Tiêu dùng văn hóa – một lĩnh vực cần nghiên cứu trong vấn đề quản lý văn hoá Việt Nam hiện nay

pdf 12 trang hapham 1921
Bạn đang xem tài liệu "Tiêu dùng văn hóa – một lĩnh vực cần nghiên cứu trong vấn đề quản lý văn hoá Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdftieu_dung_van_hoa_mot_linh_vuc_can_nghien_cuu_trong_van_de_q.pdf

Nội dung text: Tiêu dùng văn hóa – một lĩnh vực cần nghiên cứu trong vấn đề quản lý văn hoá Việt Nam hiện nay

  1. Bài tham luận Hội thảo do Bộ văn hoá, Thể thao và Du lịch tổ chức tại ĐH Văn hoá TP. Hồ Chí Minh, ngày 21 tháng 05 năm 2013 “Mối quan hệ giữa kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế qua thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII” Tiêu dùng văn hóa – một lĩnh vực cần nghiên cứu trong vấn đề quản lý văn hoá Việt Nam hiện nay Tiến sỹ Nguyễn Tiến Mạnh Trường CĐMỹ Thuật Trang Trí Đồng Nai Tóm tắt Tiêu dùng văn hóa là một vấn đề nóng hiện nay mà Việt Nam đang phải đối mặt, hiện trạng nhu cầu văn hóa đang có những hạn chế mang tính “nút thắt” trong lĩnh vực tiêu dùng văn hóa của Việt Nam. Nghiên cứu nhu cầu và hành vi tiêu dùng văn hoá là vấn đề quan trọng trong nghiên cứu kinh tế văn hoá và ứng dụng vào hoạt động quản lý văn hoá và vấn đề phát triển. Khái niệm tiêu dùng văn hoá đã tồn tại ở phương Tây từ cuối những năm 50, đầu những năm 60 của thế kỷ XX và tồn tại ở Trung Quốc khoảng 30 năm. Trong bài tham luận này, người viết giới thiệu những vấn đề cơ bản của tiêu dùng văn hoá đặt trong mối quan hệ với những vấn đề cơ bản của kinh tế văn hoá, vấn đề phát triển; Các xu hướng chính của tiêu dùng văn hoá hiện nay trên Thế giới. Từ việc hiểu rõ những vấn đề chỉnh thể của tiêu dùng văn hoá và hiện trạng hoạt động nghiên cứu tiêu dùng văn hoá Việt Nam, đề xuất những nhiệm vụ tất yếu có tính xuyên suốt trong hoạt động nghiên cứu tiêu dùng văn hoá và quản lý văn hoá Việt Nam theo hướng chuyên nghiệp hoá. Các từ khoá: Nhu cầu, Tiêu dùng, Công nghiệp văn hoá Hoạt động kinh tế là hoạt động xã hội cơ bản nhất của con người, và nó biến vào trong đời sống văn hóa xã hội và thể hiện, phản ánh những đặc điểm, tính chất lịch sử, văn hoá khác nhau của mỗi quốc gia, dân tộc. Mỗi dân tộc khác nhau trên thế giới có những phương thức sáng tạo văn hoá khác nhau. Các nền văn hóa khác nhau ảnh hưởng đến các nhóm dân tộc khác nhau. Các hình thức kinh tế khác nhau sẽ có những cách khác nhau để tạo ra những nền văn hóa khác nhau. Các nền văn hóa khác nhau tạo ra các hình thức kinh tế khác nhau. Trong hội thảo này, nội dung trọng điểm mà tôi muốn được thảo luận chỉ là một công đoạn trong toàn bộ chuỗi hoạt động kinh tế: tiêu dùng. Hoạt động kinh tế nói chung đều biểu hiện qui mô tái sản xuất xã hội với chuỗi hoạt động mang tính qui trình, bao gồm 4 khâu: Sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Trong lĩnh vực kinh 1 Tiến sỹ Nguyễn Tiến Mạnh
  2. Bài tham luận Hội thảo do Bộ văn hoá, Thể thao và Du lịch tổ chức tại ĐH Văn hoá TP. Hồ Chí Minh, ngày 21 tháng 05 năm 2013 “Mối quan hệ giữa kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế qua thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII” tế văn hoá cũng vậy, qui mô ấy là một vòng liên kết thúc đẩy sự tái sản xuất hàng hoá văn hoá và sáng tạo văn hoá. 1. Kinh tế văn hoá 1.1. Khái niệm Kinh tế văn hóa là một hiện tượng, hình thái quan trọng trong sự phát triển xã hội của nhân loại. Kinh tế văn hóa đang ngày càng nổi lên như một hiện tượng để trở thành một lĩnh vực mới của khoa học và trở thành đối tượng nghiên cứu quan trọng của văn hóa và kinh tế. Khoa học kinh tế văn hóa có nội dung chủ yếu bao gồm: hệ thống của kinh tế và văn hóa, cung cầu và nhu cầu văn hóa, giá cả và thương phẩm văn hóa, sản xuất văn hóa và các vấn đề trao đổi, tiêu dùng, thị