Tìm hiểu thiết chế tổ chức ở làng xã đồng bằng Bắc Bộ trong thời kỳ Pháp thuộc

pdf 8 trang hapham 2410
Bạn đang xem tài liệu "Tìm hiểu thiết chế tổ chức ở làng xã đồng bằng Bắc Bộ trong thời kỳ Pháp thuộc", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdftim_hieu_thiet_che_to_chuc_o_lang_xa_dong_bang_bac_bo_trong.pdf

Nội dung text: Tìm hiểu thiết chế tổ chức ở làng xã đồng bằng Bắc Bộ trong thời kỳ Pháp thuộc

  1. Tạp chí Khoa học xã hộiTR ViệtIẾT Nam, - LUẬT số 1(9 8- )TÂM - 2016 LÝ - XÃ HỘI HỌC Tìm hiểu thiết chế tổ chức ở làng xã đồng bằng Bắc Bộ trong thời kỳ Pháp thuộc Nguyễn Thị Lệ Hà * Tóm tắt: Hiện nay, Việt Nam đang tiến hành công cuộc cải cách hành chính và chương trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Bởi vậy, việc nhận thức rõ những di sản lịch sử để lại là cần thiết, từ đó có thể rút ra những bài học kinh nghiệm cho việc giải quyết nhiều vấn đề kinh tế - xã hội ở nông thôn. Việc tìm hiểu thiết chế tổ chức làng xã thời Pháp thuộc là cơ sở khoa học để kế thừa những mặt tích cực và hợp lý, khắc phục những hạn chế, tiêu cực cho việc cải cách hành chính trên địa bàn nông thôn trong điều kiện hiện nay. Bài viết tìm hiểu thiết chế tổ chức làng xã ở đồng bằng Bắc Bộ thời Pháp thuộc trên 2 mặt: tổ chức hành chính và tổ chức xã hội. Từ khóa: Thiết chế tổ chức; Pháp thuộc; Việt Nam. 1. Tổ chức hành chính kỳ mục thực hiện các quyết định, có bộ Trong làng xã Việt Nam cổ truyền, Hội phận chức dịch gồm: Lý trưởng, Phó lý và đồng kỳ mục nắm toàn bộ quyền quyết định Trương tuần (hay xã đoàn). Lý trưởng là và điều hành mọi hoạt động của làng xã người giữ quan hệ giữa làng xã và cấp trên. như phân bổ thuế, sưu dịch, lính tráng, bầu Thời gian đầu khi mới đặt nền đô hộ ở cử tổng lý và thi hành khoán ước phân cấp Việt Nam, chính quyền Pháp đã lợi dụng bộ công điền, sử dụng quỹ làng, bàn việc sửa máy và cơ chế hoạt động sẵn có của Hội chữa, xây dựng đình chùa, trường học, tổ đồng kỳ mục để dễ dàng thực hiện việc cai chức đình đám, khao vọng Tình trạng ẩn trị. Nhưng dần dần chính quyền Pháp thấy lậu về dân đinh và điền thổ vẫn tiếp tục cần phải nắm chắc và kiểm soát chặt chẽ diễn ra dẫn đến sự không kiểm soát được hơn các hoạt động của làng xã, nhất là từ nguồn thu sưu thuế. Thành phần của Hội sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân đồng kỳ mục gồm các cựu quan lại, những dân Việt Nam có xu hướng ngày càng lan người khoa bảng, khoa sinh, ấm sinh, viên rộng ở nông thôn. Bên cạnh đó, bộ máy tử, các cựu chức dịch hàng xã. Quyền lực quản lý làng xã cũ ngày càng tha hóa, yếu của chính quyền Trung ương phải dừng lại kém không đáp ứng được những yêu cầu ở phía ngoài cổng làng “phép vua thua lệ của một đơn vị hành chính cấp cơ sở.(*) làng”. Đứng đầu Hội đồng kỳ mục là Tiên chỉ và Thứ chỉ, tùy theo phong tục của từng (*) Tiến sĩ, Viện Sử học, Viện Hàn lâm Khoa học xã làng mời người có chức tước, phẩm hàm hội Việt Nam. ĐT: 0978139336. hoặc cao tuổi nhất ra làm. Giúp Hội đồng Email: nguyenlehavsh@yahoo.com. 46
