẻ nép mình trong bóng tối khi những học trò của mình trưởng thành bước ra vùng ánh sáng. Đức hy sinh cao cả thầm lăng. Và lòng biết ơn bị quên lãng đau đớn thấm thía. Và cũng lại từ thiên truyện cảm động đó, Người thầy đầu tiên trở thành câu cửa miệng người đời như một nhắc nhở, một tư vấn lương tâm. “Người thầy đầu tiên” là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của đại văn hào Aitmatov. Tác phẩm này đã được đưa vào giảng dạy ở nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Truyện này có hai người kể chuyện. Bà viện sĩ Antưnai (chủ nhiệm bộ môn Triết ở một trường Đại học Tổng hợp thủ đô), kể chuyện cho nhà văn trẻ Aitmatov trong vai một thanh niên đồng hương cũng là học trò của trường học Duysen, về “Người thầy đầu tiên” Duysen. Bà phó thác cho anh viết lại truyện như công bố lời tạ tội của bà sau bao năm lãng quên Duysen- người thầy đầu tiên, người xây ngôi trường đầu tiên, người xin cho bà đi lên thành phố học tập, mối tình đầu của mình Chẳng phải một mình bà lãng quên mà gần như cả cái làng Kurkureu vô tình này cũng vậy Vào ngày lễ mừng khánh thành một ngôi trường trung học khang trang lộng lẫy được xây dựng nơi đây, địa phương này chỉ mời những người nổi tiếng, thành đạt về dự lễ. Còn người thầy đầu tiên nay là một ông già cựu chiến binh Thế chiến II chân thọt, trình độ văn hóa thấp chỉ đủ làm nhân viên đưa thư của làng. Trong buổi lễ ông còn bị quan chức địa phương coi thường “cứ để ông lão đi đưa thư, giữ lại làm gì !” Còn bà viện sĩ thì “Ai cũng muốn bắt tay bà, mời bà ký tên vào cuốn sổ danh dự ” Khi nhận ra thầy Duysen nữ tiến sĩ Antưnai xấu hổ đỏ mặt nghe mọi người cười giễu ông, bà chỉ dám nhấp môi ly rượu. Bà không thể ngồi yên dự lễ được nữa Sau khi thăm lại hai cây phong mà hai thầy trò bà trồng ngay xưa nay đã lớn, bà chuẩn bị về ngay Moskva không lưu lại ba ngày như đã hứa Sau đây trích một đoạn cuối của thiên truyện đặc sắc, cảm động và quen thuộc trên thế giới trong thế kỷ 20. .Phùng Hoài Ngọc biên soạn130
  37. “Tuy có rất nhiều công việc quan trọng và khẩn cấp, tôi cũng đã quyết định gác hết lại và viết lá thư này cho anh Nếu anh thấy điều gì tôi viết đây đáng được chú ý thì tôi khẩn khoản xin anh nghĩ xem làm thế nào cho mọi người cùng biết câu chuyện tôi sẽ kể. Tôi nghĩ không phải chỉ riêng bà con trong làng mà nói chung mọi người, nhất là lứa tuổi trẻ, đều cần biết câu chuyện này. Tôi đã thấy rõ như vậy sau bao lần đắn đo cặn kẽ. Đó là lời xưng tội của tôi trước mọi người. Tôi cần phải làm tròn bổn phận của tôi. Càng nhiều người được biết thì lương tâm tôi càng đỡ cắn rứt. Anh đừng sợ làm cho tôi lâm vào tình trạng khó xử. Anh đừng giấu giếm gì hết ”. “Lớp thanh niên không biết rõ Đuysen trước kia là một người thầy như thế nào. Còn thế hệ cũ thì đã nhiều người không còn nữa. Không ít học trò cũ của Đuysen đã hi sinh trong chiến tranh, họ đã là những chiến sĩ Xô-viết chân chính. Lẽ ra tôi phải nói cho thanh niên hiểu rõ thầy Đuysen. Ai ở địa vị tôi đều có nhiệm vụ làm vậy. Nhưng tôi lại không về làng, tôi không hề biết gì về Đuysen