Văn hóa làng vùng đồng bằng Bắc Bộ

pdf 9 trang hapham 1840
Bạn đang xem tài liệu "Văn hóa làng vùng đồng bằng Bắc Bộ", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfvan_hoa_lang_vung_dong_bang_bac_bo.pdf

Nội dung text: Văn hóa làng vùng đồng bằng Bắc Bộ

  1. Tạp chí Khoa học xã hộiTRIẾT Việt Nam, - LUẬT số 1(9 8- )TÂM - 2016 LÝ - XÃ HỘI HỌC Văn hóa làng vùng đồng bằng Bắc Bộ Thân Thị Hạnh * Tóm tắt: Vùng đồng bằng Bắc Bộ là nơi diễn ra các hoạt động sinh sống và sản xuất của người dân trồng lúa nước, đồng thời cũng là không gian sinh hoạt, gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa. Văn hóa làng vùng đồng bằng Bắc Bộ được hình thành và phát triển trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc với nhiều đặc trưng, trong đó nổi bật là tính cộng đồng, tính tự trị, tính dung hợp trong tư duy. Văn hóa làng vùng đồng bằng Bắc Bộ có vai trò to lớn đối với việc hun đúc nên tâm hồn Việt, các giá trị đạo đức, nhân văn. Tuy nhiên, văn hóa làng vùng đồng bằng Bắc Bộ cũng có những hạn chế, không phù hợp với yêu cầu của việc xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay. Từ khóa: Văn hóa làng; đồng bằng Bắc Bộ; tính tự trị; tính cộng đồng; tính dung hợp trong tư duy. 1. Mở đầu Nói đến văn hóa là nói đến những “nét Văn hóa Việt Nam về bản chất là một riêng biệt” có tính đặc trưng, tức là cái hồn, nền văn hóa làng. Văn hóa làng Việt được cái chất của một người, một vùng miền hay hình thành đầu tiên ở nông thôn vùng đồng một dân tộc. Văn hóa bộc lộ tư duy, tình bằng Bắc Bộ. Trong quá khứ, văn hóa làng cảm của con người và biểu hiện ở quan niệm là một điểm tựa giúp con người vững vàng sống, hành vi ứng xử của họ. Với Việt Nam trong quá trình chinh phục tự nhiên, tổ nói chung, đồng bằng Bắc bộ nói riêng, cái chức đời sống và chống quân xâm lược. hồn này thể hiện trong văn hóa làng.(*) Tuy nhiên, quá trình đô thị hóa hiện nay Làng vốn là một từ thuần Việt, dùng để đang có nguy cơ phá vỡ kết cấu làng chỉ một cộng đồng dân cư được hình thành truyền thống, làm biến đổi bản chất, đặc trên cơ sở liên hiệp tự nguyện giữa những trưng của văn hóa làng Việt nói chung, văn người nông dân lao động trên con đường hóa làng vùng đồng bằng Bắc Bộ nói chinh phục tự nhiên từ mấy thiên niên kỷ riêng. Do vậy, việc nghiên cứu về đặc trước, quá trình hàng nghìn năm đấu tranh trưng văn hóa làng vùng đồng bằng Bắc chống xâm lược để giữ gìn môi trường sản Bộ là cần thiết, giúp chúng ta nhận thức xuất và sinh hoạt của con người nơi đây. sâu hơn về các giá trị cốt lõi, làm cơ sở Vậy điều gì đã làm cho làng có sức mạnh cho việc xây dựng làng văn hóa ở nông bền vững và dẻo dai như thế? Đó là văn hóa thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ hiện nay. 2. Khái niệm văn hóa làng vùng đồng (*) Thạc sĩ, Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội. bằng Bắc Bộ ĐT: 0975427525. Email: hanhtt@ftu.edu.vn. 62
