Tín ngưỡng của các dân tộc thiểu số ở miền núi phía bắc Việt Nam
Bạn đang xem tài liệu "Tín ngưỡng của các dân tộc thiểu số ở miền núi phía bắc Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- tin_nguong_cua_cac_dan_toc_thieu_so_o_mien_nui_phia_bac_viet.pdf
Nội dung text: Tín ngưỡng của các dân tộc thiểu số ở miền núi phía bắc Việt Nam
- THÔNG TIN - TƯ LIỆU KHOA HỌC Hoàng Thị Lan Tín ngưỡng của các dân tộc thiểu số ở miền núi phía bắc Việt Nam Hoàng Thị Lan * Tóm tắt: Khu vực miền núi phía bắc Việt Nam có cộng đồng dân cư khá đa dạng, gồm hơn 30 dân tộc; trong đó đồng bào các dân tộc thiểu số chiếm hơn 60% dân số. Đồng bào các dân tộc thiểu số ở khu vực này có đời sống tâm linh, tín ngưỡng khá phong phú đa dạng. Đa phần các tộc người thiểu số ở khu vực đều theo tín ngưỡng đa thần. Mỗi dân tộc thiểu số có những sắc thái riêng trong sinh hoạt tín ngưỡng, song có thể nhận diện đời sống tín ngưỡng của đồng bào qua một số loại hình, như: thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng liên quan đến cộng đồng, tín ngưỡng liên quan đến tự nhiên, tín ngưỡng liên quan đến sản xuất và tín ngưỡng liên quan đến vòng đời người. Từ khóa: Tín ngưỡng; dân tộc thiểu số; khu vực miền núi phía bắc. 1. Mở đầu 2. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên Khu vực miền núi phía bắc của Việt Thờ cúng tổ tiên là một tín ngưỡng, một Nam bao gồm các tỉnh Sơn La, Điện Biên, tập tục truyền thống có vị trí hết sức đặc Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Hoà Bình, biệt trong đời sống tinh thần của nhiều cộng Tuyên Quang, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng đồng dân tộc trên thế giới. Ý thức “con Sơn, Bắc Giang và khu vực phía Tây Thanh người có tổ, có tông” được bảo tồn trong Hóa, Nghệ An. cõi tâm linh và lưu truyền từ thế hệ này Khu vực này có cộng đồng dân cư khá sang thế hệ khác với niềm tin rằng tổ tiên đa dạng, gồm hơn 30 dân tộc khác nhau, mình thiêng liêng, đi vào cõi vĩnh hằng như: Kinh, Thái, Mường, Mông, Dao, Tày, nhưng vẫn ở bên cạnh con cháu, phù hộ cho Nùng, Khơ Mú, Giáy, Hà Nhì, Lào, Lự, con cháu khi gặp tai ương, khó khăn; vui Cống, Si La, Sán Dìu, trong đó, đồng bào mừng khi con cháu gặp may mắn, khuyến các dân tộc thiểu số chiếm hơn 60% dân số, khích cho con cháu khi gặp điều lành và với các dân tộc thiểu số đông dân, bao gồm: cũng quở trách con cháu khi làm những Tày, Thái, Mường, Mông, Nùng, Dao. điều tội lỗi (*) Đồng bào các dân tộc thiểu số ở khu vực Ở Việt Nam, thờ cúng tổ tiên là tín miền núi phía bắc có đời sống tâm linh, tín ngưỡng phổ biến không chỉ ở người Kinh ngưỡng khá phong phú đa dạng. Đa phần mà còn được lưu giữ trong một số cộng các tộc người thiểu số đều theo tín ngưỡng đa thần. Có thể khái quát một số loại hình (*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Viện Tôn giáo, Tín ngưỡng, tín ngưỡng của đồng bào các dân tộc thiểu Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. ĐT: số ở khu vực miền núi phía bắc như sau: 0912670204. Email: hoanglantghv@gmail.com. 107
