Tìm hiểu lịch sử nghề khắc - in sách Hán - Nôm của Việt Nam thời phong kiến
Bạn đang xem tài liệu "Tìm hiểu lịch sử nghề khắc - in sách Hán - Nôm của Việt Nam thời phong kiến", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- tim_hieu_lich_su_nghe_khac_in_sach_han_nom_cua_viet_nam_thoi.pdf
Nội dung text: Tìm hiểu lịch sử nghề khắc - in sách Hán - Nôm của Việt Nam thời phong kiến
- Khoa học Xã hội và Nhân văn 53 TÌM HIỂU LỊCH SỬ NGHỀ KHẮC - IN SÁCH HÁN - NƠM CỦA VIỆT NAM THỜI PHONG KIẾN Learning about Carving- Printing Han-Nom book of Vietnam in feudal period Nguyễn Huy Khuyến1 Tĩm tắt Abstract Nghề khắc in ván gỗ sách Hán Nơm của Việt Carving on wood boards for Han-Nom book Nam cĩ từ khá sớm, tuy nhiên do nhiều nguyên of Vietnam appeared quite early; however, due nhân khác nhau nên phần nhiều các bản khắc gỗ to some reasons, many of the carved woods were đã bị hỏng, mất mát khơng cịn lưu giữ lại được là damaged and lost with a few retained quantities. bao nhiêu. Hiện nay đa phần các ván in chúng ta Currently most of the printed boards left are of the cịn giữ được là của triều Nguyễn để lại, một phần Nguyen Dynasty, and in some temples, pagodas nữa là ở các chùa chiền, đền miếu ở phía Bắc. in the North. Therefore, researching the carving- Vì vậy, muốn nghiên cứu lịch sử nghề khắc in chỉ printing history is only carried through the remains cĩ cách thơng qua các tàng bản thời Phong kiến in feudal period in printed Nom book. Learning trong các bộ sách Hán Nơm đã in và hiện cịn đến about carving- printing Nom book of our country ngày nay. Tìm hiểu nghề khắc – in sách Hán Nơm in feudal period somewhat overviews the process của nước ta thời phong kiến phần nào khái quát of formation and development of the carving- quá trình hình thành và phát triển của lịch sử nghề printing history and the massive printed boards of in và những bộ ván in đồ sộ của Việt Nam hiện Vietnam which are being preserved in Dalat. đang bảo quản tại Đà Lạt. Key words: Han Nom book, printed boards, Từ khĩa: sách Hán Nơm, ván in, lịch sử nghề in. carving- printing history. 1. Vai trị của khắc in đối với việc nhân bản giấy bản xứ. Đây là loại giấy trong suốt, như ta thư tịch1 đã biết. Các tờ giấy này sau đĩ được giao cho thợ Khi chưa cĩ kỹ thuật khắc ván gỗ để in sách thì khắc gỗ. Người thợ này dán chúng lên một tấm gỗ người ta chỉ biết nhân bản bằng phương pháp chép rất cứng gọi là gỗ thị. Loại gỗ cứng này khơng bị tay. Cho dù bộ sách dày hay mỏng đều được chép cơn trùng làm hỏng. Nĩ rất ăn mực nên chữ in lên tay nhân bản, vì vậy muốn nhân bao nhiêu bản là đĩ rất rõ nét, đẹp. Một ít dầu bơi trên tấm gỗ làm bấy nhiêu lần chép. Phương pháp này vừa mất thời hiện ra các nét chữ chưa rõ. Đến đây, người thợ gian vừa xảy ra tình trạng tam sao thất bản, dẫn đến khắc bắt đầu cơng việc của mình: loại bỏ các phần sai lệch khá nhiều, đặc biệt là những sách học chữ trắng. Sau đĩ, bản khắc được giao cho thợ in.”. Hán - Nơm, sách nghiên cứu, sách lịch sử , việc (Henri Oger 2009, tr. 232) nhân bản để tham khảo hay làm tư liệu thơng qua Tuy nhiên, việc lựa chọn gỗ cứng quá sẽ dẫn chép lại vừa mất thời gian vừa khơng chính xác. đến việc khắc chữ rất khĩ khăn, dễ bị gãy nét hoặc Khắc ván cũng gần với kỹ thuật in hiện đại, khĩ chạm khắc lên ván in. Vấn đề này đã được đã tạo ra số lượng lớn thư tịch. Trước hết, người chính sử triều Nguyễn ghi chép, qua đĩ gỗ làm ván ta cưa ván ra thành từng tấm, đem chữ cần in viết in cần lựa chọn gỗ mềm, dễ khắc và cĩ thể chống lại trên giấy mỏng, rồi dán ngược lên trên tấm ván được mối mọt và cong vênh theo thời gian. đĩ, sau căn cứ vào mỗi nét bút của chữ, dùng dao Về chất liệu gỗ dùng làm ván khắc, theo sách khắc từng nét một, sao cho mỗi nét bút của chữ “Đại Nam nhất thống chí” thì gỗ dùng làm ván nổi lên trên ván. Văn tự cĩ nét nổi lên đĩ gọi là khắc in là gỗ lồng mật (nha đồng mộc), thớ gỗ “dương văn”, nếu chữ lõm xuống gọi là “âm văn”, trắng, sáng như ngà voi (cịn gọi là gỗ mức). (Quốc ván khắc in thường là ván “dương văn”. sử quán triều Nguyễn 2006, tr. 423 ) Henri Oger trong cuốn sách Kỹ thuật của người Theo Châu bản triều Nguyễn, vào thời Tự Đức, An Nam nhận xét về nghề khắc in của nước ta như sử quán tấu trình về việc khắc in các sách Ngự chế sau: “Một người giỏi thi pháp viết bản văn lên tờ thi sơ tập, Đại Nam thực lục chính biên đệ tam kỷ 1 Nghiên cứu sinh, Học viện Khoa học Xã hội cĩ viết: “Nay kiểm thấy bản mẫu cuốn thực lục Số 15, tháng 9/2014 53