  2. Nguyễn Thị Lệ Hà Chính vì vậy, ngày 12 tháng 08 năm đó chấp nhận, thì Hội đồng tộc biểu mới 1921, Thống sứ Bắc Kỳ Monguillot ban hợp pháp và có quyền hoạt động. hành Nghị định số 1949 mang tên Nghị Có thể nói, cơ chế tuyển cử mang lại bộ định chỉnh đốn lại hương hội các xã Bắc mặt dân chủ mới ở làng xã nhưng đồng thời Kỳ. Điểm chủ yếu của Nghị định này là sự cũng đã thủ tiêu địa vị, quyền uy, lợi lộc có thay thế Hội đồng kỳ mục truyền thống từ lâu đời của kỳ mục. Vì vậy, việc thay thế bằng một Hội đồng tộc biểu. Hội đồng tộc Hội đồng kỳ mục bằng Hội đồng tộc biểu biểu có chức năng và quyền hạn giống như đã gây ra sự xáo trộn lớn về nhân sự, tâm Hội đồng kỳ mục, tức là: quản trị mọi mặt lý, tập quán. Vì thế, trong nội bộ làng xã ở đời sống văn hóa, xã hội, tổ chức thi hành Bắc Kỳ đã diễn ra một cuộc tranh giành các mệnh lệnh của chính quyền cấp trên, quyền lực ngấm ngầm, đôi khi công khai phân chia công điền, san bổ sưu thuế, đặt lệ, giữa một bên là Hội đồng tộc biểu mới cầm quản lý các tài sản, xét xử những tranh chấp quyền và một bên là thành viên của Hội dân sự giữa các xã dân, tổ chức các sinh đồng kỳ mục cũ. Tình hình đó buộc Thống hoạt văn hóa cộng đồng theo phong tục tập sứ Bắc Kỳ phải ra quyết định thay đổi lại bộ quán, quản lý các nguồn thu chi của làng máy quản lý làng xã vào năm 1927 nhằm xã. Hội đồng tộc biểu vừa là cơ quan quyết khắc phục những hậu quả do Nghị định định, vừa là cơ quan thi hành các quyết năm 1921 gây ra và bổ sung một số điều định đó thông qua các tộc biểu và bộ phận cần thiết. hành dịch trong làng. Ngoài ra, nghị định Điểm thay đổi cơ bản trong Nghị định này cũng thể hiện rõ việc tăng cường sự chỉnh đốn lại Hội đồng tộc biểu các xã Nam giám sát của nhà nước đối với bộ máy quản dân ở Bắc Kỳ năm 1927 là khôi phục lại lý làng xã, đặc biệt là vai trò của Lý trưởng Hội đồng kỳ mục. Theo Nghị định Hội cũng như sự giám sát trên phương diện tài đồng kỳ mục được tái lập lại nhưng nhiệm chính với việc lập ra ngân sách xã. vụ chỉ là cơ quan tư vấn và giám sát các Bộ máy quản lý làng xã ở đồng bằng hoạt động của Hội đồng tộc biểu. Bắc Bộ từ sau nghị định cải lương hương Ý định của Thống sứ Bắc Kỳ lập lại Hội chính năm 1921 đã có sự khác biệt so với đồng kỳ mục là để khắc phục sự chống đối trước. Chính quyền Pháp đã loại bỏ thể chế cải cách của các kỳ mục kể từ sau năm và con người do chế độ phong kiến tạo lên 1921. Hội đồng tộc biểu mà Pháp gọi là Hội là Hội đồng kỳ mục, và dựng lên một bộ đồng hành chính tuy có tên gọi với dáng vẻ máy quản lý mới là Hội đồng tộc biểu do cơ cổ truyền nhưng là một thiết chế hoàn toàn chế tuyển cử trong các họ. Như vậy, bộ mới với xã thôn Việt Nam. Nó bao gồm chủ máy quản lý làng xã về hình thức