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 3(100) - 2016 đồng các tộc người thiểu số. Với người tiên không rõ nét như cộng đồng người Mường, thờ cúng tổ tiên là hình thức tín Kinh, người Mường và một số dân tộc ngưỡng phổ biến. Trong gia đình người khác. Người Mông không lập bàn thờ tổ Mường, bàn thờ tổ tiên được đặt ở nơi trang tiên, cũng không cúng giỗ tổ tiên giống như trọng nhất, đó là gian voóng (gian khách), người Kinh. Lễ cúng tổ tiên chỉ được người đây là nơi linh thiêng nên kiêng kỵ không Mông thực hiện mỗi khi gia đình có công được nằm hướng chân về phía bàn thờ từ tất việc hệ trọng như lễ cưới, lễ cơm mới, tết cả các phía trong nhà. Giống như người dân tộc Mỗi khi cần cúng lễ tổ tiên, người Kinh, việc thờ cúng tổ tiên ở người Mường Mông mới lập bàn thờ. Bàn thờ tổ tiên có do con trai trưởng của gia đình thực hiện. thể là 1 chiếc bàn, ghế dài đặt ngay dưới Người Mường không cúng giỗ tổ tiên, ông bàn thờ thần bảo hộ gia đình (chính giữa bà, cha mẹ vào ngày mất hàng năm mà chỉ nhà). Tổ tiên, theo quan niệm của đa số các cúng vào ngày 29, 30 và sáng sớm mùng gia đình, dòng họ Mông là tổ tiên 3 đời trực một tết Nguyên Đán. Ở một số địa phương hệ (một số ít dòng họ thờ tổ tiên đến 5 đời nơi người Mường sống tiếp giáp với người như dòng họ Thào). Kinh, hiện nay người Mường cũng tổ chức Đối với tộc người Thái, tín ngưỡng thờ cúng giỗ tổ tiên giống như người Kinh, cúng tổ tiên ở mỗi gia đình, dòng họ được nhưng nếu người Kinh lấy ngày chết của tổ thể hiện khá rõ nét. Trong quan niệm của tiên làm ngày giỗ thì người Mường lấy người Thái, con người là sự kết hợp của thể ngày đưa người chết đi chôn làm ngày giỗ. xác và linh hồn. Khi người chết thì hồn sẽ Người Mường thờ tổ tiên trong vòng 4 đời. biến thành ma (phi). Trong thế giới vạn vật Hiện nay, có nơi người Mường cúng giỗ 4 hữu linh của người Thái có rất nhiều loại đời tổ tiên vào các ngày giỗ khác nhau, ma cai quản khắp nơi, nhưng với người chết nhưng cũng có nơi, cả 4 đời tổ tiên của thì ma sẽ được cúng đưa về trú ngụ ở 3 nơi, người Mường đều có chung một ngày giỗ đó là ma nhà (phi hươn), ma ở mộ (phi pá đó là ngày chôn của người chết cuối cùng heo) và ma tổ tiên dòng họ ở trên trời (phi trong 4 đời. đẳm mường phạ, mường Then). Theo tập Với người Mông, cũng giống như các quán, vào dịp tết cơm mới (tết lớn nhất dân tộc thiểu số khác ở khu vực miền núi trong năm diễn ra vào khoảng tháng 10 âm phía bắc, người Mông có đời sống văn hóa, lịch), tất cả các gia đình người Thái đều làm tín ngưỡng khá phong phú. Sự đa dạng về lễ cúng lên tổ tiên vì họ cho rằng, mùa văn hóa, tín ngưỡng trong cộng đồng người màng có được bội thu là nhờ một phần công Mông được thể hiện trong từng gia đình, lao của tổ tiên đã phù hộ. Ngoài ra, lễ cúng dòng họ qua cách thờ cúng, kiêng kỵ và tổ tiên còn được thực hiện vào dịp tết những quan niệm khác nhau về thế giới tâm nguyên đán hằng năm. linh. Tuy nhiên, sự tương đồng trong sinh Với người Tày, thờ cúng tổ tiên là hình hoạt văn hóa, tín ngưỡng của các dòng họ thái tín ngưỡng tiêu biểu nhất trong đời người Mông thể hiện rõ trong tín ngưỡng sống tâm linh. Trong gia đình người Tày, thờ cúng tổ tiên. Trong cộng đồng người bàn thờ tổ tiên được đặt ở nơi trang trọng Mông, ý thức về tổ tiên và sự thờ cúng tổ nhất, chính giữa của mỗi nhà. Cũng giống 108
- Hoàng Thị Lan như người Kinh và người Mường, thờ cúng Người Thái ngoài thờ cúng ma nhà, ma tổ tiên là trách nhiệm của con trưởng trong tổ tiên, còn thờ cúng ma bản, mường. Theo gia đình người Tày. Người Tày cúng lễ tổ quan niệm của người Thái, ma bản, mường tiên vào các dịp lễ, tết và mỗi tháng 2 lần là một thể thống nhất bao gồm linh hồn của vào ngày mùng một và ngày rằm âm lịch. tất cả mọi thành viên trong cùng một đơn vị Với người Nùng, thờ cúng tổ tiên cũng cư trú là bản hoặc mường, trong đó, linh được thực hiện trong từng gia đình, không hồn của người đầu tiên có công “khai sơn, phân biệt gia đình đó thuộc chi trưởng hay phá thạch” lập ra bản hoặc mường được coi chi thứ. Sau khi bố mẹ qua đời, vong linh là linh hồn chủ. Ngoài ra phi bản, mường được rước về thờ tại nhà của các con. còn bao gồm cả nhiều thế lực siêu nhiên Giống như nhiều dân tộc khác, bàn thờ tổ khác, đó là những ma chủ đất, ma chủ nước tiên trong gia đình người Nùng được đặt ở và nhiều loại ma khác cùng tồn tại trong nơi trang trọng nhất, thường ngang với sàn phạm vi bản, mường. Do vậy, nói đến phi nhà ở gian giữa, nằm giữa 2 cột chính. Tổ bản, phi mường thực chất là nói đến linh tiên được người Nùng cúng lễ mỗi tháng 2 hồn của toàn bản, mường. Cho nên, cũng có lần, vào ngày rằm và mùng một và vào các thể hiểu ma bản, mường là những vị thần dịp lễ, tết hàng năm. Tổ tiên trong quan trông coi và bảo vệ cho cuộc sống của con niệm của người Nùng không phân biệt bao người, đồng thời là những vị thần bảo vệ nhiêu đời, từ bố mẹ trở lên đều được thờ tại cho tất cả núi, rừng, đồng ruộng trong vùng, bàn thờ của gia đình. cũng như các loại động thực vật sống ở Thờ cúng tổ tiên cũng được người Dao trong đó [7, tr.378 - 401]. Xuất phát từ đặc biệt quan tâm. Người Dao thờ tổ tiên những quan niệm trên, mỗi bản hay mường trong 5 đời trực hệ. Trong nhà bất cứ người của người Thái bao giờ cũng có một đền Dao nào (đặc biệt là Dao đỏ), dù nghèo thờ ma bản, ma mường được xây dựng ở túng cũng phải có bàn thờ tổ tiên. Tổ tiên cạnh một khu rừng đầu bản, mường. trong quan niệm của người Dao được coi Người Mường có một hệ thống tín như thần bản mệnh, vì vậy trong gia đình ngưỡng liên quan đến cộng đồng khá phong mỗi khi có công việc lớn như cưới xin, làm phú như thờ Quốc Mẫu Vua Bà, thờ thần nhà, ốm đau họ đều cầu cúng để tổ tiên núi Tản Viên, thờ thần đất, thờ thành hoàng phù hộ. Ngoài ra, người Dao thường thờ làng [1, tr.224 - 232]. Quốc Mẫu Vua Bà là cúng tổ tiên vào dịp từ 25 tháng 12 đến 15 vị thần được tôn thờ và được đặt ở vị trí tháng giêng với ý nghĩa mời tổ tiên về ăn trang nghiêm nhất trong các thần điện công tết cùng con cháu sau một năm lao động và cộng ở nhiều địa phương người Mường. mong tổ tiên phù hộ cho một năm mới mùa Theo truyền thuyết lưu truyền trong dân màng bội thu. gian, Vua Bà chính là mẹ của thần Tản 3. Tín ngưỡng liên quan đến cộng đồng Viên, bà đã chia tay chồng đem theo các Ngoài thờ cúng tổ tiên trong gia đình, con đi mở mang, khai phá vùng thượng dòng họ, đồng bào các dân tộc thiểu số ở nguồn sông Đà, lập nên các vùng đất khu vực miền núi phía bắc còn có một số Mường Bi, Mường Vang, Mường Thàng, tín ngưỡng chung của cộng đồng. Mường Động, Mường Âm, Mường Lão. 109