- 54 Khoa học Xã hội và Nhân văn gồm 1.900 trang, cần dùng 995 tấm gỗ thị”. (Châu vở cịn lại, nghiên cứu qua nhiều năm tháng, thì bản triều Nguyễn, tr. 30) những đức nghiệp vẻ vang, phép tắc lớn lao, hiện đã sáng tỏ trong sách. Xin cho khắc gỗ lê gỗ táo, Cũng vào thời Tự Đức, khi đã xuất hiện bản in in dâng vào kho sách, để nêu tiếng thơm về sau”. chữ bằng thiếc thì việc sử dụng mộc bản để khắc in (Quốc sử quán triều Nguyễn 2002. Tập 1: tr .10) vẫn được coi trọng. Trong Châu bản triều Nguyễn cĩ ghi: “Khi khắc in sách Ngự chế Việt sử tổng Các cơng đoạn để in được một quyển sách phải vịnh tập, ở quyển thủ cĩ tên sách, xung quanh vẽ trải qua các cơng đoạn sau : rồng mây, sức cho thợ khắc ván in bìa sách và lời Thứ nhất là người đứng đầu việc khảo biên đề tựa bằng mực đỏ, chúng thần trộm nghĩ, lời đề phải là một chức quan to, coi quản tịa Trung thư tựa nếu dùng bản in chữ bằng thiếc thì chữ in bằng giám, một cơ quan giữ việc biên soạn tất cả những mực đỏ nhỏ bé, e rằng khơng được rõ lắm. Xin cho cái gì là sáng tác, hoặc ghi chép hoặc thảo văn thư Nội các sức cho viết tờ nhan đề, giao cho sử quán đương thời. Thứ hai đến nhĩm người làm chức tư cho lĩnh gỗ thị giao cho thợ khắc ván, in bằng Tri Thị nội thư tả, trơng coi về việc viết chép bản mực đỏ mới được rõ ràng, trang nhã”. (Châu bản thảo. Thứ ba đến nhĩm người phụng giám đằng triều Nguyễn, tr.133) san, tức là trơng coi việc đằng tả và khắc in. Thứ Trong tờ Châu bản triều Nguyễn, vào thời vua tư đến nhĩm người phụng khán đằng tả, nghĩa là Thành Thái, Quốc sử quán tâu: “Ngày tháng 9 năm vâng lệnh theo dõi việc viết sách. Thứ năm đến ngối, quán thần tuân theo các điều cung lục và người lệ thuộc vào việc xem xét đằng tả. Thứ sáu phiến chuẩn của bộ Lễ tuân lệ đem hai bộ sách đến nhĩm người phụng đằng, nghĩa là thừa hành Tự Đức Thánh chế và Luận Ngữ thích nghĩa ca, việc viết sách. Cuối cùng là thợ chuyên mơn ở Tự học giải nghĩa châm chước nghĩ viết thử mỗi xã Hồng Lục và xã Liễu Tràng khắc ván gỗ và in bộ hai trang giấy tiến trình lên chờ chỉ, vâng được sách. (Hoa Bằng 1970, tr. 54) châu điểm. Nay Quán thần tuân phụng kiểm báo Sau khi in xong, tồn bộ những bộ ván in sẽ rằng hiện các sách trên đã viết xong, xin kính cẩn được cất giữ tại kho tàng bản, mục đích là để lưu tiến lãm, chờ giao ra. Lại tuân viết bản riêng và lại bộ ván này để khi cần nhân bản người ta cĩ thể cho Quán thần đem gỗ thị cho khắc in. Sau khi in tiếp, hoặc cĩ thể sửa chữa, tái bản sách. Giả dụ khắc xong cần in ấn bao nhiêu bộ sẽ lại phụng theo thời gian mà ván in cĩ mục, cĩ hỏng thì người nghĩ xin”. (Châu bản triều Nguyễn, tr. 203) ta chỉ cần bổ sung chính tấm ván in đĩ mà khơng Như vậy cĩ thể nĩi rằng dưới thời Nguyễn, gỗ cần thay mới tồn bộ các ván in. Điều này làm thị được sử dụng nhiều để khắc ván in các sách của giảm chi phí và tiết kiệm đáng kể thời gian cho triều đình. Ngồi ra, khi nghiên cứu tài liệu và các cơng đoạn nhân bản sau này. bài biểu, bài dụ trong các thư tịch như Đại Nam Thơng thường, những tàng bản sẽ được khắc thực lục, Ngự chế thi tập của vua Minh Mệnh, ngay trên ván in để biết được bộ sách đĩ in ở đâu, Thiệu Trị, Tự Đức đều cĩ nhắc đến việc dùng gỗ như bộ Đại Việt sử ký tồn thư của đời Lê cĩ ghi là lê, gỗ táo để khắc in được dài lâu. Trong bài dụ Quốc tử giám tàng bản. sách Đại Nam thực lục tiền biên đề ngày 11 tháng 3 năm Thiệu Trị thứ 3 (1844) “Kể tính từ năm 2. Sơ lược lịch sử nghề khắc in ván gỗ ở Việt Nam Minh Mệnh thứ 2 mở đặt Sử cục, đến năm Thiệu Nghề in của ta cĩ từ khá sớm. Cĩ giả thuyết cho Trị thứ 4, trải trong khoảng 25 năm, biên soạn đã rằng, đất Luy Lâu xưa là một trung tâm Phật giáo xong, đầy đủ rõ ràng được đến thế, thực đủ làm lớn, suốt từ thế kỷ I đến thế kỷ III đã khắc in kinh rạng rỡ cơng đức thần thánh lớn lao đời xưa, đã Phật. Cĩ thể đây là nơi in sách sớm nhất trong lịch vui được lịng trẫm muốn nêu cao sự nghiệp, trơng sử ngành in nước ta. Sau này các thời Lý - Trần