do xã yếu các người giàu có trong làng, đại diện dân, quan viên hàng xã bầu ra, nhưng trên cho các dòng họ, phát sinh phát triển cùng thực tế do Công sứ Pháp quyết định. Vì với chế độ thuộc địa Nhưng rõ ràng yếu việc bầu các tộc biểu, Chánh, Phó hương tố mới này bị chống đối, khiến cho chính hội, Thư ký, Thủ quỹ, Lý, Phó trưởng đều quyền Pháp phải tái lập Hội đồng kỳ mục phải được viên Tổng đốc, hay Tuần phủ đại bên cạnh Hội đồng tộc biểu làm một giải diện cho chính quyền Nam triều và Công sứ pháp hòa hợp cũ mới. Biện pháp dung hòa đại diện cho chính quyền Pháp trong tỉnh này bản thân nó tạo ra hình thức chính 47
  3. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 1(98) - 2016 quyền cấp xã một thiết chế “lưỡng đầu nhiên, quyền quyết định cuối cùng vẫn là chế”, do đó tất sẽ phát sinh mâu thuẫn để Công sứ Pháp. giành quyền quyết định cho cấp chính Hội đồng tộc biểu sau 20 năm được chính quyền bên trên. Vì vậy, việc tái lập lại Hội phủ bảo hộ dựng lên đến năm 1941 bị giải đồng kỳ mục trong bộ máy quản lý làng xã thể. Hội đồng kỳ mục được thay thế và trở chỉ tăng thêm sự cồng kềnh, chồng chéo, thành cơ quan duy nhất điều hành mọi công phức tạp trong khi đời sống nhân dân không việc của làng xã với sự giúp việc của các được cải thiện là bao. chức dịch thừa hành đứng đầu là Lý trưởng. Từ năm 1939, bên cạnh tình hình thế Trải qua 3 lần thay đổi bộ máy chính giới và trong nước có sự thay đổi, thì quyền làng xã ở Bắc Kỳ vào các năm 1921, những mâu thuẫn giữa hai hội đồng vẫn 1927 và 1941 phần nào cho thấy sự lúng tiếp tục làm suy yếu năng lực quản lý các túng của chính quyền Pháp sau nhiều lần làng xã, chính quyền Pháp phải tìm cách thay đổi. Tuy nhiên, bằng những lần ra chấn chỉnh lại. Ngày 23 tháng 05 năm Nghị định về cải lương hương chính, chính 1941, vua Bảo Đại đã ra Đạo dụ số 31 về quyền Pháp đã đạt mục đích khi nắm được việc tổ chức và thi hành công việc ở các xã quyền quyết định cuối cùng với bộ máy thôn tại Bắc Kỳ và Đạo dụ này được Toàn quản lý và ngân sách làng xã “để khống chế quyền Đông Dương chuẩn y cho thi hành và điều khiển khối đại đa số quần chúng, ngày 29 tháng 05 năm 1941. Điểm thay đổi làm lợi cho những lợi ích về kinh tế và quan trọng nhất trong Đạo dụ năm 1941 là chính trị của chế độ thuộc địa” [14, tr.87]. giải thể Hội đồng tộc biểu, bãi bỏ hoàn 2. Tổ chức xã hội toàn phương thức bầu cử theo chế độ đầu 2.1. Xóm ngõ phiếu, trở lại với việc sắp đặt thứ bậc trong Làng xã ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ Hội đồng do pháp luật và lệ làng định sẵn. gồm nhiều xóm, ngõ. Mỗi xóm có thể gồm Hội đồng tộc biểu bị giải thể, mọi chức từ 1 đến nhiều ngõ. Xóm không phải là một năng nhiệm vụ chuyển sang Hội đồng kỳ đơn vị hành chính mà chỉ là một địa bàn mục: “Hội đồng kỳ mục quản trị hết thảy chung sống của một số người, cùng đi một việc trong làng. Chức vụ và trách