và với thời gian, hình ảnh của thầy tôi đối với tôi đã dường như biến thành một thành tích vô giá, được giữ gìn trân trọng trong cõi tĩnh mịch của một viện bảo tàng. Tôi sẽ trở về gặp thầy tôi và sẽ chịu tôi trước thầy. Tôi sẽ xin người tha thứ. Tôi định khi nào đi Matxcơva về, sẽ đến Kurkurêu và đề nghị với dân làng đặt tên cho nhà trường kí túc mới là “Trường Đuysen”. Phải, trường phải mang tên người nhân viên nông trường giản dị ngày nay làm nghề đưa thư ấy. Tôi hi vọng rằng với tư cách là một người cùng quê, anh sẽ ủng hộ đề nghị của tôi. Tôi xin anh làm như vậy. Ở Matxcơva bây giờ đã hơn một giờ đêm. Tôi đứng trên bao lơn toà khách sạn, nhìn những ánh đèn lấp lánh toả rộng trên thủ đô và nghĩ đến lúc tôi sẽ trở về làng, tìm gặp Đuysen và hôn lên chòm râu bạc của thầy Tôi mở tung các cửa sổ. Một luồng gió mát lùa vào phòng. Trong ánh lê minh xanh nhạt đang sáng dần tôi nhìn kĩ những bản nghiên cứu phác thảo của bức tranh tôi vừa khởi công làm. Những bức vẽ ấy nhiều lắm. Tôi đã nhiều lần vẽ đi vẽ lại từ đầu. Nhưng bây giờ mà nói về toàn bộ bức tranh thì hãy còn sớm. Tôi vẫn chưa tìm ra cái chính Tôi đi đi lại lại trong cảnh tĩnh mịch của buổi lê minh và cứ suy nghĩ suy nghĩ mãi. Và lần nào cũng đều như thế. Lần nào tôi cũng lại thấy rõ ràng bức tranh của tôi chỉ mới là một ý đồ. Tuy vậy tôi vẫn muốn nói với các bạn về tác phẩm dở dang của tôi. Tôi muốn hỏi ý kiến các bạn. Chắc các bạn cũng đã đoán ra rằng bức tranh của tôi dành cho người thầy đầu tiên của làng chúng tôi, người cộng sản đầu tiên – ông già Đuysen. Nhưng tôi chưa hình dung được rõ liệu tôi có thể dùng thuốc vẽ mà thể hiện được cuộc sống phức tạp, đầy đấu tranh ấy, những nẻo đường đời và những tình cảm muôn màu muôn vẻ của con người ấy không. Làm sao cho khỏi sánh mất bát nước đầy: làm sao trao được đến tận tay các bạn, những người cùng thời đại với tôi? Làm thế nào cho ý đồ của tôi không phải chỉ thấu đến các bạn, mà còn trở thành một công trình sáng tạo chung của chúng ta? Tôi không thể không vẽ bức tranh này, nhưng sao tôi thấy băn khoăn, lo lắng quá! Có khi tôi tưởng chừng rồi sẽ chẳng ra gì hết. Và những lúc ấy tôi lại nghĩ: tại sao số phận lại trớ trêu đặt cây bút vẽ vào tay tôi làm gì? Thật là một cuộc sống khổ ải! .Phùng Hoài Ngọc biên soạn131
  38. Lại có khi tôi cảm thấy mình dũng mãnh đến nỗi dù có phải chuyển núi dời sông tôi cũng sẵn sàng. Và những khi ấy tôi nghĩ: hãy nhìn đi, hãy nghiên cứu, chọn lọc. Hãy vẽ hai cây phong của Đuysen và Antưnai, chính hai cây phong đã cho tuổi thơ của mày bấy nhiêu giây phút sướng vui, mặc dù mày không biết rõ sự tích của chúng. Hãy vẽ một đứa bé đi chân không, da rám nắng. Nó trèo lên cao, thật là cao và ngồi lên một cành phong, đôi mắt hân hoan nhìn vào cõi xa xăm kì ảo. Hay là vẽ bức tranh đề là “Người thầy đầu tiên”. Đó có thể là lúc Đuysen bế trẻ con qua con suối và cạnh đấy, trên những con ngựa no nê hung dữ, những con người đận độn, mũ da cáo đỏ đi qua đang chế giễu ông Nếu không, thì hãy vẽ người thầy giáo tiễn Antưnai lên tỉnh. Mày còn nhớ khi ông cất tiếng