trường, đầu tư, chiến lược phát triển văn hóa và vấn đề quản lý kinh tế văn hóa Thông qua hoạt động nghiên cứu những qui luật vận động cơ bản của kinh tế văn hóa sẽ cho thấy vai trò và tầm quan trọng của kinh tế văn hóa đối với sự tiến bộ, phát triển trong xã hội hiện đại, sự phong phú giữa mối quan hệ của hệ thống lý luận văn hóa, kinh tế và hệ thống chính sách xã hội. 1.2. Lịch sử hình thành và các hình thái vận động của kinh tế văn hoá 1.2.1. Lịch sử hình thành Hoạt động nghiên cứu kinh tế văn hóa được bắt đầu từ những lĩnh vực của xã hội học văn hóa, xã hội học nghệ thuật và lĩnh vực kinh tế phi sản xuất1. Năm 1847, tác giả Mikhail người Bỉ đã đưa ra mệnh đề “xã hội học nghệ thuật”. Sau đó, nhiều nhà triết học, kinh tế học, xã hội học, lịch sử văn hóa từ những góc độ khác nhau đã xem xét về quan hệ giữa xã hội, văn học, nghệ thuật và kinh tế. Plekhanov (1856 – 1918), người Nga đã viết cuốn sách “Luận về Nghệ thuật – bức thư không có địa chỉ" (On the Art - did not address the letter). Tác giả là người đầu tiên đã nghiên cứu bản chất của văn học nghệ thuật trong các cơ cấu kinh tế xã hội, tiến hành khảo sát về nguồn gốc của kinh tế trong văn hoá, đề xuất một loạt những lý thuyết nghiên cứu về kinh tế văn hóa. Học giả Đức Fremont đã công bố cuốn “kinh tế học văn hoá” (The study of cultural Economy), liên hệ về phương thức sản xuất, chế tác ra sản phẩm nghệ thuật. 1 Lĩnh vực kinh tế phi sản xuất (kinh tế sản xuất phi vật chất): Phi sản xuất là một bộ môn của kinh tế học, nghiên cứu về quan hệ kinh tế trong lĩnh vực sản xuất phi vật chất và qui luật kinh tế. Hệ thống khoa học bao gồm: Kinh tế dịch vụ, Y tế, Giáo dục, Thư viện 2 Tiến sỹ Nguyễn Tiến Mạnh
  3. Bài tham luận Hội thảo do Bộ văn hoá, Thể thao và Du lịch tổ chức tại ĐH Văn hoá TP. Hồ Chí Minh, ngày 21 tháng 05 năm 2013 “Mối quan hệ giữa kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế qua thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII” Kinh tế văn hoá là khái niệm chỉ một lĩnh vực kinh tế được xác định có khả năng làm thoả mãn nhu cầu tiêu khiển của con người và ở lĩnh vực kinh tế đó có sự gia tăng giá trị văn hoá cho kinh tế vật chất. Kinh tế văn hoá là một vấn đề rất rộng của lĩnh vực kinh tế. Kusakabe Kimihito, học giả người Nhật Bản là tác giả của cuốn sách " Lý thuyết công nghiệp văn hoá” (Culture industry theory) đã chỉ ra chỉ ra: “Nền kinh tế văn hóa và thương mại trong thế kỷ 21 sẽ được chia thành hai phần,” (Economics of the 21st century culture and commerce will be divided into two parts,) “Văn hóa sẽ trở thành một hình ảnh mới trong tiến trình kinh tế" (culture will become a new image of economic progress.) Ông chia công nghiệp văn hoá ra làm 3 loại: Hình thức sản xuất và kinh doanh sản phẩm văn hoá xuất hiện tương đối độc lập. Ví dụ như các sản phẩm sách, báo, tượng. phim, ảnh Hình thức lao động dịch vụ văn hoá, ví dụ như lao động diễn xuất trong múa, kịch, thể thao, giải trí, kế hoạch chiến lược, kinh doanh Hình thức cung cấp gia tăng giá trị văn hoá trong sản phẩm và ngành công nghiệp như: trang trí, thiết kế hình ảnh, du lịch văn hoá 1.2.2. Các hình thái vận động của kinh tế văn hoá 1. Hình thái vật chất 2. Hình thái phi vật chất 3. Hình thái biểu hiện 4. Hình thái biểu tượng (symbol) 5. Hình thái máy móc sao chép 6. Hình thái thông tin kỹ thuật số 1.2.3. Điều kiện lịch sử và cơ sở hình thành công nghiệp văn hoá hiện đại Đô thị và sự hình thành văn hoá đô thị, sự tồn tại không gian công nghiệp văn hoá đã bồi dưỡng môi trường sinh thái văn hoá. Mỗi đô thị là một mẫu “cá tính” văn hoá đô thị, mỗi đô thị là một mẫu sinh thái công nghiệp văn hoá. 7 thành phố mệnh danh trung tâm mang đậm tính sáng tạo của Thế giới: New York (Mỹ), Berlin (Đức), Milan (Italy), London (Anh), Amsterdam (Hà Lan), Barcelona (Tây Ban Nha), Buenos Aires (Argentina). Năm 2004 tổ chức văn hoá giáo dục Liên hiệp quốc đưa ra 7 tiêu chí để công nhận danh hiệu Thành phố sáng tạo: Văn chương, Điện ảnh, Âm nhạc, Thiết 3 Tiến sỹ Nguyễn Tiến Mạnh