nhiệm lối về nhà, có quan hệ giúp đỡ nhau trong của Kỳ mục theo như các điều 5, 6, 7, 8, 9, sinh hoạt, trong canh tác và trong bảo vệ an trong dụ số 31 ngày 23 tháng 05 năm Bảo ninh. Cư dân trong xóm có quan hệ với tư Đại thứ 16 (1941) mà thi hành. Hội đồng cách là những người láng giềng “tắt lửa tối kỳ mục được thay thế và trở thành cơ quan đèn có nhau”. Họ quan hệ với nhau về mặt duy nhất điều hành mọi công việc của làng tình cảm theo phương châm “bán anh em xa, xã với sự giúp việc của các chức dịch thừa mua láng giềng gần”. Mỗi khi gặp khó khăn hành đứng đầu là Lý trưởng. Có nghĩa vai như mất mùa, đói kém, dịch bệnh và tai nạn trò của Lý trưởng được đề cao hơn trước thì người trong xóm có trách nhiệm giúp đỡ rất nhiều. Số lượng kỳ mục của một làng nhau vượt qua trở ngại, giúp đỡ một cách tự không hạn chế, không phải thông qua bầu nhiên, chứ không phải là nhiệm vụ của họ, cử. Đồng thời, Hội đồng kỳ mục có quyền của làng, của giáp. Ngoài phạm vi bảo vệ an đề cử các lý dịch như Phó lý, Chưởng bạ, ninh, chính quyền quản lý làng xã không can Hộ lại, Thư ký, Thủ quỹ lên quan tỉnh. Tuy thiệp vào mối quan hệ làng xóm. 48
  4. Nguyễn Thị Lệ Hà Cộng đồng xóm, đến ngày nay vẫn còn xã đồng bằng Bắc Bộ giai đoạn trước năm có ý nghĩa quan trọng không chỉ trong cuộc 1945, những người trong họ to thường liên sống hàng ngày mà còn có ý nghĩa quan kết với nhau để nắm lấy các chức vụ trong trọng trong nông nghiệp, đặc biệt là đối với bộ máy quản lý làng xã cũng như quyền những làng có nghề thủ công truyền thống. điều hành việc làng. Số làng chỉ có một họ Chính cộng đồng xóm, một đơn vị bé nhỏ ở đồng bằng Bắc Bộ chiếm số lượng rất ít. nhưng chặt chẽ, đầm ấm đã, đang và sẽ còn Hiện nay, do điều kiện kinh tế phát triển, lâu dài. Vì đây là tổ chức nông thôn gắn vai trò của dòng họ ngày càng được nâng liền với người nông dân kể cả người nông cao. Tuy nhiên, cũng có những mặt hạn chế dân sản xuất hàng hóa. vì trong làng các dòng họ có sự ganh đua 2.2. Dòng họ xây nhà thờ họ to, ngày giỗ họ tổ chức linh Làng xã ở đồng bằng Bắc Bộ, ban đầu là đình, gây tốn kém. địa bàn tụ cư của những người dân theo 2.3. Các giáp quan hệ huyết thống, nhiều gia đình trong Nếu họ là tập hợp tự nhiên những người một họ rủ nhau đi khai phá, sinh cơ lập dân trong làng theo huyết thống thì giáp là nghiệp trên một vùng đất mới. Họ quây một hình thức tổ chức tập hợp theo giới quần sinh sống bên nhau trên một vùng thổ tính, chỉ dành riêng cho nam giới, theo cư, nơi đây trở thành trung tâm của làng, nguyên tắc cha vào giáp nào thì con trai ban đầu còn nhỏ và ít dân. Các gia đình hạt sinh ra cũng vào giáp ấy, không phân biệt nhân (hai thế hệ gồm hai vợ chồng và con nơi cư trú theo xóm ngõ trong làng. Các cái chưa vợ, chưa chồng của họ) ngày càng đinh nam (vừa lọt lòng cho đến những nhiều, dân làng trở nên đông đúc, phạm vi người già) được