đều mến vinh quang. Vậy nên cho khắc vào gỗ lê gỗ nĩi đến việc in sách. Nhưng do sự phũ phàng của táo, in để dài lâu”. (Quốc sử quán triều Nguyễn thời tiết, khí hậu, sự hủy hoại của chiến tranh, sự 2002, Tập 1, tr. 8) tàn phá cĩ ý thức của các thế lực xâm lược, sách in Trong một bài biểu của đình thần Quốc sử quán ở nước ta bị mất mát nhiều. Điều biết được chính đề ngày 6 tháng 3 năm Thiệu Trị thứ 4 (1844) cho xác chỉ là nghề làm ra các ván in và các bộ sách in biết: “Tuy niên đại đã lâu, sách vở tản mát, ở ra từ ván in mộc bản này. Theo Hoa Bằng, nghề in trong khơng khỏi cĩ chỗ thiếu sĩt, duy từ đời Minh của Đại Việt khơng muộn hơn thế kỉ XI, đến thế kỉ Mệnh tới nay, tiết thứ biên soạn sửa chữa theo sách XV tương đối phát triển, vào thế kỉ XVIII nghề này Số 15, tháng 9/2014 54
- Khoa học Xã hội và Nhân văn 55 được phổ biến rộng rãi và đạt đỉnh cao vào thế kỉ Như vậy, ban đầu những kinh sách đã được in XIX. Theo thống kê của Lê Quốc Việt và Cung rộng rãi trong các nhà chùa như là một cơng việc Khắc Lược, trong các kho sách của thư viện chỉ nhân bản để truyền rộng ra thời kỳ này. Cịn sách chiếm 30% là sách in từ ván gỗ trên tổng số văn vở liên quan đến văn chương thi phú thì vẫn bị cấm bản Hán Nơm hiện cịn đến ngày nay. Như vậy, cĩ đốn. Thời kỳ này, các tuyển tập thơ văn vẫn chưa thể nhận thấy sách Hán Nơm được in từ ván khắc được in để lưu hành do chưa cĩ sự đồng ý của vua. là khơng nhiều so với những bộ sách Hán Nơm cịn lại đến ngày nay. Ngay cả nhiều bộ sử quan trọng Thời Hồ (1400 - 1407) của triều đình cũng chưa kịp in hoặc chưa được Giai đoạn này, kỹ thuật in ấn tương đối phát khắc in như Đại Nam thực lục chính biên đệ lục kỷ triển, Hồ Quý Ly đã cho in các tiền giấy “Thơng phụ biên; Đại Nam thực lục chính biên đệ thất kỷ bảo hội sao”, trên đĩ cĩ vẽ những hình khá phức của triều Nguyễn. Hơn nữa, việc khắc và in rất tốn tạp như cỏ tảo, sơng nước, đám mây, con rùa, con kém, khơng phải tác giả nào cũng cĩ thể in được lân, chim phượng và rồng. Theo Đại Việt sử kí tồn sách. Do đĩ, họ chỉ cĩ bản chép tay mà thơi. thư, quyển VIII, trang 289: “Mùa hạ, tháng 4, bắt Thời Lý – Trần đầu phát (tiền giấy) Thơng bảo hội sao. In xong, Thời Lý – Trần nước Việt đã cĩ nghề khắc ván ra lệnh cho người đến đổi, cứ 1 quan tiền đồng in và in sách từ mộc bản. Cĩ điều việc này chưa đổi lấy 1 quan 2 tiền giấy. Thể thức [tiền giấy]: tờ được phổ biến rộng rãi, mà mới chỉ lưu hành ở các 10 đồng vẽ rồng, tờ 30 đồng vẽ sĩng, tờ 1 tiền vẽ chùa chiền. Thời Lý đã xuất hiện sự ghi chép về mây, tờ 2 tiền vẽ rùa, tờ 3 tiền vẽ lân, tờ 5 tiền vẽ việc nước ta cĩ nghề khắc ván in. Đĩ là việc nhà phượng, tờ 1 quan vẽ rồng. Kẻ làm tiền giả bị tội sư Tín Học(2) ở Chùa Quán đỉnh, núi Khơng Lộ, chết, ruộng đất, tài sản tịch thu.” người Châu Minh, phủ Thiên Đức, họ Tơ, chuyên nghề khắc kinh. Việc này được ghi trong sách Tuy nhiên đến tháng 8 năm Kỷ Mão (1399), tên Thiền Uyển tập anh. “Chùa Quán đỉnh, núi Khơng cướp Nguyễn Nhữ Cái trốn vào núi Thiết Sơn làm Lộ. Người châu Minh, phủ Thiên đức, họ Tơ. Đời giả tiền giấy tiêu dùng. Sự kiện này đánh dấu kĩ thuật đời chuyên nghề khắc kinh. Nhỏ thờ Thanh giới, in ấn khơng cịn bị phụ thuộc bởi nhà nước Phong khơng giao du bừa bãi.” (Kim Sơn – Thiền phái kiến quản lý nữa mà tư nhân cũng cĩ thể in được. Trúc Lâm 1976, tr. 64). Điều đĩ chứng tỏ rằng, Thời Lê sơ (thế kỷ XV) nghề khắc ván in đã được lưu hành và cĩ những người biết việc khắc ván in. Trong giai đoạn này xuất hiện một nhân vật tên là “Lương Như Hộc (tự là Tường Phủ, người làng Hay trong lời tựa Trích diễm thi tập Hồng Hồng Liễu, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương, đỗ Đức Lương đã nhận xét rằng: “Sách vở về đời Lý – Trần, loại được truyền bá rộng rãi, phần nhiều Thám hoa năm 1442). Tương truyền rằng khi ơng chỉ là sách chép về nhà Phật. [Như thế] cĩ phải là đi sứ nhà Minh cĩ học được nghề khắc gỗ in sách, sùng Nho khơng sâu sắc bằng lịng sùng Phật đâu! sau về dạy cho dân làng. Sau này nhiều người ở Chỉ vì đạo Phật khơng bị cấm đốn, nên bao nhiêu các nơi khác cũng biết đến nghề ván in và in kinh trước tác nhà Phật đều được đem khắc bản gỗ để sách. Những thợ chuyên nghiệp này được gọi là truyền lại. Cịn thơ văn thì nếu chưa được trộm “tử nhân”. (Hoa Bằng 1970, tr.54) phép thánh chỉ, tất chưa dám cho ban hành. Đĩ là Khi khắc ván in, người ta cũng trải qua nhiều lý do thứ tư khiến cho thi ca khơng được lưu lại hết giai đoạn chuẩn bị. Đầu tiên là việc chọn gỗ để làm ở trên đời” (Viện Văn học 1977, tr.18) ván. Thơng thường người ta dùng gỗ thị, gỗ lê, gỗ táo, gỗ thừng mực để làm ván in. Sau đĩ xẻ thành 2 Nhà sư Tín học người họ Tơ, lúc nhỏ học với nhà sư Thanh Giới, đến từng tấm với tiêu chuẩn đã định, tùy theo sách mà năm 30 tuổi thì đi tu, thụ giới với nhà sư Đạo Huệ. Tín Học quê làng Chu Minh, phủ Thiên Đức, trụ trì ở chùa Quang Đính trên núi Khơng cĩ thể xẻ gỗ tấm to hay nhỏ. Cuối cùng là cơng Lộ thuộc Sơn Tây, ơng mất ngày 9 tháng 1 âm lịch đời vua Lý Cao đoạn khắc chữ. Chữ khắc trên mộc bản phải là chữ Tơng (dương lịch 15 tháng 2 năm 1190). Cĩ lẽ trong thời gian ở chùa cùng với việc tu luyện và thuyết pháp, ơng đã phụ trách cả việc khắc khắc nổi, “dương văn”, chữ khắc trên mộc bản là ván in các kinh sách Phật theo nghề gia truyền. Vì vậy, khi nhắc đến chữ ngược. Sau khi khắc xong thì mới đến cơng những người cĩ cơng trong nghề này thì người ta nhắc đến ơng. Vũ, Ngọc Khánh .2006. Lược truyện Thần tổ các ngành nghề. Hà Nội : đoạn in thành sách. Nhà xuất bản Thanh Niên. tr 110. Số 15, tháng 9/2014 55
- 56 Khoa học Xã hội và Nhân văn Một trang sách Ngự chế minh văn cổ khí đồ in Một trang sách Tam hy đường pháp thiếp in từ ván in từ ván in Trong giai đoạn này, nghề khắc gỗ ở Việt Nam Khơng những chỉ cĩ cơ quan nhà nước khắc in mà cịn gắn với việc nhà nước phong kiến yêu cầu nhiều tư nhân cũng lập nhà in để khắc và in sách. khắc in những bộ quốc sử đồ sộ. Để hồn thành Mặc dù trong thời gian đầu triều Nguyễn khi vua được những bộ thư tịch như vậy là rất tốn kém về Gia Long trị vì nhà nước đã khơng quan tâm nhiều cơng sức, tiền của. Cơng việc chỉ đạo biên soạn, đến cơng tác kiểm sốt việc sản xuất và phổ biến khắc in những bộ quốc sử cần phải cĩ đội ngũ giám các ấn phẩm, tuy vậy, nhà nước vẫn quan tâm đặt sát chặt chẽ. Những người này được tuyển trạch kĩ càng và phải cĩ uy tín, cĩ tài học rộng được vua – hàng làm sách. Năm 1809 vua Gia Long đã hạ lệnh chúa tín nhiệm. Trung thư giám là nơi coi sĩc các cho khắc ván in và phổ biến trong nước cuốn giáo cơng việc vụ thể trong các khâu của kỹ thuật khắc khoa du nhập từ Trung Quốc là Đại học diễn nghĩa. ván in. Trách nhiệm làm ra khuơn in được trao cho Đối với nhà nước phong kiến triều Nguyễn, các viên thư ký nội các (Thị nội thư tả). Sau đĩ việc khắc in những bộ quốc sử đồ sộ, nổi tiếng đã khuơn in này cịn được kiểm tra qua bốn cấp nữa chứng minh cho điều đĩ. Triều Nguyễn cịn để lại rồi mới chuyển cho từng thợ khắc ở hai xã Hồng Lục và Liễu Tràng. nhiều bộ sách in đồ sộ, cĩ giá trị, cĩ bộ gồm tới mấy trăm quyển như Đại Nam thục lục, Khâm định Người làng Hồng Lục và Liễu Tràng sau khi Việt sử thơng giám cương mục. Sách in gồm nhiều học được nghề khắc ván đã tỏa đi khắp nơi trong thể loại cịn giữ được đến nay phần lớn thuộc giai các cơ sở ở Hà Nội, Nam Định sau này cịn vào cả đoạn này. kinh thành Huế. Nĩi như Cung Khắc Lược, khắc ván in là một Cơ quan được chỉ định biên soạn khắc in là nghề tinh xảo, vốn được gợi mở tương truyền từ Quốc sử quán được thành lập dưới triều Hồng đế ơng tổ nghề là Lương Như Hộc. Kỹ nghệ khắc ván Minh Mệnh. in của các phường hội Hồng - Liễu khơng thua [初建國史館帝諭群臣曰國家開拓以來 kém so với những tay “tử nhân” (thợ khắc ván) của 列聖相承二百年迨我世祖高皇帝中興混一 Trung Quốc, nhưng thực chất của vấn đề khơng chỉ dừng ở chữ nghĩa, kiến thức học vấn mà cịn 區宇其間事跡勳烈苟非史冊何以垂示永久 ở trình độ thẩm mỹ và nhất là ở lý tưởng thẩm 朕欲建立史館命儒臣纂修國史寔錄以表建 mỹ. Đại đa số thợ khắc ván in chỉ biết khắc ván, ít 篤基勤之盛為後世法不亦可乎][大南 寔錄 cĩ khả năng kiêm nghiệm các cơng đoạn chế bản 正編第二紀卷三 , 十二 ] (Sơ kiến Quốc sử quán, khác như viết chữ, vẽ tranh. Do đĩ những người đế dụ quần thần viết: Quốc gia khai thác dĩ lai, liệt khắc được ván in đều phải biết chữ và bộ thủ chữ thánh tương thừa nhị bách niên. Đãi ngã Thế tổ Hán mới cĩ thể đảm đương được những bộ sách đồ sộ như chính sử của nhà nước phong kiến và các Cao hồng đế trung hưng hỗn nhất khu vũ, kì gian bộ Ngự chế thơ văn của các Hồng đế. sự tích huân liệt cẩu phi sử sách hà dĩ thùy thị vĩnh cửu. Trẫm dục kiến lập Sử quán, mệnh nho thần Thời Nguyễn (1802 - 1945) toản tu Quốc sử thực lục dĩ biểu kiến, đốc, cơ, cần Đây là thời kỳ nghề khắc ván và in sách phát chi thịnh, vi hậu thế pháp, bất diệc khả hồ?). (Đại triển rực rỡ và đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Nam thực lục chính biên đệ nhị kỉ, quyển tam, tờ 12) Số 15, tháng 9/2014 56