  2. Thân Thị Hạnh làng. Văn hóa làng chính là hằng số đồng kho tàng văn hóa dân gian, tín ngưỡng - tôn hành cùng người dân qua những thăng trầm giáo, hương ước Nó thể hiện ra ở đình, của đất nước. Khẳng định vị trí của làng chùa, miếu, lũy tre, cây đa, bến nước, trong việc hình thành nền văn hóa Việt Những yếu tố vật thể và phi vật thể trên Nam, nhà nghiên cứu Nguyễn Từ Chi viết: không đứng đơn lập mà hòa quyện vào “Làng là tế bào sống của xã hội Việt Nam. nhau, tích hợp lại thành bản chất, đặc trưng Xã hội Việt Nam là sản phẩm tự nhiên tiết văn hóa làng, lưu truyền từ thế hệ này sang ra từ quá trình định cư và cộng cư của thế hệ khác, tạo ra những ảnh hưởng không người Việt trồng trọt. Hiểu được làng Việt chỉ trong xã hội truyền thống mà còn ở xã là có trong tay cơ sở tối thiểu và cần thiết hội hiện đại, không chỉ ở nơi thôn quê mà để tiến lên tìm hiểu xã hội Việt nói riêng và tràn ra cả đô thị. xã hội Việt Nam nói chung, trong sức năng Văn hóa làng ở vùng đồng bằng Bắc Bộ động lịch sử của nó, trong ứng xử cộng khác biệt so với văn hóa làng các vùng khác đồng và tâm lý tập thể của nó, trong các trong cả nước vì hai lý do sau: Thứ nhất, biểu hiện văn hóa, cả trong những phản ứng đây là vùng văn hóa hình thành đầu tiên của của nó trước những hình thái mà lịch sử cả nước. Ngay từ thuở sơ khai, đây là vùng đương đại đặt vào nó” [4, tr.177]. đất đai trù phú, từng là cái nôi của Văn hóa Đồng bằng Bắc Bộ là vùng đất nằm giữa Đông Sơn thời thượng cổ, Văn hóa Đại Việt lưu vực sông Hồng, sông Thái Bình và sông thời trung cổ với những thành tựu rất phong Mã, nơi tụ cư lâu đời nhất của người Việt phú về mọi mặt. Cùng với lịch sử mở cõi (Kinh). Trong quá trình chinh phục tự nhiên của dân tộc, nó cũng là cội nguồn của văn và chống xâm lược, người dân ở đây đã hóa Việt ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ sau sống quần tụ thành làng. Xét về hình thức, này. Thứ hai, văn hóa làng vùng đồng bằng làng là một điểm tụ cư, nhưng thực chất nó Bắc Bộ là tế bào cơ bản, là tấm gương phản là một hình thức tổ chức xã hội nông chiếu nền văn hóa dân tộc. Văn hóa dân tộc nghiệp. Một mặt, nó được hình thành trên chỉ là sự mở rộng và nâng cao của nền văn cơ sở nền sản xuất nông nghiệp tiểu nông tự hóa xóm làng của vùng. Điều kiện sinh thái cấp, tự túc, mặt khác, nó là mẫu hình xã hội và dân số là một lý do cơ bản làm cho làng phù hợp đảm bảo sự cân bằng và bền vững đồng bằng Bắc Bộ chặt chẽ hơn những nơi của xã hội nông nghiệp ấy [10, tr.108]. khác. Do đó, bản chất văn hóa làng được Văn hóa làng là bầu không khí quen hình thành, bộc lộ cũng đậm nét hơn các thuộc mang sinh khí mạnh mẽ mà người vùng còn lại của Việt Nam. nông dân hít thở hàng ngày. Văn hóa làng 3. Những đặc trưng của văn hoá làng vùng đồng bằng Bắc Bộ là hệ thống những vùng đồng bằng Bắc Bộ quan niệm, chuẩn mực đạo đức, hành vi Đồng bằng Bắc Bộ chính là cái nôi hình được hình thành trong quá trình tổ chức, thành văn hoá Việt Nam và hiện nay vẫn là giữ gìn cuộc sống của người nông dân vùng nơi mà văn hóa Việt Nam bảo lưu nhiều giá đồng bằng Bắc Bộ, được bộc lộ trong lối trị truyền thống. Văn hóa làng vùng đồng sống, phong tục, tâm tính con người, trong bằng Bắc Bộ có nhiều đặc trưng, trong đó 63
  3. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 1(98) - 2016 theo chúng tôi có 3 đặc trưng nổi bật là tính Tinh thần cộng đồng thể hiện tiêu biểu cộng đồng, tính tự trị và tính dung hợp trong quan hệ huyết thống là gia đình và trong tư duy. dòng họ. Người Việt, đặc biệt ở đồng bằng 3.1. Tính cộng đồng Bắc Bộ, rất coi trọng gia đình. Mỗi người Đây là đặc trưng cơ bản nhất của của trong gia đình trước hết sống vì nghĩa vụ và văn hóa làng đồng bằng Bắc Bộ. Cộng đồng trách nhiệm với những thành viên, đồng là một tổ chức của nhiều cá thể. Tính cộng thời, họ lấy gia đình làm nòng