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 3(100) - 2016 Thần núi Tản Viên được người Mường việc được thờ trong các gia đình, dòng họ tôn kính gọi là Bua Thơ, Pua Ba Vi (vị vua còn được thờ chung ở các đền thờ công ở núi Ba Vì), được thờ khá phổ biến trong cộng của bản, mường. các gia đình người Mường và được thờ 4. Tín ngưỡng liên quan đến tự nhiên làm thành hoàng ở nhiều bản, mường của Đồng bào các dân tộc thiểu số ở khu vực người Mường. Các đền, miếu thờ Thần miền núi phía bắc hiện vẫn còn tôn thờ rất Tản Viên của cộng đồng thường được lập nhiều các hiện tượng tự nhiên. Theo quan ở trung tâm các Mường, lễ hội thờ cúng niệm của người Thái, bất cứ chỗ nào trong Tản Viên được tổ chức hàng năm với tự nhiên cũng được coi là có ma. Các ma nhiều nghi thức đặc sắc. làm chủ theo từng địa vực mà chúng quản Tín ngưỡng thờ thành hoàng làng cũng lý và cứ ma nào đến trước, ma đó sẽ là chủ là một loại hình tín ngưỡng phổ biến của và có quyền cai quản khu vực đó. Có thể kể người Mường, đây là vị thần bảo trợ, che ra một số loại ma tương đối phổ biến được chở cho bản mường. Thành hoàng mường người Thái thờ phụng như: ma chủ đất là có thể là một hay nhiều vị thần được thờ tại ma cai quản ở một khu đất nhất định; ma quán, miếu hay các đền thờ. Ngoài Đức nương là ma trông coi một khu rừng; ma thánh Tản Viên - nhân vật nổi tiếng được ruộng là ma cai quản các cánh đồng; ma thờ làm thành hoàng làng ở khắp các vùng nghĩa địa là linh hồn của con người sau khi người Mường, ở các địa phương khác nhau chết; ma đón là loại ma chuyên gây đau có các vị thần khác nhau được tôn làm bụng; ma cây đa là ma ngụ ở chỗ nhánh rễ thành hoàng làng. phụ của cây đa; ma thuồng luồng là loại ma Cũng giống như nhiều dân tộc thiểu số sống ở những vũng nước sâu của các con khác trong khu vực, người Tày, người Nùng sông lớn; ma suối là loại ma có rất nhiều ở cũng có những tín ngưỡng chung của cộng các khe suối sâu đồng. Trong phạm vi thôn bản, người Tày Tương tự như người Thái, người Mường thờ thổ công (Cốc bản), thổ địa, thờ các vị cũng tôn thờ rất nhiều hiện tượng tự nhiên thánh trong vùng mà họ gọi là thấn (thần), như thờ thần đất, thờ đá, thờ quả, thờ cây. đây là các vị thần chung của bản, mường, là Hầu hết các gia đình người Mường đều lập người bảo vệ cho làng bản, mùa màng (có bàn thờ thần đất ở trước sân hoặc ở đầu hồi nhiều cách gọi tên các vị thần bản, mường nhà. Người Mường còn thờ những hòn đá như: Mường Pha Hán, Man Phia Tiên, có hình thù kỳ lạ, thờ các loại quả như bầu, Nàng tiên chúa Ngọc Cần ). Các vị thần bí. Ngoài ra, các loài cây như cây mía, cây chung của cộng đồng được người Nùng lúa, cây si, cây chu đồng, cây đa, cây gạo cúng lễ vào dịp tết Nguyên đán và mùa cũng được người Mường thờ cúng. Đặc xuân hàng năm. biệt, cây si, cây chu đồng xuất hiện rất sớm Người Dao có tục thờ Bàn Hồ là nhân trong các tác phẩm văn học dân gian vật huyền thoại, được coi là thủy tổ của dân Mường, điển hình như mo đẻ đất, đẻ nước, tộc Dao, được nhắc tới trong truyện kể dân hoặc thường xuyên xuất hiện trong các lễ gian, thần tích và các truyện thơ. Giống như thức quan trọng của vòng đời người. thần núi Tản Viên của người Mường, Bàn Người Mường còn thờ các loài động vật Hồ hay Bàn Vương của người Dao ngoài như hổ, báo, hươu, nai và các vật nuôi trong 110