gọi Antưnai lần cuối cùng! Hãy vẽ một bức tranh như thế, sao cho bức tranh ấy giống như tiếng gọi của Đusyen mà đến nay Antưnai vẫn còn nghe vẳng lại, sẽ vang dội mãi trong lòng mỗi người. Tôi tự nhủ như vậy. Tôi tự nhủ điều này điều nọ khá nhiều, nhưng không phải bao giờ tôi cũng làm được Ngay giờ đây tôi cũng chưa biết bức tranh tôi vẽ sẽ ra sao. Nhưng có một điều tôi biết chắc: tôi sẽ tìm tòi”. (Trích từ tuyển tập Núi đồi và thảo nguyên - NXB Sự Thật, Hà Nội) Aitmatov suốt đời phấn đấu cho một chủ nghĩa nhân đạo trong trẻo, nguyên sơ, một chủ nghĩa nhân đạo xích con người lại gần nhau không phân biệt sắc tộc, tôn giáo, chính kiến ông buồn khi thấy trên các quảng trường bao đời nay chỉ dựng tượng những chiến binh. Còn những người lao động văn hoá, lao động hoà bình thì tượng họ ở đâu?. ''Cần phải khắc phục sự thiếu hụt này trưóc hết qua văn hoc nghệ thuật với nền tảng là chủ nghĩa nhân đạo'', ông nói. Để chống lại làn sóng văn hoá đại chúng đang dâng lên mạnh mẽ khắp thế giới, ông khuyên những người sáng tạo là hãy tạo ra những giá trị nghệ thuật độc đáo và hãy biết gìn giữ những giá trị đã có. Và ông tin văn hoá hòa bình sẽ đến thay thế văn hoá chiến tranh. Chingiz Aitmatov sinh năm 1929, sang năm ông tròn 80 tuổi. Năm nay, Chính phủ Kyrgyzstan đã tuyên bố là năm Chingiz Altmatov. Mới đây, ông cũng đã được khối nước nói tiếng Thổ đề cử giải Nobel văn chương. Nhưng tất cả những cái đó đã lùi lại phía sau ông. Tưỏng nhớ ông, hãy đọc lại văn ông để ngấm và ngẫm thêm nhiều điều bình thường và sâu sắc nữa. Tưởng nhớ ông, độc giả Việt Nam có lẽ cùng nói được như một tờ báo Nga là ''tưởng nhớ một nhà văn xuất sắc và một con người mà tên tuổi và sáng tác sẽ dài hơn một thế kỷ - đó là điều chắc chắn''. Aitmatov là nhà văn xông xáo vào những vấn đề có tính thời đại sâu sắc với văn phong hàm súc giàu chất thơ "Vĩnh biệt Gulsary ! Vĩnh biệt Chingiz Aitmatov » (♣) . ♣ ( ) Nhà văn qua đời ngày 10 tháng 6 năm 2008 tại một bệnh viện ở thành phố Nurenberg (CHLB Đức), nơi ông đã vào cấp cứu từ giữa tháng 5 vì bệnh thận. Nước Nga đau đớn nhận tin Aitmatov qua đời. Tổng thống mới của nước Nga D.Medvedev gửi lời chia buồn sâu sắc đến gia quyến của nhà văn. Chủ tịch Hội các nhà xuất bản Nga Mikhail Seslavinsky nêu rõ: "Trong những ngày cuối đời, Aitmatov luôn trăn trở rằng phải làm tất cả để giữ mối quan hệ nhân văn bền chặt giữa các nước cộng hòa trong không gian hậu Xôviết. Ông tham gia các cuộc hội thảo và luôn là người bạn thân thiết, gần gũi của đất nước chúng ta. Sự nghiệp sáng tác của ông là một phần không thể thiếu trong không gian văn học của đất nước chúng ta". Ngoại trưởng Pháp Bernar Kushner vô cùng thương tiếc nhà văn Kyrgyzia, ông cho rằng Aitmatov luôn sống mãi trong lòng những người hâm mộ như một nhà văn vĩ đại nhất của thế kỷ XX. Nhà hoạt động văn hóa xã hội Mikhail Veller khẳng định sự ra đi của Aitmatov đã để lại khoảng trống, mất đi một mắt xích quan trọng trong không gian văn hóa hậu Xôviết. Aitmatov được an táng bên cạnh mộ cha ông trong nghĩa trang Ata-Beyit, xứ Kyrgyzstan. .Phùng Hoài Ngọc biên soạn132