- Khoa học Xã hội và Nhân văn 57 Sách Đại Nam thực lục cho biết: Bắt đầu dựng Hà Nội tàng bản bộ sách nổi tiếng của vua Tự Đức Quốc sử quán “Vua dụ bầy tơi rằng: nhà nước ta Ngự chế Việt sử tổng Vịnh tập, Quan Văn đường, mở mang đến nay, các Thánh nối nhau 200 năm. Thư viện gia đình Lê Nguyên Trung: cĩ bài ký Kịp Thế Tổ Cao Hồng đế ta trung hưng thống soạn năm Bính Ngọ (1846) đời Thiệu Trị cho biết nhất đất nước, trong khoảng ấy, sự tích cơng sách ở thư viện tư nhân này được xếp thành 7 loại nghiệp nếu khơng cĩ sử sách thì lấy gì để dạy bảo khác nhau gồm: Kinh, Thư, Sử, Tử, Tập, Cử nghệ, lâu dài về sau. Trẫm muốn lập sử quán, sai các nho Tạp trứ. Qua đây cĩ thể nhận xét rằng nghề in ở thần biên soạn Quốc sử thực lục để nêu cơng đức Việt Nam rất được coi trọng. Hiện nay, số ván in về kiến, đốc, cơ, cần làm phép cho đời sau cũng mộc bản cịn lại ở nước ta phần nhiều là của triều chẳng là phải sao ” (Quốc sử quán triều Nguyễn Nguyễn để lại, một phần cĩ thể là ván của các 2002, tập 2, tr. 66). triều trước được chuyển từ Văn Miếu Bắc thành Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, tình hình xã về Huế theo chỉ dụ sưu tầm sách vở của vua Minh hội Việt Nam biến chuyển dữ dội, kinh tế hàng hĩa Mệnh “năm Minh Mênh thư tam, vua sai quan ơ cĩ xu hướng phát triển, nhu cầu về sách vở, về các Băc thanh kiêm điêm sach vơ nguyên trư ơ Văn tri thức khoa học trở nên bức thiết. Cĩ nhiều “hiệu” Miêu trong thanh, như Tư thư, Ngu kinh đai toan, “đường” ra đời và cũng là thời kỳ nở rộ của nghề Vu kinh trưc giai (sach do nha Quơc tư giam triêu in sách. Một loạt các nhà in sách như Quan Văn Lê trươc tang ban) va chinh sư trươc sau cung la Đường, Quảng Thịnh Đường, Thịnh Văn Đường, tư trương văn thê, cac ân ban trên đưa vê Kinh Hữu Văn Đường, Áng Hiên Hiệu, Đơng Kinh (Hà đê vao nha Quơc tư giam”. (Quơc sư quan triêu Nội), Hải Học Đường, Hướng Thiện Đường (Hải Nguyên 1993, Tập 3, tr. 84) Hưng), Ninh Phúc Đường (Hà Nam Ninh), Đắc Lập (Nghĩa Bình) v.v. khơng chỉ in sách văn học, Dưới đây là phần thống kê tên bộ sách và nơi sử học mà cịn in địa lý, thiên văn, y học, pháp tàng bản của những bộ ván khắc ván in mộc bản luật học, tốn học Nhiều nhà in để lại những tác qua khảo sát tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV – phẩm cĩ giá trị. Tuy vậy, tình hình cạnh trạnh cũng Đà Lạt. dẫn đến hiện tượng in sai, in ẩu dẫn đến văn bản Những bộ sách do Quốc sử quán biên soạn khơng chính xác. và khắc in (1821 – 1945) Về sách vở và cơ sở in thời Nguyễn, thì theo Quốc sử quán, với chức năng cơ quan biên soạn thống kê của Mai Hồng và Nguyễn Hữu Mùi thì ở và khắc in những bộ sách chính văn chính sử quý nước ta thời này cĩ khoảng 318 “nhà in”, đại bộ giá của triều Nguyễn ra, thì cơ quan này cịn gĩp phận đều mang niên đại Nguyễn. Cĩ một số sách phần khơng nhỏ trong việc tập trung thư tịch Hán gắn với vài cơ sở in cĩ tiếng và tuổi thọ khá lâu Nơm về Huế. Năm Minh Mạng thứ nhất (1820), như Phường in Hồng - Liễu 211 tuổi (1683-1904), Quốc sử quán được dựng xong để biên soạn quốc Đa Bảo Tự 216 tuổi (1665-1881), Vinh Khánh Tự sử. Năm Tự Đức thứ 2 (1849), dựng thêm Tàng 157 tuổi (1750-1907), Đoan Nghiêm Tự 216 tuổi bản đường ở phía sau sử quán để chứa ván in mộc (1763-1903), Quốc Tử Giám 89 tuổi (1820-1909), bản. Những bộ sách dưới đây do Quốc sử quán Liễu Văn Đường 91 tuổi (1834-1925). biên soạn và khắc in theo chỉ dụ của vua. Như vậy, cĩ thể dễ dàng nhận thấy thời kì này Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập大南正 nghề in sách Hán Nơm đã đạt đến độ cực thịnh, 編列傳初集 nhiều nhà in tư nhân đã ra đời đảm nhận một phần khơng nhỏ trong việc in ấn thư tịch. Nhà nước đảm Đại Nam chính biên liệt truyện nhị tập大南正 nhiệm in ấn các bộ chính sử lớn, nhà in tư nhân in 編列傳二集 ấn các bộ thơ văn của các văn sĩ, quan lại Đại Nam liệt truyện tiền biên大南列傳前編 3. Dấu ấn một số tàng bản và cách bảo quản ván Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ大南寔 in dưới triều Nguyễn 錄正編第一紀 Dưới triều Nguyễn cịn cĩ những cơ sở chuyên Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ大南寔 lưu trữ những bộ cổ thư, những bộ ván khắc chữ 錄正編第二紀 Hán Nơm cĩ giá trị. Tiêu biểu cho những thư viện tư nhân này là thư viện Long Cương ở Nghệ An Đại Nam thực lục chính biên đệ tam kỷ大南寔 do Cao Xuân Dục đứng đầu, Liễu Văn đường ở 錄正編第三紀 Số 15, tháng 9/2014 57