- Hoàng Thị Lan nhà như trâu, bò, lợn, gà Các bài mo trong trọng, tôn sùng cây lúa và đã hình thành đám tang cổ truyền có những đoạn kể tạ ơn nên tín ngưỡng với hàng loạt các nghi lễ thờ các con vật đã gắn bó thân thiết với con cúng vía lúa. Ngoài ra, người Mường còn người. Bên cạnh đó, người Mường còn thờ có tín ngưỡng trong săn bắt và đánh cá với cóc (chàng hạc) là loài đã có công gọi mưa, những nghi lễ nhất định nhằm cầu xin thần thờ mó nước (vó rác), thờ thần mưa (ma rừng, thần núi, thần sông suối phù hộ cho khú) với mong muốn mưa thuận gió hòa để việc săn bắt và đánh cá gặp nhiều thuận lợi. việc trồng cấy, canh tác được thuận lợi Người Thái, người Tày, người Nùng, Người Mông, người Nùng, người Pu người Dao, người Sán Chỉ, người Hà Nhì, Péo ở một số địa phương trong khu vực người Giáy đều tin vạn vật có linh hồn, thờ thần rừng với những truyền thuyết cổ tin có các vị thần hỗ trợ cho mùa màng sản xưa về sự linh thiêng của những khu rừng xuất, vì vậy, hàng năm, vào mùa xuân cấm, rừng thiêng và hiện vẫn còn những (trước vụ mùa sản xuất), đồng bào các dân khu rừng cấm có địa thế đẹp trong bản, tộc nói trên đều có những nghi lễ xuống mường với những quy định “bất khả xâm đồng (còn gọi là lễ hội lồng tồng, lễ cầu phạm” cùng lễ hội cúng thần rừng độc đáo mùa) nhằm cầu xin thần linh phù hộ cho được tổ chức hàng năm. một mùa màng thuận lợi, bội thu, vạn vật 5. Tín ngưỡng liên quan đến sản xuất phong đăng, phồn thực. Một số dân tộc như Đa phần các dân tộc thiểu số ở khu vực người Thái, người Lô Lô còn có các nghi lễ miền núi phía bắc Việt Nam đều sinh sống cầu mưa vào những năm hạn hán nhằm cầu bằng nghề trồng trọt, chăn nuôi. Vì vậy các mong các vị thần phù hộ cho trời đất mưa loại hình tín ngưỡng liên quan đến sản xuất thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, mong nông nghiệp có mặt trong đời sống tôn cho cuộc sống của người dân được đầy đủ giáo, tín ngưỡng của hầu hết đồng bào. 6. Tín ngưỡng liên quan đến vòng đời Người Mường với hoạt động kinh tế chủ Nghi lễ vòng đời là những nghi lễ thể yếu là kinh tế nông nghiệp lúa nước, vì vậy, hiện tín ngưỡng liên quan đến cá nhân con người Mường có một hệ thống các nghi lễ người từ khi sinh ra đến khi chết. Nghi lễ tín ngưỡng liên quan đến mùa màng theo vòng đời người là nghi lễ mà gia đình, tộc chu kỳ sinh trưởng của cây lúa như: tín họ, cộng đồng thực hiện cho mỗi con người ngưỡng thờ thần nông nghiệp vua Dol, tín qua các giai đoạn như sinh nở, trưởng ngưỡng vía lúa. Trong các bài văn tế của thành, lễ hỏi, cưới, chữa bệnh, tang ma người Mường, thần nông nghiệp gọi là Cun Các dân tộc thiểu số ở khu vực miền núi Không Dol, dân gian gọi là Cul Khôồng, phía bắc Việt Nam có một hệ thống các nghi tên nôm là chàng Quây nước mạ. Trước lễ vòng đời rất đa dạng, phong phú. Mỗi dân mỗi khi bắt đầu một mùa vụ mới, gia đình tộc đều có những kiêng kỵ và những lễ nghi phải làm lễ cúng Cun Khôồng để vị thần nhất định xoay quanh các mốc thời gian nông nghiệp này bảo trợ cho hạt giống phát quan trọng trong chù kỳ của một đời người triển, mùa màng tươi tốt. Trồng cấy lúa từ khi sinh ra cho đến khi chết. nước là hoạt động kinh tế chủ yếu và cây Giai đoạn sinh nở, với đa phần các dân lúa là cây lương thực chính của người tộc thiểu số ở khu vực miền núi phía bắc, Mường, do đó, người Mường đặc biệt coi người phụ nữ phải kiêng kỵ rất nhiều thứ: 111