xếp theo 3 lớp tuổi: từ lọt cư trú ngày càng lan rộng, phân chia thành lòng đến 17 tuổi là hạng dự bị, từ 18 tuổi những xóm, ngõ. Theo thời gian, quan hệ đến 50 tuổi là hạng tráng đinh, từ 50 tuổi huyết thống ngày một nhân rộng, anh em trở lên (có làng từ 60 tuổi) là hạng bô lão. chú bác, chi trên chi dưới ngày càng nhiều. Một làng có nhiều giáp. Chẳng hạn, làng Trong làng có nhiều họ: họ to, họ nhỏ, Tương Mai trước đây thuộc huyện Thanh Trì có họ nhiều người giàu, nhiều ruộng đất, họ có 4 giáp: giáp Đông Thái, giáp Đông Thịnh, nhiều người làm quan đỗ đạt, nắm giữa các giáp Đoài Nhất, giáp Đoài Tiên; làng Ngọc chức sắc trong làng, có thế lực, họ nghèo Trục huyện Từ Liêm có 4 giáp: giáp Đại hèn Thông thường những họ nhỏ thường Thuận, giáp Tiền Hữu, giáp Trung Hậu, giáp bị họ to chèn ép về mọi mặt trong làng như Dương Thịnh; làng Thổ Khối có 6 giáp; làng việc dựng vợ gả chồng cho con “lấy vợ kén Trung Tựu huyện Từ Liêm có 2 giáp Số tông, lấy chống kén giống”, bị thua kém lượng giáp trong làng không cố định ít nhất trong hưởng thụ quyền lợi được chia như 2 giáp và nhiều nhất lên tới 18 giáp. Việc đặt công điền công thổ, bị gánh vác nặng hơn tên giáp cũng không theo nguyên tắc nào, các nghĩa vụ trong làng. Những điều khoản tùy theo từng làng mà có tên gọi khác nhau. bầu cử về tộc biểu trong chính sách cải Ở một số làng, số họ nhiều nhưng số giáp ít, lương hương chính năm 1921 của chính một giáp có thể gồm nhiều họ. quyền Pháp ở Bắc Kỳ lại tạo thêm sức Trong giáp, mối quan hệ giữa các thành mạnh cho những dòng họ to. Vì số tộc biểu viên vừa là quan hệ họ hàng, vừa là quan hệ được tính theo họ. Cho nên, ở một số làng xóm làng, nhưng mối quan hệ chính là theo 49
  5. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 1(98) - 2016 lớp tuổi. Trong giáp, các thành viên được Trong giáp địa vị của mỗi người là do xếp theo lớp tuổi. Mỗi lớp tuổi là một nấc lớp tuổi của người đó tự xếp hạng, việc tôn tiến thân, có địa vị, có quyền lợi và nghĩa trọng người nhiều tuổi hơn được thể hiện vụ nhất định được kính trọng dần dần theo trong các bàn trưởng và lềnh, người nhiều tuổi càng ngày càng cao. Bé trai dưới 18 tuổi nhất đương nhiên làm giáp trưởng, thu tuổi mới là thành viên dự bị, chưa có nghĩa xếp mọi việc trong giáp. Việc tôn trọng vụ nặng nề. Khi đến 18 tuổi, nam thanh người theo tuổi còn được thể hiện trong chỗ niên được ghi tên vào sổ đinh của giáp (và đứng khi tế thần và chiếu ngồi khi ăn cỗ sau của làng); là thành viên chính thức của tế lễ. giáp, có một vị trí nhất định trong hệ thống 2.4. Các nhòng các cấp bậc của tổ chức ấy; có một chỗ ngồi Bên cạnh hình thức tổ chức giáp, những trên một chiếu nhất định qua mỗi kỳ họp công dân nam trong làng khi ra đình tế lễ giáp, dù họp để bàn bạc hay để ăn uống. Và thần thánh và ăn cỗ, được sắp xếp vào trong thành viên đó cũng phải có nghĩa vụ, trước các nhòng, có nơi gọi là dòng, dõng. Tùy hết là đóng góp tiền gạo cho giáp mỗi khi từng làng khác nhau mà chia thành 3, 4 có việc làng, sau đó tham gia làm thịt lợn, hoặc 5 nhòng, những hạng người nào được đồ xôi, nấu nướng, bưng mâm Chức năng xếp trong nhòng nào cũng khác nhau. phục vụ tập thể ấy cũng sẽ được nâng cao Hương ước làng Thanh Trì tỉnh Hà Đông dần theo tuổi tác. Ngoài ra, phải thực hiện chia làm 3 nhòng. Hương ước làng Tây Mỗ, các nghĩa vụ đi tuần trong làng, đi phu cho huyện Từ Liêm, tỉnh Hà Đông chia làm 4 hàng xã, hàng huyện và đi lính cho nhà nhòng và lệ vào các nhòng: ba nhòng là Tư nước Mối quan hệ trong giáp đã ràng Văn, Hòa Nhạc, Trạ (Hương ước làng Tây buộc các thành viên phải theo đúng thứ bậc Mỗ, huyện Từ Liêm, tỉnh Hà Đông). Người của mình trong giáp và trong họ 3 nhòng này là những người có thứ vị ở Trên thực tế, giáp là một hình thức tổ trong đình, trực tiếp hương ẩm ở đình. chức tồn tại lâu bền, vững vàng, có tổ chức, Ngoài ra còn có nhòng Lão. có người điều hành, có cơ sở kinh tế để tồn Qua tài liệu hương ước nhòng ở làng có tại, đóng một vai trò quan trọng trong sinh những tên gọi khác nhau: nhòng tư văn, hoạt làng xã ở nông thôn đồng bằng Bắc nhòng hòa nhạc, nhòng trạ, nhòng quan Bộ. Điều này được thể hiện rõ ràng trong viên, nhòng hương dịch, nhòng hương lão, tài liệu hương ước. Trong các điều khoản nhòng chức sắc, nhòng bên tả, nhòng bên của hương ước quy định rõ trong sinh hoạt hữu, nhòng bản binh Tên gọi không giống làng xã, với tổ chức theo giới có quy củ, thứ nhau và những người được xếp hạng trong bậc, chặt chẽ, có thể lệ khi vào giáp, khi lên nhòng thì hầu hết là những nam công dân lão, một phần để thực hiện tín ngưỡng cho có chức tước, phẩm hàm khoa mục, hiếm giới (cả nam và nữ), một phần để thực hiện thấy trong nhòng có người là nhiêu nam nghĩa vụ với tập thể, đóng một vai trò chủ hay bạch đinh. Việc phân chia những người yếu trong mọi sinh hoạt trong làng. Có thể có chức sắc và phẩm hàm vào từng nhòng nói, chính quyền Nam triều và chính quyền cũng không giống nhau. Có nơi trong Pháp đã lợi dụng tổ chức giáp ở mỗi làng để nhòng cũng lại phân chia ra chiếu cạp đỏ, bắt làng xã thực hiện các nghĩa vụ đối với chiếu cạp xanh và chiếu trung hoặc là chiếu nhà nước. trên và chiếu dưới. 50
  6. Nguyễn Thị Lệ Hà Có thể nói, nhòng đem lại cho những tuổi có biết chữ và không can khoản gì, thì thành viên trước hết là vinh dự nơi đình được dự vào hội tư văn gọi là nhiêu tế, trung và sau đó là quyền lợi vì “một miếng phải vọng 60 đồng” (Điều 50, Hương ước giữa làng bằng một sàng xó bếp”. Nhòng làng Phúc Xá, tổng Phúc Lâm, huyện Hoàn thực sự là một hình thức hữu hiệu để củng Long, tỉnh Hà Đông). cố trật tự vì được xếp người trên người Hội tư văn có ảnh hưởng đến nhiều mặt dưới, kỷ cương trong xóm làng, duy trì và trong sinh hoạt của làng xã, nhất là về đời củng cố ý thức hệ phong kiến đến tận cơ sở sống tinh thần. Những việc của làng như tổ xóm làng. Giữa các giáp và các nhòng trong chức hội làng, hiếu, hỉ, hay cả việc đặt tên làng không có liên quan gì với nhau, số con, làm nhà đều có hỏi ý kiến của Hội tư giáp nhiều hay ít tùy thuộc vào số họ và số văn. Thành viên của Hội là những người dân trong làng nhiều hay ít. Còn nhòng là thấm nhuần giáo lý Nho giáo, là nòng cốt nơi để sắp xếp những người có địa vị xã trong việc duy trì những phong tục, nghi lễ, hội, ngôi thứ trong làng, số nhòng nhiều là trụ cột tinh thần trong làng. Tuy nhiên, hay ít tùy thuộc vào sự phân hóa địa vị của thành viên chủ chốt của Hội tư văn lại là người dân trong làng (những người này những người có chân trong các Hội đồng kỳ cũng là thành viên của các giáp) do Hội mục, tộc biểu và là chức dịch quản lý điều đồng kỳ mục hay Hội đồng kỳ hào đặt ra từ hành mọi mặt sinh hoạt của làng xã, do đó xưa dưới thời phong kiến. có thể nói ở một mặt nào đó Hội tư văn Giáp có giáp trưởng còn nhòng không có cũng là một hậu thuẫn cho tầng lớp thống nhòng trưởng, nhòng không có sinh hoạt, trị trong làng xã. không có tổ chức dân có địa vị xã hội gần 3. Kết luận như nhau ở chốn đình trung khi ra đình tế Thiết chế tổ chức làng xã ở đồng bằng thần và ăn cỗ, khi đó những người trong Bắc Bộ được kết hợp chặt chẽ, nhuần nhòng đều thuộc ai là người đứng đầu của nhuyễn, có sự tương trợ giúp đỡ lẫn nhau. một nhòng và ai là người đứng cuối cùng Đó là tổ chức cuối cùng trong bộ máy chính trong nhòng. quyền thuộc địa, có vai trò quyết định mọi 2.5. Hội tư văn việc về thuế khóa, ruộng đất, binh dịch Trong các làng xã ở đồng bằng Bắc Bộ Bộ máy quản lý làng xã thường là những thường có nhiều tổ chức xã hội khác nhau người có học thức và được dân làng tín như hội, phường, phe nhưng có ảnh hưởng nhiệm, hợp với phong tục tập quán của làng nhiều hơn cả về mặt tinh thần là Hội tư văn xã. Người dân sẽ phản ứng lại bộ máy quản cũng có nơi gọi là ban tư văn, nhòng tư văn, lý làng xã do chính quyền cấp trên chỉ định. phe tư văn Thực tế đã chứng minh điều đó, khi chính Hội tư văn gồm những người có học quyền Pháp với tham vọng muốn nắm (trước là Nho học) và sau này là theo Tây quyền quyết định từ trung ương xuống cấp học. Ngoài ra Hội tư văn còn gồm các thấp (nhất là làng xã) bằng cuộc cải cách chức sắc trong làng. Khi thực hiện chính lần thứ nhất năm 1921, bằng cách lật đổ sách cải lương hương chính, thành phần Hội đồng kỳ mục thay bằng Hội đồng tộc tham gia trong Hội tư văn còn được mở biểu. Nhưng kết quả đã không được như rộng hơn vì “những người trong làng từ 30 chính quyền Pháp mong muốn. Chính 51