  4. Bài tham luận Hội thảo do Bộ văn hoá, Thể thao và Du lịch tổ chức tại ĐH Văn hoá TP. Hồ Chí Minh, ngày 21 tháng 05 năm 2013 “Mối quan hệ giữa kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế qua thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII” kế, Nghệ thuật truyền thông, Nghệ thuật dân gian, Nghệ thuật ẩm thực. Và tổ chức UNESCO đã công nhận 16 thành phố. (xem phụ lục) Cư dân độ thị được chia thành những tầng, cấp trên cơ sở qui mô nhu cầu tiêu dùng văn hoá, qui mô nhu cầu tiêu dùng văn hoá đã sản sinh ra qui mô “quần thể” thị trường tiêu dùng. Cách mạng hình thái sức sản xuất xã hội 1.2.4. Các giai đoạn phát triển công nghiệp văn hoá Thời kỳ xã hội nông nghiệp Thời kỳ xã hội công nghiệp Thời kỳ xã hội hậu công nghiệp 2. Tiêu dùng văn hóa 2.1. Khái niệm Tiêu dùng văn hóa là một khái niệm chỉ một loại tiêu dùng mà ở đó, thông qua việc dùng các sản phẩm văn hoá hoặc hoặc dịch vụ văn hoá mà nhu cầu tinh thần của con người được thoả mãn, đáp ứng. Hoạt động tiêu dùng văn hoá thể hiện trong một số lĩnh vực chính như: du lịch, thể dục thể thao, văn hoá, nghệ thuật giải trí, giáo dục, Trong nền kinh tế tri thức, nội hàm của khái niệm tiêu dùng văn hoá còn được mang thêm những nét đặc trưng mới như: tính trào lưu, phổ biến, tính khoa học kỹ thuật công nghệ cao, tính đại chúng hoá, tính toàn cầu hoá Tiêu dùng văn hoá là một khái niệm có nội dung rất rộng. Tiêu dùng văn hoá không chỉ nói đến vấn đề tiêu dùng sản phẩm tinh thần, lý luận tiêu dùng và các vấn đề khác của tiêu dùng sản phẩm văn hoá mà còn bao gồm công cụ phương tiện tiêu dùng văn hoá và phương thức tiêu dùng văn hoá. Ví dụ trong tiêu dùng trực tiếp sản phẩm văn hoá như: tiêu dùng các chương trình truyền hình, phim ảnh, phần mềm trò chơi điện tử, sách báo, tạp chí và cũng bao gồm các loại sản phẩm phương tiện phục vụ tiêu dùng sản phẩm văn hoá liên quan cần có như: TV, máy ảnh, đầu đĩa, máy tính và hàng loạt hệ thống cơ sở thiết chế văn hoá như: thư viện, nhà triển lãm trưng bày, nhà hát, rạp chiếu phim Tiêu dùng văn hóa là một khái niệm chỉ về các loại sản phẩm văn hoá tinh thần và dịch vụ văn hóa tinh thần được người tiêu dùng đánh giá cao, được sở hữu, được tiêu dùng, thưởng thức và được sử dụng. Tiêu dùng văn hóa dựa vào vấn đề tiêu thụ vật chất làm chỗ dựa và tiền đề. Sự tăng trưởng về nhu cầu tiêu dùng văn hoá trong xã hội luôn luôn phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Do vậy mà 4 Tiến sỹ Nguyễn Tiến Mạnh
  5. Bài tham luận Hội thảo do Bộ văn hoá, Thể thao và Du lịch tổ chức tại ĐH Văn hoá TP. Hồ Chí Minh, ngày 21 tháng 05 năm 2013 “Mối quan hệ giữa kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế qua thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII” mức độ tiêu dùng văn hóa có thể được trực tiếp hơn, nổi bật hơn phản ánh mức độ của nền văn minh vật chất và văn minh tinh thần trong xã hội hiện đại. Trong khái niệm “tiêu dùng văn hoá” này không phải chỉ nói đến sự tiêu thụ sản phẩm văn hoá theo nghĩa thông thường hoặc chỉ nói đến một dạng tiêu thụ nào đó được biểu thị qua đồ vật văn hoá. Và văn hoá không chỉ là những vấn đề đặt ra trong văn bản hay trong những đề tài nghiên cứu mà là một quá trình hình thành và sáng tạo không ngừng. Theo lý thuyết kinh điển của các nhà xã hội học thì trình độ, năng lực của con người trong vấn đề tiêu dùng văn hoá có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau và thể hiện trong một số nét trong quan điểm này như: tiêu dùng văn hoá là biểu hiện hành vi xã hội, luôn luôn chịu sự ảnh hưởng