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 3(100) - 2016 phụ nữ Mường khi mang thai phải kiêng dân tộc đều trải qua các bước cơ bản như: không ăn ốc, không uống nước đựng trong dạm ngõ, ăn hỏi, lễ cưới. ống bương chặt vát đầu, không ăn cá Lễ dạm ngõ của đồng bào các dân tộc nướng, cá nấu canh, không được dẫm chân thường có các ông mối, bà mối (là người tốt, lên vỏ cây dùng làm quan tài, không ngồi ở tinh thông tục lệ, giỏi giang việc giao dịch, bậc thang lên sàn nhà, không bước qua dây gia đình hạnh phúc, đông con, nhiều cháu) là buộc trâu, không được tham gia vào các lễ người thay mặt nhà trai đến đặt vấn đề với hội và các nghi thức cúng tế của làng, xóm, nhà gái (người Thái, người Mường, người không được sinh con ở nhà mẹ đẻ Khi Mông ). Lễ ăn hỏi thường bao gồm rất sinh con xong phụ nữ các dân tộc thiểu số nhiều lễ vật như: gạo, thịt, rượu, gà, trầu, cũng phải kiêng kỵ rất nhiều thứ như: phải cau, vòng bạc Số lượng lễ vật khác nhau nằm cạnh bếp lửa, ăn cơm lam trong ống tùy từng dân tộc, từng địa phương. Lễ cưới nứa, khách lạ không được đến thăm Thậm của các dân tộc được tiến hành với rất nhiều chí, ở một số dân tộc (Thái, Mường ) không thủ tục, nghi lễ và những kiêng kỵ khác chỉ người phụ nữ mang thai, sinh nở phải nhau. Người Mường kiêng cưới hỏi vào các kiêng kỵ mà chồng của người phụ nữ mang tháng ba, tháng bảy, tháng năm, tháng sáu; thai cũng phải kiêng một số việc nhất định. ngày cưới hỏi phải là những ngày đầu hoặc Đứa trẻ mới được sinh ra cũng được thực giữa tháng; đón dâu phải đi theo đường hiện rất nhiều nghi lễ như lễ gọi hồn (trẻ em chính, không ai được bỏ về giữa chừng người Mông khi được 3 ngày), lễ đầy cữ Những người đi đón dâu về đến chân cầu (trẻ em người Thái khi được 10 ngày), lễ thang phải lần lượt rửa chân sau đó mới cúng mụ (trẻ em người Mường con trai được lên nhà; cô dâu và phù dâu không được được 7 ngày, con gái được 9 ngày), lễ đặt bước vào bậc thang thứ nhất Người Mông tên (trẻ em người Thái khi được 2 - 3 có tục “bắt vợ”; trong đám cưới của người tháng), lễ cúng báo ma nhà (trẻ em người Mông, số người của đoàn đưa dâu về đến Thái), lễ mừng cháu (trẻ người Mường khi nhà trai phải là số chẵn; trước khi được đón được đầy tháng), lễ mừng tuổi (trẻ người vào nhà trai, cô dâu phải làm lễ nhập hồn Mông khi được 1 tuổi), lễ tạ ơn bà Mụ (trẻ Người Thái và người Mường có tục ở rể em người Mường được 12 tuổi) Khi trẻ (nay ở nhiều vùng không còn tục này và đã hay quấy khóc hoặc ốm, đau, thày mo, thày được quy đổi thời gian ở rể thành giá trị hiện cúng sẽ được mời đến làm lễ gọi hồn cho vật hoặc bằng tiền). trẻ và xua đuổi tà ma. Khi cho trẻ đi chơi Hầu hết các dân tộc thiểu số ở khu vực xa, gia đình thường lấy nhọ nồi bôi lên mặt miền núi phía bắc đều theo tín ngưỡng đa trẻ và đem theo một con dao để ma quỷ và thần. Vì vậy, khi ốm đau, bệnh tật, họ vía dữ trên đường không dám đến gần, thường cầu cúng các loại thần linh phù hộ không nhận dạng bắt vía làm hại trẻ. và đuổi trừ tà ma. Người Thái quan niệm, Hôn nhân của đồng bào các dân tộc thiểu con người sống được là nhờ có linh hồn số ở khu vực miền núi phía bắc cũng có rất (khuôn, văn) ngụ trong thể xác. Khi các linh nhiều nghi lễ, phong tục, tập quán mang sắc hồn ngụ ở trong thể xác thì chúng bảo vệ thái đặc thù riêng của mỗi dân tộc. Tuy cho thể xác không bị ốm đau, bệnh tật. Khi nhiên, nhìn chung, đa số hôn nhân của các hồn tách khỏi cơ thể hay rời bỏ một bộ 112