  7. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 1(98) - 2016 quyền Pháp phải thỏa hiệp bằng cách cho [3] Nguyễn Quang Ngọc (2009), Một số vấn khôi phục lại Hội đồng kỳ mục với tư cách đề về làng xã Việt Nam, Nxb Chính trị tư vấn và giám sát Hội đồng tộc biểu. quốc gia, Hà Nội. Nhưng sau 20 cải cách, chính quyền Pháp [4] Nam Cổ Trần Duy Nhất (1923), “Sự biến lại quay lại điểm xuất phát ban đầu chỉ còn đổi của hương thôn từ xưa đến nay”, Nam lại Hội đồng kỳ mục. Phong, số 76. Các thiết chế tổ chức làng xã ở đồng [5] Viện Sử học (1990), Nông dân và nông bằng Bắc Bộ thời Pháp thuộc gồm xóm, thôn Việt Nam thời cận đại, t.1, Nxb Khoa ngõ, dòng họ, giáp, hội đồng kỳ mục, lý học xã hội, Hà Nội. dịch. Xóm ngõ là đơn vị tổ chức bảo vệ an [6] Nghị định chỉnh đốn lại hương hội các xã ninh cộng đồng. Giáp là tổ chức tập hợp Annam ở Bắc Kỳ (1922), Nhà in Kim Đức theo giới (chủ yếu là cho nam giới). Các Giang, Hà Nội. điều khoản về giáp trong hương ước cải lương quy định rất rõ ràng vị trí quan trọng [7] Nghị định chỉnh đốn lại hương hội các xã của giáp. Vai trò dòng họ chỉ được nhấn Annam ở Bắc Kỳ. Quy thức về sự lập sổ mạnh khi chính sách cải lương hương chính chi thu hàng xã và việc thực hành sổ ấy của chính quyền Pháp được ban hành vào (1924), Nhà in Kẻ Sở, Hà Nội. năm 1921, thay thế Hội đồng kỳ mục bằng [8] Nghị định và lời chỉ dẫn việc tổ chức Hội đồng tộc biểu. hương hội và lập các sổ thu chi trong các Các tổ chức xã hội ngày càng được hoàn xã ở Bắc Kỳ, Trích lục ở Bắc Kỳ quan báo thiện, phát huy vai trò đáng kể trong làng (1924), Nhà in Kẻ Sở, Hà Nội. xã, bảo đảm trật tự trị an, không gây rối [9] Nghị định chỉnh đốn lại Hội đồng tộc biểu loạn. Hương ước được coi gần như cương các xã Nam dân ở Bắc Kỳ, Nguyễn Văn lĩnh, là chỗ dựa cho làng xã vận hành không Tuyển dịch, Lê Văn Phúc (1927), Nhà in bị vướng mắc. Chính vì vậy, mọi việc diễn Tonkinois, Hà Nội. ra từ thu thuế đến các công việc lễ hội trong [10] Nghị định quan Toàn quyền ngày 21 làng diễn ra tương đối suôn sẻ. Hiện nay, Juillet 1939 dọn lại các thể lệ về việc cử nước ta đang tiến hành công cuộc cải cách đại biểu nhân dân bản xứ tại các Hội nghị hành chính và chương trình công nghiệp ở Bắc Kỳ (1939), Phạm Huy Lục dịch, hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. H.Impr de Ha Noi. Do vậy nghiên cứu thiết chế tổ chức làng xã [11] Henry Cucherousset (1924), Xứ Bắc Kỳ đồng bằng Bắc Bộ là việc làm cần thiết ngày nay, Éditions de L’Éveil Économique nhằm kế thừa những mặt tích cực và tránh Hà Nội, Trần Văn Quang dịch. những mặt còn hạn chế trong việc xây dựng Quy ước mới ở nông thôn hiện nay. [12] Thông tư về sự thi hành hai đạo nghị định ngày 25 tháng 1 năm 1927 chỉnh đốn lại Tài liệu tham khảo các xã Nam dân ở Bắc Kỳ (1927), Nhà in [1] Nguyễn Thế Anh (1971), Việt Nam thời Tonkinois, Hà Nội. Pháp đô hộ, Nxb Lửa thiêng, Sài Gòn. [13] Tạ Thị Thúy (Chủ biên) (2013), Lịch sử [2] Bùi Xuân Đính (1985), Lệ làng phép Việt Nam, t.8: từ năm 1919 đến năm 1930, nước, Nxb Pháp lý, Hà Nội. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 52
  8. Nguyễn Thị Lệ Hà 53