bởi bối cảnh xã hội và quan hệ xã hội, con người trong thực tiễn vừa là đối tượng tiêu dùng văn hoá vừa là chủ thể sáng tạo văn hoá. Trong quá trình tiêu dùng văn hoá, con người tiến hành tiêu dùng văn hoá ở dạng cá thể cụ thể chứ không phải là cá thể đơn nhất trừu tượng. Sở dĩ có hiện tượng này là do mỗi con người có những nền tảng, trình độ văn hoá khác nhau, kinh nghiệm tiêu dùng và năng lực hiểu biết khác nhau. Như Max Weber2 đã từng nói: "Mọi người đều có thể nhìn thấy tất cả mọi điều trong trái tim của mình. " Bởi vì tiêu dùng văn hóa tuyệt nhiên không có nghĩa là sự kết thúc quá trình sáng tạo văn hoá mà thực ra mới chỉ là sự bắt đầu. Từ góc độ này có thể hiểu, văn hóa không phải là sản phẩm được tạo ra một cách hoàn hảo ngay từ lần sáng tạo đầu tiên, sau đó được con người “tiêu dùng”. Văn hoá là một dạng sáng tạo của con người trong quá trình hoạt động thực tiễn. Và tiêu dùng cũng là một dạng hoạt động trong thực tiễn đó cho nên hoạt động tiêu dùng văn hoá của con người cũng chính là hoạt động sáng tạo văn hoá. 2.2. Lịch sử và sự phát triển của tiêu dùng văn hoá 2.2.1. Lịch sử ra đời của tiêu dùng văn hoá Lịch sử của tiêu thụ văn hóa có thể được xem là bắt đầu vào cuối những năm 1950 và đầu những năm 1960 ở phương Tây. Trong thời gian này, châu Âu và Mỹ bắt đầu xuất hiện hiện tượng đại chúng người lao động đủ giàu có, có năng lực tiến hành tiêu dùng và không chỉ quan tâm đến “nhu cầu” mà còn là những niềm “ước vọng” - TV, tủ lạnh, xe hơi, máy hút bụi, kỳ nghỉ ở nước ngoài, đã dần trở thành những mặt hàng tiêu dùng thông thường. Ngoài ra, người lao động đại chúng trong giai đoạn này bắt đầu sử dụng mô hình tiêu dùng văn hóa trong sự biểu hiện kết nối với bản sắc văn 2 Nhà Kinh tế chính trị và xã hội học Đức, ông được công nhận là một trong những người quan trọng nhất, sáng lập nền xã hội học hiện đại và hành chính công. 5 Tiến sỹ Nguyễn Tiến Mạnh
  6. Bài tham luận Hội thảo do Bộ văn hoá, Thể thao và Du lịch tổ chức tại ĐH Văn hoá TP. Hồ Chí Minh, ngày 21 tháng 05 năm 2013 “Mối quan hệ giữa kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế qua thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII” hoá của họ. Chính trong thời gian này, khái niệm "tiêu dùng văn hóa" bắt đầu trở thành một vấn đề mới đặt ra cho hoạt động nghiên cứu và thảo luận về văn hóa. 2.2.2. Sự phát triển của tiêu dùng văn hoá Công nghiệp phát triển, tập trung vào sự phát triển thị trường. Thị trường phát triển tập trung vào sự phát triển theo nhu cầu trên thị trường. Nhu cầu sản phẩm văn hóa trong thời đại tiêu dùng có mức độ rất lớn là nhu cầu mang tính biểu tượng, tín hiệu, nhu cầu sản phẩm thương hiệu. Thế kỷ 21 là thế kỷ của những thương hiệu nổi tiếng. Hầu hết các sản phẩm được đánh dấu bằng những nét cá tính riêng biệt và giá trị của thương hiệu, giá trị vật chất và giá trị tinh thần cùng phổ biến đã trở thành sự phổ biến tiêu dùng, phổ biến nét sinh hoạt mới. Đó chính là hiện tượng văn hoá trong tiêu dùng. Nhân loại có nhiều xã hội, bao gồm cả xã hội Việt Nam, lấy thái độ tiêu dùng lại xem xét, đa số có thể phân thành 3 giai đoạn: Giai đoạn 1: Từ các khoản tiết kiệm nghiêm ngặt để bắt đầu thời kỳ tiêu dùng. Thời kỳ đầu, con người thiếu thốn vật chất, nhiều nền kinh tế xã hội đã sớm khuyến khích sự chặt chẽ trong tiêu dùng như một nét phẩm chất đẹp. Coi như vì sự sinh tồn người tiêu dùng phải tiêu dùng, nhưng không khuyến khích vì niềm vui, niềm hạnh phúc mà tiêu dùng. Một số môi trường xã tố xã hội vẫn còn bị ảnh hưởng bởi một số học thuyết tôn giáo mà đã có những biểu hiện loại trừ những yếu tố giải trí trong hoạt tiêu dùng. Và thậm chí còn coi tính giải trí trong tiêu dùng như một biểu hiện vi phạm đạo đức. Ví dụ, Max Weber đã mô tả thì đạo Tin lành trong giai đoạn này còn phản đối cả sự ham muốn vật chất. cho đến những năm đầu của thế kỷ XX, xã hội Mỹ và Tây Âu bắt đầu bước vào thời kỳ đại công nghiệp, với mức thu nhập mọi người có thể sống thoải mái hơn, nhận thức về tiêu dùng cũng bắt đầu có sự thay đổi. Từ những sự thay đổi đó mà thời kỳ tiêu dùng đại chúng đã bắt đầu. Giai đoạn 2: Từ sự tiêu dùng đơn điệu (tiêu dùng vật chất thông thường) đến việc tiêu dùng niềm vui. Thời kỳ đầu, đa số tiêu dùng đều chưa thóat khỏi sự đơn điệu. Sự đơn điệu trong tiêu dùng chính là việc người tiêu dùng chỉ quan tâm đến tính hữu dụng của một sản phẩm nào đó, dạng thức sản phẩm có tính đơn nhất, trong tiêu dùng sản phẩm. Sau này, kinh tế phát triển lên một bước nữa, xã hội không còn chỉ quan tâm ở những sản phẩm gia dụng mà còn ngày càng kỳ vọng đạt được những sự thoả mãn về nhu cầu tinh thần trong tiêu dùng sản phẩm. Chính vì vậy, thế giới sản phẩm sau này có tính tình cảm, nhân tính, cảm xúc hơn. 6 Tiến sỹ Nguyễn Tiến Mạnh
  7. Bài tham luận Hội thảo do Bộ văn hoá, Thể thao và Du lịch tổ chức tại ĐH Văn hoá TP. Hồ Chí Minh, ngày 21 tháng 05 năm 2013 “Mối quan hệ giữa kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế qua thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII” Giai đoạn 3: Từ những niềm vui trong tiêu dùng đến tiêu dùng văn hóa. Nếu chỉ nhìn vào “nhân tính”, “niềm vui” trong sản phẩm thì vẫn chưa đủ để giải thích về sự gia tăng về góc độ văn hoá trong chỉnh thể kinh tế. Vai trò quan trọng của văn hoá trong đời sống con người không chỉ là nhu cầu thể hiện trong cái vốn có của sản phẩm công nghiệp, gia tăng công năng niềm vui mà quan trọng hơn nữa là việc theo đuổi sự hoàn thiện cá nhân thông qua hoạt động tiêu dùng. Con người có rất nhiều thứ, và con người không chỉ có và vừa ý với những thứ mà mình có mà con người còn muốn thông qua thế giới vật chất để thể hiện “phong cách sống” của chính mình. Và phía sau của “phong cách sống” ấy càng bộc lộ rõ ra tính quan trọng của “giá trị”. Nói một cách đơn giản, con người trong xã hội đương đại đang không ngừng tự do gia tăng vận dụng, sử dụng thời gian một cách hiệu quả, nên việc tiêu dùng không chỉ là việc tiêu dùng vật chất. Con người tham dự vào rất nhiều hoạt động. Trong quá trình tham dự ấy, con người “tiêu dùng vật chất” và “tiêu dùng tinh thần” và đồng thời cũng đã thực hiện “tiêu dùng vật chất”. Trong quá trình tham dự này, bản sắc văn hoá, giá trị văn hoá là nguyên nhân chính thúc đẩy mọi người tham dự. Trong quá trình này, con người đều thường có tính thụ động, thụ động vận động. Nhưng đúng hơn có thể nói là “tư duy văn hoá”, “chọn lựa giá trị” tương đương với những mong muốn được thể hiện cá nhân của mỗi người. Đến lúc này, chúng ta mới có thể công bố rằng: Thời đại công nghiệp văn hoá đã đến, thời đại tiêu dùng văn hoá bắt đầu. 2.3. Đặc điểm của tiêu dùng văn hoá 2.3.1. Tính tinh thần trong nội dung tiêu dùng văn hoá Tiêu dùng là quá trình con người dùng, thưởng thức, tiêu thụ một loại dịch vụ hay sản phẩm vật chất nào đó nhằm thoả mãn nhu cầu, thông thường, cá thể tiêu dùng đều có tính hữu hình. Tiêu dùng văn hoá là chỉ hoạt động tiêu dùng dịch vụ và sản phẩm văn hoá. Sản phẩm văn hoá là chỉ sản phẩm có sự gia cố thêm giá trị văn hoá trong sản phẩm. Tiêu dùng văn hoá mặc dù là tiêu dùng tinh thần nhưng đều phải thông qua hình thức vật chất mang ý nghĩa chứa đựng, lưu giữ, chuyển tải như Báo chí, Internet, Truyền hình nhưng nội dung tiêu dùng thì đều là vô hình. Thông qua những phương tiện có tính vật chất này, con người đạt được mục đích về nội dung mang tính tinh thần. 2.3.2. Tính tầng bậc trong năng lực tiêu dùng văn hoá Tính tầng bậc trong năng lực tiêu dùng là chỉ tính không đồng nhất trong năng lực, trình độ của các cá thể người tiêu dùng. Năng lực tiêu dùng vật chất và năng lực 7 Tiến sỹ Nguyễn Tiến Mạnh