- Hoàng Thị Lan phận nào đó của cơ thể con người thì lập cháu bên nội để tang từ 3 - 12 tháng, con đẻ tức bộ phận đó sẽ bị đau ốm. Vì thế, người để tang 7 tháng, vợ để tang chồng bằng ta phải cúng để gọi hồn trở về nhập vào cách hạ búi tóc tẳng cẩu xuống sau gáy, đúng vị trí của nó. Người Mường quan thời gian để tang chồng từ 2 - 3 tháng đến niệm, mỗi con người khi sinh ra đều có hồn, một năm. có vía. Vì vậy, sau khi trẻ nhỏ được sinh ra Với người Mường, chết không phải là một tuần, người ta tổ chức lễ giữ vía cho trẻ hết mà khi đó hồn người tiếp tục sống một gọi là lễ nạ mụ. Mỗi khi ốm đau, bệnh tật, cuộc sống ở thế giới khác. Với những người người ta làm lễ giữa vía (gọi là woái thắn) trẻ tuổi và người chết bất đắc kỳ tử, tang lễ để tẩy rửa bệnh tật, cầu khoẻ mạnh [7, thường được tổ chức đơn giản, còn những tr.378 - 401]. Với người Mông, người đau người chết bình thường, tang lễ được tổ ốm là do hồn đi chơi vắng hoặc có một loại chức theo những nghi thức rất cầu kỳ. ma nào đó bắt mất hồn, hoặc có thể do con Người chết sẽ được tắm bằng nước lá thơm, người xúc phạm đến tổ tiên. Vì vậy, khi được mặc quần, áo mới xổ gấu, xổ vạt. Việc trong nhà có người bị ốm đau, bệnh tật, gia phát tang được chọn giờ cẩn thận, quần áo chủ cũng sẽ mời thầy cúng để tìm hiểu mặc trong tang lễ cũng được quy định chặt nguyên nhân, sau đó sẽ làm lễ đuổi ma hoặc chẽ cho con trai, con gái, con dâu, cháu lễ tạ lỗi cho người ốm. chắt. Người chết không được đưa đi chôn Tang ma là một trong những phong tục ngay mà nhất thiết phải tổ chức những đêm chứa đựng nhiều nghi lễ tín ngưỡng, mang mo. Tuỳ theo địa vị kinh tế, xã hội của gia đậm bản sắc văn hóa của đồng bào các dân chủ, tuỳ tuổi của người chết mà có những tộc thiểu số ở khu vực miền núi phía bắc. đêm mo đơn giản hay cầu kỳ. Với người Thái, khi có người chết nhất thiết Khi đưa tang, quan tài được đặt trên hai phải có hai người dẫn đường hát cúng đưa đòn khiêng, trên quan tài là một bát nước và hồn người chết về mường trời. Khi đưa một ngọn đèn. Trong quá trình đưa tang tang, quan tài không được đưa đi lối cửa và tuyệt đối không được để đổ bát nước và tắt cầu thang thông thường mà phải phá vách đèn. Trước khi đưa quan tài xuống huyệt, nhà, làm cầu thang mới đưa quan tài xuống ông mo làm lễ gọi hồn, sau đó hạ quan tài sân. Trên đường đưa tang, con gái, con dâu vào huyệt, con trai trưởng xúc ba xẻng đất, phải quỳ xuống, hướng mặt về phía huyệt rồi tất cả mọi người có mặt ném đất xuống mộ để người khiêng đưa quan tài đi qua lấp mộ. Các công cụ sản xuất, dày dép, trên đầu 2 lần Người Thái không có tục quần áo sẽ được để lại bên mộ. Sau ba bốc mộ như người Kinh, huyệt mộ được tháng gia đình làm lễ nhuộm quần áo tang. đào sâu chôn chặt một lần. Mộ chôn được Sau ba năm mãn tang, quần áo được đem đánh dấu bằng 2 hòn đá (hòn mồ) ở 2 đầu. đốt. Từ đây không cúng, giỗ nữa mà chỉ Nếu người chết đã có gia đình, người ta sẽ cúng vào dịp lễ, tết. Người Mường không cắm cây cột mồ (chào phạ) (những người có tục cải táng như người Kinh. Trường chết chưa lập gia đình, có tuổi đời khoảng hợp bất đắc dĩ người Mường mới phải từ 17 - 18 trở lên, nếu gia đình có điều kiện chuyển mộ. cũng có thể làm cây cột mồ). Con cháu bên Đám tang của người Mông cũng là một ngoại chỉ để tang trong ngày làm đám, con hiện tượng văn hoá đặc sắc với nhiều nghi 113