- 58 Khoa học Xã hội và Nhân văn Đại Nam thực lục chính biên đệ tứ kỷ大南寔 Những bộ sách do Hải Học đường tàng bản 錄正編第四紀 (1814 – 1881) Đại Nam thực lục chính biên đệ ngũ kỷ大南寔 Lịch triều sách lược歷朝策略 錄正編第五紀 Văn tuyển文選 Đại Nam thực lục chính biên đệ lục kỷ大南寔 Bạch Vân Am thi tập白雲庵詩集 錄正編第六紀 Danh phú名賦 Đại Nam thực lục chính biên đệ thất kỷ大南寔 錄正編第七紀 Danh thi hợp tuyển名詩合選 Danh văn tinh tuyển名文精選 Đại Nam thực lục tiền biên大南寔錄前編 Khâm định Việt sử thơng giám cương mục tiền Độc sử si tưởng tập讀 史 癡 想 集 biên欽定越史通鑑綱目前編 Giang thương thi tập 江 滄 詩 集 Khâm định Việt sử thơng giám cương mục Truyện phú 傳 賦 chính biên欽定越史通鑑綱目正編 Những bộ sách do Đền Quan thánh tàng bản Đại Nam nhất thống chí大南一統志 Dưỡng chính di quy 養 正 遺 規 Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ 欽定大南 Giáo nữ di quy 教 女 遺 規 會典事例 Tại quan pháp giới lục 在 官 法 戒 錄 Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên欽 定大南會典事例續編 Tịng chính di quy 從 政 遺 規 Minh Mạng chính yếu明命正要 Tứ lục hợp tuyển四 錄 合 選 Hồng Việt luật lệ皇越律例 Sách do nhà in Long Cương Nghệ An tàng bản (1845 - 1851) Nhân thế tu tri人世須知 Quốc triều hương khoa lục國 朝 鄉 科 錄 Quảng Bình khoa lục廣平科錄 Quốc triều đăng khoa 國 朝 登 科 Thư kinh tân ước書經新約 Bộ sách do Hà Đình tàng bản (1878 – 1922) Thánh chế thi tam tập聖製詩三集 Cung kỷ luân âm Thi vận tập yếu詩韻集要 Bộ sách do Quốc tử giám (Huế) tàng bản (1821) Đồng Khánh Khải Định chính yếu同慶啟定 正要 Bích ung canh ca hội tập 辟 雍 賡 歌 會 集 Ngự chế văn sơ tập [ Thiệu Trị ]御製文初 Đại Việt sử ký tồn thư 大 越 史 記 全 書 集,紹治 Bộ sách do Mạc Vân Sào tàng bản (1857 - 1867) Ngự chế văn sơ tập [ Minh Mạng ]御製文初 Trương Quảng Khê tiên sinh tập 張 廣 溪 先 集,明命 生 集 Ngự chế văn nhị tập [ Thiệu Trị ]御製文二 Bộ sách do Liễu văn đường tàng bản 集,紹治 (1834 -1925) Ngự chế văn nhị tập [ Minh Mạng ]御製文 Ngự chế Việt sử tổng vịnh tập御 製 越 史 總 二集,明命 詠 集 Số 15, tháng 9/2014 58
- Khoa học Xã hội và Nhân văn 59 Kỹ thuật bảo quản tài liệu mộc bản Là người trực tiếp chỉnh lý các bản khắc gỗ tại Việc bảo quản mộc bản dưới thời Nguyễn được Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV – Đà Lạt, chúng các nhà vua đặc biệt quan tâm: đã cho xây dựng tơi nhận thấy trong hơn 32 ngàn bản khắc gỗ cĩ Quốc sử quán và Tàng bản đường để biên soạn nhiều bộ sách được bảo quản rất đặc biệt. Do tính các sách sử và bảo quản các ván khắc in những bộ chất của gỗ dễ bị nứt và cong vênh theo thớ, rất sách chính văn, chính sử của triều đình. Điều này dễ bị hỏng ván in nếu khơng được bảo quản cẩn cho thấy triều Nguyễn rất quan tâm đến việc bảo thận. Để khắc phục vấn đề này, người ta sử dụng quản tài liệu mộc bản, hạn chế đến mức thấp nhất một phương pháp rất cĩ hiệu quả. Đĩ là, trên hai tác hại của mơi trường đối với tài liệu. Tuy nhiên, đầu tấm mộc bản cưa một đường rãnh cắt đứt liên do khí hậu nước ta là khí hậu mang tính chất nhiệt kết giữa hai mặt của tấm mộc bản, sau đĩ dùng đới giĩ mùa, độ ẩm trung bình hàng năm cao trên thanh nêm bằng tre già để nêm chặt vào rãnh đĩ. 80%, đĩ là điều kiện rất thuận lợi cho nấm mốc Việc làm này giữ cho mộc bản hạn chế bị nứt vỡ, phát triển trên gỗ. Mùa khơ hanh, nhiệt độ cao làm hoặc trong trường hợp bị nứt cũng khơng thể vỡ cho mộc bản dễ bị nứt. Trên thực tế cho thấy mộc rời thành hai mảnh. Bởi thanh nêm bằng tre đã bản thường bị nứt theo thớ gỗ. cố định hai nửa của tấm mộc bản. Trên thực tế, những tấm mộc bản cĩ nêm tre ít khi bị nứt. Đặc điểm này thấy rõ nhất trong bộ ván khắc sách Đại Nam thực lục chính biên, Ngự chế Việt sử tổng vịnh tập và một số bộ sách quan trọng khác do Quốc sử quán biên soạn. Nhiều bộ sách khơng được nêm tre bị nứt tốc khá nhiều. Mộc bản khơng cĩ thanh nêm bị nứt nhiều hơn so với