  8. Bài tham luận Hội thảo do Bộ văn hoá, Thể thao và Du lịch tổ chức tại ĐH Văn hoá TP. Hồ Chí Minh, ngày 21 tháng 05 năm 2013 “Mối quan hệ giữa kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế qua thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII” tiêu dùng văn hoá đều thuộc về năng lực tiêu dùng nhưng hai loại năng lực này có những điểm khác biệt với nhau. - Năng lực tiêu dùng vật chất: Khai thác và sử dụng công năng - Năng lực tiêu dùng văn hoá: Hiểu, Cảm nhận, Giải thích, phân tích 2.3.3. Tính gia hạn trong thời gian tiêu dùng văn hoá Trong hoạt động tiêu dùng, việc xác định hiệu xuất tiêu dùng của tiêu dùng vật chất và tiêu dùng văn hoá hoàn toàn không giống nhau. Đối với tiêu dùng vật chất, thời gian tiêu dùng ngày càng ít đi còn hiệu xuất tiêu dùng ngày càng cao. Đối với tiêu dùng văn hoá có tính ngược lại, thời gian tiêu dùng càng dài thì hiệu xuất tiêu dùng càng cao, gia hạn thời gian tiêu dùng thì có thể nâng cao hiệu xuất tiêu dùng văn hoá. 2.3.4. Tính thẩm thấu trong tiêu dùng văn hoá Tiêu dùng vật chất thuộc về quá trình tiêu dùng “hữu hình”, tiêu dùng văn hoá thuộc về quá trình tiêu dùng “vô hình”, Vai trò của hai loại tiêu dùng này hoàn toàn không giống nhau. Tiêu dùng vật chất làm thoả mãn con người về nhu cầu sinh lý, tiêu dùng văn hoá làm thoả con người về nhu cầu tinh thần, nâng cao vai trò tinh thần của con người, có thể có những khuôn mẫu về niềm tin, tình cảm, linh hồn của con người trong xã hội. 2.3.5. Tính xúc tiến văn minh xã hội của tiêu dùng văn hoá - Tiêu dùng văn hoá thể hiện mức độ kiến thiết của văn minh tinh thần xã hội, là tiêu chí xem xét hiện trạng phát triển xã hội và sự tiến bộ phát triển xã hội của nhân loại. - Thông qua truyền thông, giá trị sản phẩm được nâng cao; thông qua ý nghĩa, hình tượng thẩm mỹ tiếp thống văn hoá được nối truyền và phát huy những giá trị trong di sản văn hoá. 2.4. Vai trò của tiêu dùng văn hoá Sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu thụ là một vòng liên kết thúc đẩy sự tái sản xuất hàng hoá văn hoá. Thực hiện nhiệm vụ cung và cầu, nhiệm vụ giá trị văn hoá xã hội Sản phẩm văn hoá trong quá trình sáng tạo, tạo ra năng lực sáng tạo văn hoá và năng lực thưởng thức nghệ thuật của người tiêu dùng văn hoá. Tiêu dùng văn hoá thúc đẩy hoạt động tái sản xuất của con người. 2.5. Cơ cấu tiêu dùng văn hoá 2.5.1. Khái niệm 8 Tiến sỹ Nguyễn Tiến Mạnh
  9. Bài tham luận Hội thảo do Bộ văn hoá, Thể thao và Du lịch tổ chức tại ĐH Văn hoá TP. Hồ Chí Minh, ngày 21 tháng 05 năm 2013 “Mối quan hệ giữa kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế qua thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII” Cơ cấu tiêu dùng văn hoá là chỉ mối quan hệ về tỷ lệ của các loại hình dịch vụ văn hoá và sản phẩm văn hoá khác nhau mà con người sử dụng và thưởng thức trong hoạt động tiêu dùng văn hoá. 2.5.2. Phân loại cơ cấu tiêu dùng văn hoá Căn cứ vào hình thái biểu hiện của sản phẩm văn hoá: Tiêu dùng sản phẩm văn hoá và tiêu dùng dịch vụ văn hoá. Căn cứ vào thuộc tính kinh tế của sản phẩm văn hoá: Tiêu dùng văn hoá tính sản phẩm và tiêu dùng văn hoá tính phi sản phẩm. Căn cứ tính chất tiêu dùng văn hoá: Dạng tiêu dùng văn hoá giáo dục và dạng tiêu dùng văn hoá giải trí 2.6. Mức độ tiêu dùng văn hoá 2.6.1. Những quan niệm Mức độ tiêu dùng Từ quan điểm vĩ mô, đề cập đến mức độ tận hưởng một mức sống trung bình của người dân của một quốc gia trong một thời gian nhất định. Số lượng thời gian và chất lượng sản phẩm (dịch vụ) tiêu thụ, hoặc tất cả nhu cầu vật chất và văn hóa được đáp ứng cho người tiêu dùng được tính trên GDP đầu người. Từ quan điểm vi mô xem, có nghĩa là số lượng và chất lượng của người tiêu dùng và gia đình của họ với mục tiêu cụ thể trong một