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 3(100) - 2016 lễ khác nhau. Người Mông quan niệm, thế tín ngưỡng khá phong phú, đa dạng. Hệ giới gồm 3 tầng: tầng trời là thế giới tổ tiên; thống tín ngưỡng của đồng bào các dân tộc tầng giữa là thế giới con người và tầng dưới chứa đựng nhiều giá trị văn hóa mang đậm lòng đất là địa ngục, âm phủ. Con người có bản sắc tộc người. Tuy nhiên, bên cạnh đó, 3 linh hồn, khi chết 3 linh hồn lìa khỏi xác sinh hoạt tín ngưỡng, tâm linh của đồng bào và đi đến 3 nơi khác nhau: linh hồn gốc đi cũng còn tồn tại nhiều những hủ tục lạc hậu sang thế giới tổ tiên; linh hồn thứ hai sẽ bay gây cản trở không nhỏ cho sự phát triển lên trời sống; linh hồn thứ ba đầu thai để kinh tế - xã hội. Đây là một trong những sống ở trần gian (khi còn sống con người nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự chuyển làm nhiều điều tốt, hồn sẽ được đầu thai đổi đức tin trong một bộ phận đồng bào các làm người, nếu làm nhiều điều ác thì hồn sẽ dân tộc thiểu số ở khu vực miền núi phía bị đầu thai làm con vật như trâu, bò, chó, bắc những năm gần đây. ngựa). Nghi lễ tang ma của người Mông có liên quan chặt chẽ đến quan niệm về thế Tài liệu tham khảo: giới 3 tầng, về 3 linh hồn của con người với [1] Trần Văn Bính (Chủ biên) (2004), Văn một loạt các nghi lễ cơ bản như: lễ cúng chỉ hóa các dân tộc Tây Bắc, thực trạng và đường (khúa kê - thầy cúng kể về nguồn những vấn đề đặt ra, Nxb Chính trị quốc gốc vũ trụ và loài người, kể về nguyên nhân gia, Hà Nội. cái chết, kể về chặng đường đi đến thế giới [2] Đại học Quốc gia Hà Nội - Chương trình tổ tiên với nhiều khó khăn, thử thách); lễ Thái học Việt Nam (1998), Văn hóa và viếng, lễ chí xáy (hát đối đáp với người đến lịch sử người Thái ở Việt Nam, Nxb Văn viếng kể lại công ơn của người chết, xin hóa Dân tộc, Hà Nội khách bỏ qua những lỗi lầm, sai sót trước [3] Vũ Ngọc Khánh (2004), Truyền thống văn đây của người đã chết ). hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb Khi người chết được đưa ra bãi tha ma, Thanh niên, Hà Nội. người Mông làm lễ hiến tế trâu, bò cho [4] Hoàng Lương (2004), Luật tục với việc người chết rồi mổ thịt trâu, bò, làm cỗ, tổ bảo tồn và phát huy di sản văn hoá truyền chức ăn uống ngay trên bãi quanh xác thống một số dân tộc ở Tây Bắc Việt Nam, người chết. Sau khi người chết được ba Nxb Văn hoá Dân tộc, Hà Nội. ngày, tang chủ làm lễ cúng cơm ma xi, sau [5] Nhiều tác giả (1988), Người Mường với 13 ngày, làm lễ thả hồn (Uô plix) và 13 văn hoá cổ truyền Mường Bi, Ủy ban ngày sau khi chôn, con trai trưởng làm lễ Nhân dân huyện Tân Lạc và Sở Văn hoá ma trâu (nhu đá) cho người chết. Lễ vật thông tin Hà Sơn Bình xuất bản dâng cúng trong lễ ma trâu là trâu hoặc bò. [6] Vương Duy Quang (2005), Văn hóa tâm Trong lễ ma trâu, con cháu trong dòng họ tụ linh của người Hmông ở Việt Nam truyền tập ăn uống, nghe trưởng họ kể về sự tích thống và hiện đại, Nxb Văn hóa Thông tin và cùng nhau nhắc nhở về các tục lệ của và Viện Văn hóa, Hà Nội,. dòng họ [6, tr.106 - 132] [7] Cầm Trọng (1978), Người Thái ở Tây Bắc 7. Kết luận Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Nhìn chung, đồng bào các dân tộc thiểu [8] Văn hoá các dân tộc vùng Tây Bắc Việt Nam số ở khu vực miền núi phía bắc có đời sống (2005), Trường Đại học Văn hóa Hà Nội. 114
- Hoàng Thị Lan 115