  39. SERGEI ESENIN (Сергей Есенин) 1895 - 1925 Nhà thơ của nỗi buồn Nga và tình yêu làng quê Nga (Esenin sinh ở làng Konstantinova, tỉnh Riazan, trong gia đình nông dân. Năm 1913, anh theo cha lên Moskva, làm việc trong xưởng in và học dự thính Trường Đại học Nhân dân Stanisnavski, Năm 1915 đi làm quen với nhà thơ A.Blok và một số nhà thơ khác. Văn nghệ sĩ thủ đô đón tiếp anh nồng nhiệt như vị sứ giả của làng thôn ruộng đồng Nga. Nhật kí của Blok viết: "Sáng nay một chàng trai Riazan mang thơ đến cho tôi đọc Những bài thơ tươi tắn, thanh khiết, ngôn ngữ nhiều lớp nhiều tầng". Nhờ Blok giới thiệu, thơ anh được đăng ở báo chí thủ đô . Năm 1916 thơ Esenin được xuất bản thành tập nhan đề "Lễ cầu hồn". Tập thơ hấp dẫn bởi những xúc cảm trước vẻ đẹp thiên nhiên Nga, về không khí lễ hội Cơ đốc giáo ở nước Nga - những nhân tố quan trọng tạo nên tâm hồn dân tộc Nga. Đây là thời gian trưởng thành và hoàn thiện tinh thần và tài năng của nhà thơ. Cuối Chiến tranh Thế Giới thứ I, nhà thơ đi lính Nga hoàng, Esenin đã cộng tác với các cơ quan xuất bản của Phái Xã Hội- Cách Mạng (SR : socialist –revolusioner), in ở đó các tập thơ Lễ biến hình, Sách thánh ca, Nữ tu sĩ . Nhà thơ nồng nhiệt chào đón cuộc Cách Mạng Tháng Mườì với hi vọng một "thiên đường nông dân" sẽ được xây dựng trên đất nước Nga (các tập thơ Người đánh trống trời, Ionhia . . . ) . Trong những năm 1919 đến 1923, sau khi trở lại Moskva, Esenin tham gia sáng lập nhóm nhà thơ theo chủ nghĩa hình tượng (imaginism). Thực tiễn đất nước Xôviết sau Nội chiến đã không giống như thiên đường ảo tưởng của nông dân gây cho nhà thơ nỗi thất vọng chán chường. Ông cùng vợ là vũ nữ Duncan người Mỹ đi nhiều nơi trong nước và ra nước ngoài (Đức Pháp Bỉ Italia Canada và Mĩ). Kết quả những chuyến đi là các tập thơ theo motif "thành phố sắt thép, nỗi sầu đồng ruộng" như tập thơ “Moskva quán rượu” 1921-1924, Nước Nga Xô viết 1925, Những âm điệu Ba Tư 1925, Ana Xeghina . . .là những xung đột bi kịch giữa niềm hân hoan về sự đổi thay Xô viết đang công nghiệp hóa với tiếc nuối, hoài vọng những phong tục tập quán nét đẹp cổ nước Nga nông thôn đang mai mộ. Esenin đạt tới đỉnh cao sáng tác . Sống trong thời kì phức tạp về chính trị-xã hội nước Liên Xô những năm Hai mươi, Esenin một con người nhạy cảm, ngất ngưởng sa vào khủng hoảng tinh thần trầm trọng. Ông tự sát tại Leningrad (Saint Petersburg ngày nay) ngày 27.12. 1925 khi 30 tuổi Toàn bộ sáng tác của ông là một tài sản tinh thần quý giá của văn học Nga, tinh thần Nga. Từ một ca sĩ say mê hát "nỗi sầu đồng ruộng nước Nga" đến cuối chặng đường thơ Esenin đã trở thành thi sĩ của Nước Nga Xô viết. Thơ ông thời kì đầu mang nhiều ảnh hưởng dân gian Nga thanh thoát trong trẻo, sau đó trở nên nặng nề trừu tượng khi chịu ảnh hưởng chủ nghĩa tượng trưng, đến hai năm cuối ông đã tìm lại được sự trong sáng giản dị hàm súc trong phong cách, hài hòa hình tượng Âm điệu thơ rất uyển chuyển, đầy sức ngân rung, tinh tế khi diễn tả nội tâm và thiên nhiên. .Phùng Hoài Ngọc biên soạn133