tấm cĩ thanh tre nêm 5. Nơi khắc và in sách lớn nhất Việt Nam thời phong kiến Thời kỳ đầu khi nghề in mới được phát triển, Thăng Long lại là kinh đơ của các triều đại Lý, Trần, Lê, nên nơi đây trở thành trung tâm kinh Thuận Hĩa (Huế) là kinh đơ của triều Nguyễn, tế văn hĩa chính trị của cả nước. Do đĩ việc tập trước và sau thế kỷ XIX, Huế thay thế kinh đơ trung nhiều phường, hội, nhà in, tàng bản của tư Hà Nội trở thành trung tâm chính trị mới, các thư nhân được mở ra nhiều nhằm phục vụ cho việc in phường cũng dần dần phát triển lên. Thợ khắc ván sách và kinh doanh sách cho sĩ tử thi cử. in ở Huế đều là người hai làng Hồng - Liễu ở Hải Dương chuyển vào để khắc các bộ sách lớn của Ngồi các cơ sở khắc in của nhà nước ra, thì cịn nhà nước. Số lượng sách được khắc in dưới triều cĩ các thư phường mọc lên như: Hội Văn đường, Nguyễn ở kinh thành Huế do nhà nước trực tiếp Quảng Thịnh đường, Quan Văn đường, Thịnh Văn quản lý lên đến con số hàng chục đầu sách với số đường, Phúc Văn đường, Lạc Thiện đường, Tụ lượng mỗi bộ sách từ 1000 – 10.000 trang như: Văn đường, Cẩm Văn đường, Liễu Văn đường Đại Nam thực lục 560 quyển, Đại Nam liệt truyện Thậm chí đến đầu thế kỷ XX ở Hà Nội vẫn cịn 85 quyển, Minh Mệnh chính yếu 25 quyển, Đồng nhiều cơ sở tiếp tục nghề khắc in sách. Chủ nhân Khánh Khải Định chính yếu 5 tập, Đại Nam nhất của những thư phường này đa phần là những người thống chí thời Duy Tân 17 quyển, Khâm định Đại ở huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương hoặc là người Nam hội điển sự lệ tục biên 61 quyển. Do kinh phí làng Phù Ủng. Họ chuyển đến Hà Nội, Nam Định để khắc in một bộ sách là khá nhiều, do vậy nhiều và các địa phương khác để mở phường in sách. những tuyển tập thơ của tư nhân ít khi được khắc in Số 15, tháng 9/2014 59
- 60 Khoa học Xã hội và Nhân văn thay vào đĩ là sách của các vua chúa, các ơng hồng các chủ đề về văn thơ, địa lý, ngơn ngữ văn tự, lịch và một số người cĩ điều kiện mới khắc in được. sử, tơn giáo, tín ngưỡng mà thơng tin trong đĩ giúp ích rất nhiều cho các nhà nghiên cứu, đặc biệt là 6. Tạm kết thơng tin nguồn gốc trích dẫn chính thống. Lịch sử đã để lại cho đất nước chúng ta Chắc chắn rằng nhiều ngành khoa học của ta một di sản chữ Hán – Nơm đồ sộ qua hàng ngàn như triết học, lịch sử, kinh tế, chính trị, xã hội, năm. Theo GS Trần Nghĩa cho biết, sau ngày pháp luật, quốc phịng, văn hĩa, giáo dục, ngơn nước Âu Lạc mất độc lập, trở thành một bộ phận của ngữ, văn tự, văn học, nghệ thuật, tơn giáo sẽ nước Nam Việt, chữ Hán đã được sử dụng phổ biến phải dựa vào khơng ít kho sách mộc bản Hán Nơm trong quản lý hành chính. Tuy nhiên, chữ Hán chỉ thực để dựng lại diện mạo một thời, trong đĩ cĩ đối sự trở thành phương tiện ghi chép và truyền thơng tượng nghiên cứu, thậm trí cĩ cả bản thân ngành trong tay người Việt kể từ đầu Cơng nguyên trở đi. nghiên cứu. Những ẩn số trong quá khứ dân tộc cĩ Từ thế kỷ thứ X về sau, Việt Nam tuy thốt khỏi thể sẽ được giải mã một phần qua việc nghiên cứu ách thống trị của Phong kiến Trung Quốc, nhưng quá trình hình thành nghề khắc ván in sách Hán chữ Hán và tiếng Hán theo đà của nĩ vẫn tiếp tục Nơm một thời. được sử dụng như là một cơng cụ để đào tạo nhân Tìm hiểu lịch sử nghề khắc ván và in sách Hán tài, nâng cao dân trí, phát triển văn hĩa dân tộc, Nơm của nước ta thời Phong kiến để thấy thấy khảo luận thi cử. Khoa thi chữ Hán cuối cùng kết được tầm quan trọng của cơng việc này. Đất nước thúc năm 1919, nhưng việc học tập ghi chép bằng ta trải qua nhiều triều đại, lại phải ngồi chống chữ Hán cứ kéo dài cho đến Cách mạng Tháng 8 – ngoại xâm, trong lo nội chiến, binh đao loạn lạc, 1945. Nĩi tĩm lại chữ Hán cĩ hơn 2000 năm lịch thư tịch mất mát nhiều. May mắn ngày nay số ván sử trên đất nước ta, trong đĩ cĩ khoảng 1000 năm in và thư tịch cũng cịn giữ được vài phần, mặc dù được sử dụng thời tự chủ. Nhưng rồi những bất cập khơng vẹn tồn nhưng cũng là cơ sở để cho chúng trong việc sử dụng chữ Hán, cho dù nĩ cĩ sức sống ta nghiên cứu tiếp nối những giá trị từ ngàn xưa mạnh mẽ dai dẳng đến đâu chăng nữa thì cuối cùng của cha ơng ta. Bên cạnh đĩ, việc gìn giữ được kho với tư cách là văn tự ngoại lai, nĩ vẫn tỏ ra lúng ván in tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV – Đà Lạt túng, thậm chí bất lực trước nguyện vọng trực tiếp đã được UNESSCO cơng nhận kho mộc bản của ghi chép, diễn đạt lời ăn tiếng nĩi cùng tâm tư tình Việt Nam trong chương trình ký ức thế giới, điều cảm của người Việt. Chính vì vậy mà chữ Nơm ra đĩ càng chứng tỏ được nghề khắc in đã để lại một đời, chữ Nơm được dựa trên chất liệu của chữ Hán di sản văn hĩa vơ giá cho chúng ta sánh ngang với nhưng để ghi âm, phiên âm các từ thuần Việt như mộc bản của Hàn Quốc, Nhật Bản, là minh chứng tên đất tên làng, địa danh cây cỏ hùng hồn của nước ngàn năm văn hiến. Nĩi như Phan Huy Chú (1782-1840), ơng viết trong lời tựa Trong hàng ngàn năm lịch sử đĩ, biết bao nhiêu thiên Nghệ văn chí sách Lịch triều hiến chương thư tịch đã được khắc in dưới các triều đại. Tuy loại chí đã nhận xét rằng: “Nước Việt ta tiếng khen nhiên, phần lớn các ván in và thư tịch đã bị mất lễ nghĩa đã hơn nghìn năm vốn cĩ thư tịch đã từ mát nhiều. Hiện nay chỉ cịn lại số ít ván in dưới lâu lắm. Kể từ Đinh, Lê dựng nước đối địch với triều Nguyễn được bảo quản tại Đà Lạt với hơn Trung Hoa, mệnh lệnh từ chương dần dần rõ rệt. 150 đầu sách đủ cả các lĩnh vực thao, lược, nhâm, Đến Lý, Trần nối trị, văn vật mở mang, về tham cầm, nho, y, lý, số, nĩi theo kiểu nĩi của người xưa định thì cĩ những sách điển chương điều luật; Về đĩ là theo học thuyết Khổng – Mạnh chủ trương ngự chế thì cĩ các thể chiếu, sắc, thi ca. Trị bình sống nhân nghĩa vị tha chính danh, xây dựng một đời nối, văn nhã đủ điều. Huống chi nho sĩ đời nào xã hội cĩ trật tự kỷ cương bằng nho học như các cũng cĩ, văn chương nẩy nở như rừng; sách vở sách Luận ngữ, Mạnh tử, cùng các sách kinh điển ngày càng nhiều, nếu khơng trải qua binh lửa mà của Nho gia như thi kinh, dịch kinh, thư kinh. hố tro tàn, thì hẳn là trâu kéo phải mệt, nhà chất Ngồi ra, cịn một số ván in khác đang bảo quản ở phải đầy ngang xà. Đến khi nhà Lê dựng nước, Bắc Giang, Hà Nội, Huế, Nghệ An văn hố lại càng thịnh dần, hơn ba trăm năm, chế Khơng chỉ cĩ những đầu sách mang tính giáo tác đầy đủ kỹ càng, văn hiến đứng đầu trung châu dục thời phong kiến, kho sách ván in mộc bản cịn (Trung Quốc), điển chương rộng cả thời đại”. hàm chứa nhiều bộ mang tính học thuật cao gồm (Phan Huy Chú 1992, tr. 63) Số 15, tháng 9/2014 60
- Khoa học Xã hội và Nhân văn 61 Tài liệu tham khảo Hoa, Bằng. 1970. “Kỹ thuật ấn lốt của ta thời xưa”. Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 133, tr 54. Phan, Huy Chú. 1992. Lịch triều hiến chương loại chí. Dịch. Tổ phiên dịch viện Sử học. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, tập 3, tr 63. Châu bản triều Nguyễn (bản chữ Hán) hiện bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, số ký hiệu: quyển 310, số thứ tự 010, tờ số 030. Châu bản triều Nguyễn (bản chữ Hán) hiện bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, số ký hiệu: quyển 275, số thứ tự 056, tờ số133. Châu bản triều Nguyễn (bản chữ Hán) hiện bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, số ký hiệu: quyển 032, số thứ tự 093, tờ số 203. Mai, Hồng, Nguyễn, Hữu Mùi. 1989. “Tìm hiểu nghề in của ta qua kho sách Hán Nơm”. Tạp chí Hán Nơm, số 1, tr 46-55. Henri Oger. Kỹ thuật của người An Nam (DVD). 2009. Hà Nội: EFEO. Quốc sử quán triều Nguyễn. 2002. Đại Nam thực lục. Dịch. Tổ phiên dịch viện Sử học. Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục, tập 1. Quốc sử quán triều Nguyễn. 2002. Đại Nam thực lục. Dịch. Tổ phiên dịch viện Sử học. Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục, tập 2 Quốc sử quán triều Nguyễn. 2006. Đại Nam nhất thống chí. Dịch. Tổ phiên dịch viện Sử học. Huế: Nhà xuất bản Thuận Hố. Quơc sư quan triêu Nguyên. 1993. Minh Mênh chinh yêu. Dich. Ủy ban dịch thuật Bộ Văn hĩa Giáo dục và Thanh niên. Huế: Nhà xuất bản Thuận Hố, tâp 3. Kim, Sơn, Thiền phái Trúc Lâm. 1976. Thiền uyển tập anh. Dịch. Lê Mạnh Thát. Sài Gịn: Nhà xuất bản Đại học Vạn Hạnh. Lê, Quốc Việt Cung, Khắc Lược. 1998. Nghề in và đồ họa sách thời Nguyễn, Thơng báo Hán Nơm học. Hà Nội: Nhà xuất bản Thế Giới. Viện Văn học. 1977. Thơ văn Lý Trần. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, tập 1, tr 18. Số 15, tháng 9/2014 61