thời gian nhất định, hoặc người tiêu dùng, một gia đình trong một khoảng thời gian tiêu thụ cần thiết để có được mức độ đáp ứng nhu cầu thoả mãn. Mức độ tiêu dùng cũng bao gồm chất lượng dịch vụ và chất lượng sản phẩm tiêu dùng. Mức độ tiêu dùng của một quốc gia phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mức thu nhập, mức độ phát triển của thị trường hàng tiêu dùng, chính sách tiêu dùng của Chính phủ. 2.6.2. Khái niệm Mức độ tiêu dùng văn hoá là việc xem xét chất lượng và số lượng của dịch vụ và sản phẩm văn hoá được tiêu dùng trong thực tế bình quân nhân khẩu tại một điểm thời gian xác định. Tổng số phí tiêu dùng văn hoá. Tổng số nhân khẩu tham gia vào tiêu dùng văn hoá. Cơ cấu tiêu dùng văn hoá: các loại sản phẩm văn hoá và dịch vụ văn hoá. 9 Tiến sỹ Nguyễn Tiến Mạnh
  10. Bài tham luận Hội thảo do Bộ văn hoá, Thể thao và Du lịch tổ chức tại ĐH Văn hoá TP. Hồ Chí Minh, ngày 21 tháng 05 năm 2013 “Mối quan hệ giữa kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế qua thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII” 2.7. Các xu hướng tiêu dùng văn hoá 2.7.1. Bối cảnh Công nghệ số phát triển Các phương tiện truyền thông đã bị ảnh hưởng bởi sự phát triển và thay đổi công nghệ. Vấn đề số hóa đã khiến ranh giới giữa các thị trường sản phẩm truyền thông truyền thống ngày càng trở nên mờ nhạt. Việc ứng dụng rộng rãi các phương tiện công nghệ kỹ thuật số đã ảnh hưởng đến phương thức sản xuất, truyền tải và tiêu dùng văn hoá: - Có sự hỗ trợ của số hoá, nội dung truyền thông đã thông qua hệ thống mạng mà được chuyển tải. Hệ thống mạng là nền tảng cho hoạt động chuyển tải nội dung truyền thông và sự gia tăng của rất nhiều loại hình phục vụ mạng, cơ cấu truyền thông truyền thống đã có sự gia tăng của dịch vụ mạng. - Với công nghệ kỹ thuật số mà các tài nguyên, chất liệu như: hình ảnh, âm thanh và văn bản có thể được nén thành những định dạng tương tự và được truyền thông qua các thiết bị truyền dẫn, nó đã thúc đẩy các loại phương tiện truyền thông khác nhau, tách rời nhau cùng tương tác, nhận được nhau. - Nội dung khi được nén vào các phương tiện lưu trữ kỹ thuật số thuận tiện rất nhiều so với cách lưu trữ truyền thống chính vì vậy mà việc bảo lưu, quản lý, cách thức sản phẩm và biên tập, chỉnh sửa sản phẩm cũng rất dễ dàng. Việc số hoá sẽ làm giảm chi phí cho khâu sản xuất. Chi phí sản xuất thấp hơn sẽ làm cho các chương trình sản xuất có hiệu quả hơn về mặt kinh tế. - Sự phát triển của số hóa và Internet sẽ giảm bớt các rào cản tiếp cận thị trường, tạo cơ hội cho công nghệ sản xuất mới (chẳng hạn như chơi game online) và cơ hội sáng tạo cho những doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đa dạng hoá văn hoá và toàn cầu hoá tiêu dùng văn hoá - Toàn cầu hóa kinh tế và tăng cường giao lưu văn hóa: Ngày 16 tháng 11 năm 1972, tại kỳ họp thứ 17 của tổ chức UNESCO đã đưa ra vấn đề bảo vệ các giá trị văn hóa đa dạng của thế giới, thông qua Công ước về Bảo vệ Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới. Nội dung công ước có viết: "sự phá hủy hoặc biến mất của bất kỳ nền văn hóa quốc gia nào sẽ dẫn đến sự thiếu hụt về di sản của các dân tộc, quốc gia trên thế giới ", văn hoá truyền thống dân tộc truyền lại cho các thế hệ tương lai, là nguồn lực cho sự phát triển hài hòa và phong phú về văn hóa cho hiện tại và tương lai ". 10 Tiến sỹ Nguyễn Tiến Mạnh
  11. Bài tham luận Hội thảo do Bộ văn hoá, Thể thao và Du lịch tổ chức tại ĐH Văn hoá TP. Hồ Chí Minh, ngày 21 tháng 05 năm 2013 “Mối quan hệ giữa kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế qua thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII” - Ngoại lệ văn hóa Phải đối mặt với sự phát triển mạnh mẽ của “kinh đô” điện ảnh Hollywood trên thị trường quốc tế, nhiều quốc gia và Liên minh châu Âu đã bày tỏ thái độ phản ứng. Họ trợ cấp cho ngành công nghiệp điện ảnh trong nước. Có quốc gia còn thực hiện hạn chế phát sóng các chương trình truyền hình. Trong năm 1993, chính phủ Hoa Kỳ bắt đầu hản kích trở lại và yêu cầu việc bãi bỏ những việc được coi là vấn đề vi phạm cạnh tranh tự do. 2.7.2. Các xu hướng tiêu dùng văn hoá Đa dạng hoá văn hoá và toàn cầu hoá tiêu dùng văn hoá cùng tồn tại Đại chúng hoá đến phân hoá: Phân khúc thị trường, định vị chính xác Tính tương tác: Tác động của việc sử dụng các công nghệ kỹ thuật số và Internet Kết luận Tiêu dùng sản phẩm vật chất, xã hội nhân loại đi từ sự thiếu thốn đến sự phong phú, đa dạng trong ngày nay, tiêu dùng đang trở thành đối tượng có vị thế ngày càng nổi bật trong đời sống xã hội, mối quan hệ giữa tiêu dùng và sản xuất cũng đã trải qua những sự thay đổi đáng kể. Trong thời kỳ của nền kinh tế còn thiếu thốn, cung ít hơn cầu thì sản xuất quyết định tiêu dùng. Khi xã hội giàu mạnh, vai trò xã hội của tiêu dùng trở thành yếu tố thu hút và kiểm soát sản xuất, hoạt động sản xuất trong các ngành công nghiệp văn hóa phụ thuộc vào nhu cầu tiêu dùng văn hóa. Trong lĩnh vực tiêu dùng văn hóa, nhu cầu tiêu dùng văn hoá dựa vào sản xuất công nghiệp văn hóa. Hoạt động sản xuất công nghiệp văn hoá là nhân tố đã cấu thành nên tiêu dùng văn hoá. Tiêu dùng văn hoá giữ vai trò điều tiết, bố trí, sắp xếp tài nguyên công nghiệp văn hoá và thúc đẩy cơ cấu công nghiệp văn hoá theo tầng bậc của thang nhu cầu. Tiêu dùng văn hóa bị tác động rất lớn từ môi trường xã hội. Các ngành công nghiệp văn hóa đang tồn những tại mâu thuẫn lớn: hàng hóa và hàng hoá giá trị tinh thần, lợi ích kinh tế và lợi ích chính trị, xã hội Quản lý văn hóa tồn tại mâu thuẫn về vai trò của cơ chế thị trường trong tiêu dùng và công tác quản lý của chính phủ về những quy định tiêu thụ các giá trị văn hóa xã hội; không gian tiêu dùng truyền thống với các nhu cầu cá nhân với sự hỗ trợ của công nghệ truyền thông mạng. Và hàng loạt các vấn đề về chính sách kinh tế tiêu dùng văn hóa, hệ thống pháp luật liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ thực thi pháp luật của người tiêu dùng văn hoá, hệ thống kiểm soát quản lý 11 Tiến sỹ Nguyễn Tiến Mạnh
  12. Bài tham luận Hội thảo do Bộ văn hoá, Thể thao và Du lịch tổ chức tại ĐH Văn hoá TP. Hồ Chí Minh, ngày 21 tháng 05 năm 2013 “Mối quan hệ giữa kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế qua thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII” tiêu dùng, trật tự thị trường văn hóa chưa được tiêu chuẩn hóa, bảo mật thông tin của người tiêu dùng và hàng loạt các vấn đề khác vẫn còn bỏ ngỏ. Trong thực tế Việt Nam đang tồn tại thị trường văn hoá và tiêu dùng văn hoá, nhưng tiêu dùng văn hoá trong khoa học văn hoá thì còn khá mới mẻ ở Việt Nam. Một số hiểu biết của chúng ta về tầm quan trọng của tiêu dùng văn hóa và sự phát triển trong các ngành công nghiệp văn hóa, những cơ hội và triển vọng văn hóa, tâm lý chưa trưởng thành của người tiêu dùng, các giá trị văn hóa nhìn từ tiêu dùng còn chưa đựợc rõ ràng và chưa mang tính hệ thống. Khái niệm tiêu dùng văn hóa ở Việt Nam hiện nay còn chưa được xác lập nên ở góc độ khoa học, quản lý và phát triển văn hoá, đa phần các vấn đề liên quan đến tiêu dùng văn hoá chưa đựơc nghiên cứu và ứng dụng. Hy vọng trong tương lai gần, Tiêu dùng văn hoá được nghiên cứu và ứng dụng như là một một giải pháp khoa học hữu ích cho việc ứng dụng vào các chủ trương, chính sách, quản lý văn hoá, xã hội của Việt Nam. Nguyễn Tiến Mạnh Học vị: Tiến sỹ Ngành: Truyền thông học Hướng Nghiên cứu: Quan hệ công chúng & hợp tác quốc tế Nơi đào tạo: Trường Đại học Truyền thông Trung Quốc Điện thoại: 0913189571 Email: sontungmc@gmail.com 12 Tiến sỹ Nguyễn Tiến Mạnh