cốt để tạo lập đồng có thể hiểu là sự liên kết các thành kỷ cương xã hội. Với ý nghĩa đó, gia đình viên trong làng với nhau; trong sự liên kết Việt Nam vùng đồng bằng Bắc Bộ vừa là đó mỗi người đều hướng tới những người đơn vị sinh hoạt, đơn vị kinh tế, cũng là đơn khác trong tập thể, ứng xử của mỗi người vị giáo dục và là tế bào của xã hội. thường theo các tiêu chuẩn mà cộng đồng Nếu gia đình tái sản xuất đời sống con đó quy định. người và góp phần tái sản xuất đời sống xã Chế độ ruộng công là cơ sở kinh tế cho hội thì dòng họ là một tổ chức xã hội có tính cộng đồng của văn hóa làng vùng tính huyết thống xuất hiện sớm, tồn tại phổ đồng bằng Bắc Bộ. Biểu tượng truyền biến trong các làng quê vùng đồng bằng thống của tính cộng đồng là sân đình, bến Bắc Bộ. Những nghiên cứu khoa học cho nước, cây đa. Ở các làng vùng đồng bằng thấy, dòng họ là một kiểu quan hệ khá độc Bắc Bộ hầu như làng nào cũng có ít nhất đáo của vùng này. Tính cộng đồng dòng họ một trong ba biểu tượng này. Đình là biểu của người Việt thể hiện ở chức năng của tượng tập trung nhất của làng về mọi dòng họ đối với mỗi thành viên và đối với phương diện: hành chính, hội họp; văn xã hội. Với quan niệm “Một giọt máu đào hóa, tôn giáo và tình cảm. Bến nước (giếng hơn ao nước lã”, người trong họ tự coi mình nước) là chỗ hàng ngày mọi người gặp có trách nhiệm cưu mang nhau về mặt vật nhau, vừa làm việc vừa chuyện trò. Cây đa chất (sẩy cha còn chú, ); hỗ trợ nhau về hoặc cây si, cây gạo ở đầu làng, bên cạnh mặt trí tuệ (nó lú nhưng chú nó khôn). là quán nước của các cụ già là nơi tập Đồng thời, dòng họ còn có chức năng tôn trung sự giao lưu của dân làng với khách giáo với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Vào thập phương [15, tr.98] những ngày chuẩn bị giỗ, tết, mọi người Tính cộng đồng của văn hóa làng vùng “góp giỗ” và tập trung lại bàn bạc việc cúng đồng bằng Bắc Bộ thể hiện trong cơ cấu tổ tế tỏ lòng nhớ ơn tổ tiên. Như vậy, sức chức xã hội nông thôn theo nhiều nguyên mạnh của dòng họ thể hiện trước hết ở tinh tắc, cơ sở khác nhau: cơ sở huyết thống (gia thần đùm bọc, đoàn kết, yêu thương nhau đình, dòng họ); địa bàn cư trú (xóm, làng), giữa các thành viên, giữa các thế hệ. trong đó có theo nghề nghiệp, sở thích Tính cộng đồng của văn hóa làng vùng (phường, hội), theo truyền thống nam giới đồng bằng Bắc Bộ thể hiện trong quan hệ (giáp); Trong các mối quan hệ đó, mỗi theo địa bàn cư trú (xóm, làng). Những người đều tìm thấy vị trí của mình trong người sống gần nhau có xu hướng liên kết cộng đồng. chặt chẽ với nhau, sản phẩm của lối liên kết 64
  4. Thân Thị Hạnh này tạo ra xóm, làng. Cộng đồng xóm, làng thành trên cơ sở nền kinh tế tiểu nông, khép bổ sung hữu hiệu và kịp thời cho người kín, không khoa học, nên cũng có những nông dân trong việc đồng áng, trong đời hạn chế nhất định. Hạn chế lớn nhất là sự sống vật chất và tinh thần. Do vậy, bên thủ tiêu ý thức về con người cá nhân, con cạnh quan hệ huyết thống, người dân cũng người bị hòa tan vào cộng đồng, thậm chí lệ sống theo quan niệm “bán anh em xa, mua thuộc vào cộng đồng theo kiểu “cùng hội láng giềng gần”. cùng thuyền”. Khi giải quyết công việc thì Tính cộng đồng của văn hóa làng vùng “dĩ hòa vi quý”. Do đó, nó tạo ra tâm lý ỷ đồng bằng Bắc Bộ thể hiện tiêu biểu qua lại “cha chung không ai khóc”, không phát việc thờ Thành hoàng làng và tổ chức lễ hội huy được năng lực sáng tạo của mỗi người. hàng năm. Đối với dân làng, “Thành hoàng Đồng thời nó sinh ra tâm lý sống an toàn là biểu hiện của lịch sử, phong tục, đạo đức, “nước nổi thì thuyền nổi” và thói cào bằng, pháp lệ cùng hi vọng chung của cả làng, lại đố kỵ “trâu buộc ghét trâu ăn”. Mặt khác, cũng là một thứ quyền uy siêu việt, một mối trong một cộng đồng mọi người đều nghèo liên lạc vô hình, khiến cho làng thành một khổ, cùng chịu cảnh “thấp cổ bé họng” từ đoàn thể có tổ chức và hệ thống chặt chẽ” đời này qua đời khác dẫn đến quan niệm [1, tr.248]. Ngày giỗ Thành hoàng, người xem thường lao động chân tay, khát vọng làng dù ở đâu cũng muốn tìm đường về đổi đời, háo danh, khôn vặt, xu hướng sùng chịu lễ. Như vậy, qua việc thờ vị thần bái cá nhân, óc tôn ti gia trưởng khá nặng nề. chung, cả cộng đồng làng cố kết lại trên cơ 3.2. Tính tự trị sở cái thiêng vô hình. Nói đến văn hóa làng vùng đồng bằng Cùng với lễ là hội. Người Việt có câu, Bắc Bộ không thể không nói đến tính tự trị, “tháng Giêng là tháng ăn chơi”, tức là tháng tự quản, tức là “tự điều chỉnh - tự điều của hội hè. Hàng năm ở đồng bằng Bắc Bộ khiển của làng trong quá trình vận động của có hàng trăm lễ và hội khác nhau. Lễ, hội là kinh tế - xã hội, ít chịu sự can thiệp trực dịp để dân làng tập trung lại tổ chức biểu tiếp của các cấp chính quyền bên trên” [6, diễn văn nghệ và thể thao dân gian. Cùng tr.87]. Điều đó có nghĩa là, làng nào biết với lễ, hội thì tết, hiếu, hỉ, được tổ chức làng ấy, các làng tồn tại khá biệt lập với liên miên đã làm cho dân làng luôn bận rộn, nhau và phần nào độc lập với triều đình cuốn hút, hòa vào cộng đồng, dù tốn kém phong kiến. cũng phải chịu. Do vậy, các loại lễ hội cũng Khẳng định tính tự trị của làng Việt góp phần tăng cường mối đoàn kết tương truyền thống, Phạm Văn Đồng nhận định: thân. Có thể nói, đặc trưng tính cộng đồng “trong lịch sử lâu đời của dân tộc, làng của văn hóa làng vùng đồng bằng Bắc Bộ có tính đẳng cấp phong kiến”. Hay Toàn không chỉ tìm thấy trong đời sống kinh tế, quyền Đông Dương Paul Doumer cũng cho xã hội mà còn thể hiện rõ trong đời sống rằng: “mỗi làng xã là một nước cộng hoà tinh thần. nhỏ, độc lập trong giới hạn những quyền lợi Tuy vậy, tính cộng đồng của văn hóa địa phương” [15, tr.97]. Có thể nói, làng ở làng vùng đồng bằng Bắc Bộ được hình đồng bằng Bắc Bộ có tính tự quản cao, nhìn 65
  5. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 1(98) - 2016 chung, mỗi làng là một đơn vị hành chính ứng xử, nghĩa vụ của mỗi thành viên đối với tương đối độc lập được quản lý chặt chẽ làng và đối với nhau. Hương ước do những trong một kết cấu xã hội phân tầng theo người có trách nhiệm (hay được ủy nhiệm) chức tước, theo khoa mục, theo tuổi tác, trong làng thảo ra, được dân chúng nhất trí. theo trật tự thân tộc. Ở đồng bằng Bắc Bộ trước đây, hương ước Biểu tượng truyền thống của tính tự trị là khá phổ biến. Theo thống kê của sách Thư lũy tre và cổng làng. Mỗi làng ở đồng bằng mục hương ước Việt Nam thời kỳ cận đại Bắc Bộ xưa thường có lũy tre bao bọc khiến (1991) thì các tỉnh miền Bắc đều có hương làng như một thứ thành lũy kiên cố. Cùng ước, có tỉnh có tới vài trăm hương ước. với lũy tre là cổng làng. Trước đây vào làng Nội dung hương ước đề cập đến đầy đủ rất khó, nhiều khi chỉ có một lối đi vào duy các mặt đời sống của người nông dân (như: nhất là qua cổng làng, cổng được làm chắc tế tự, xác định tôn ti, tổ chức quản lý làng, chắn, bên trên có mảnh chai làm vũ khí tự bảo vệ trị an, bảo vệ sản xuất, khuyến khích vệ, hai bên đường có ao. Từ xa xưa, làng học hành, giữ gìn nếp sống ) với những Việt đã được bảo vệ một cách có ý thức. quy định về khen thưởng, trừng phạt khá Ngày nay, tình hình an ninh đảm bảo hơn, chặt chẽ. Hương ước nhằm ràng buộc con lũy tre đã dần vắng bóng, nhiều cổng làng người để duy trì trật tự chung của làng. Nó đã biến mất nhưng ý thức tự trị trong tư duy tạo ra thế mạnh của của cộng đồng bằng hai con người thì vẫn còn lưu lại. con đường: vừa kiểm soát hành vi ứng xử Tính tự trị của làng Việt vùng đồng bằng của mỗi thành viên trong cộng đồng, vừa Bắc Bộ đã có từ xa xưa. Trong lịch sử lâu quy định trách nhiệm cho cộng đồng kiểm dài của các triều đại phong kiến Việt Nam soát các thành viên. Như vậy, hương ước đã cũng như thời Pháp thuộc, bộ máy cai trị giúp cho bộ máy quản lý làng xã có cơ sở luôn tìm cách xoá bỏ đặc trưng này của để quản lý cộng đồng cư dân. làng, tuy nhiên họ luôn phải lùi bước. Tính Hương ước chỉ là một mặt của tính tự trị, tự trị của làng thể hiện ở việc: mỗi làng có có khi không phải là mặt chủ yếu. Mặt chủ một luật pháp riêng (thể hiện qua hương yếu là ở kết cấu chính quyền. Từ thời nhà ước), có một tiểu triều đình riêng, trong đó Lý, kết cấu chính quyền làng xã bắt đầu hội đồng kì mục là cơ quan lập pháp, lí dịch được nhà nước phong kiến quan tâm với là cơ quan hành pháp. việc đặt ra các chức quan cai trị. Nhưng Tính tự trị của làng được biểu hiện ở lệ cuối cùng nhà nước phải lùi bước, vừa đặt làng. Lệ làng là những quy tắc ứng xử trong chức quan của mình, vừa công nhận quyền đời sống xã hội và tín ngưỡng đòi hỏi dân lực của những người được dân làng tự bầu làng phải tuân theo. Lệ làng có thể được ra. Đến thời Pháp thuộc, kết cấu chính chép thành văn bản, được gọi là hương ước. quyền làng tiếp tục được thừa nhận và Hương ước là công cụ tự quản. Sở dĩ như mang tính hệ thống hơn. vậy bởi chức năng của hương ước là tạo ra Từ thời Pháp thuộc, dân chính cư trong sự cưỡng chế cộng đồng. Hương ước như làng được chia thành 5 hạng: chức sắc một bộ luật của làng, quy định chuẩn mực (người đỗ đạt hoặc có phẩm hàm), chức 66
  6. Thân Thị Hạnh dịch (người đang làm việc trong làng, xã), nhấn mạnh đến sự đồng nhất thì tính tự trị lão (người già), đinh (trai tráng), ti ấu (trẻ chú trọng sự khác biệt. Tính tự trị là cơ sở con). Hai hạng trên cùng và một phần hạng để tạo nên tinh thần tự lập trong cộng đồng. thứ ba tạo thành một bộ phận gọi là quan Điều này có ý nghĩa quan trọng trong duy viên hàng xã. Quan viên hàng xã thường trì cuộc sống, giữ gìn bản sắc văn hóa, lại chia thành ba nhóm: kì mục (hội đồng trong chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc. Tuy kì mục), kì dịch (lí dịch) và kì lão. Kì lão vậy, nó cũng có những hạn chế nhất định: là những người cao tuổi trong làng, tuy Một là, “nếp làng” tạo ra tâm lý khép kín, không phải là quan nhưng lại có quyền tư cộng với thói nhòm ngó đã hình thành óc tư vấn cho hội đồng kì mục. Hội đồng kì mục hữu, ích kỷ “ai có thân người nấy lo”. Hạn do tiên thứ chỉ đứng đầu có trách nhiệm chế này dẫn đến việc nảy sinh tư tưởng địa bàn bạc tập thể và quyết định các công phương chủ nghĩa khá nặng nề “trống làng việc của xã. Lí dịch thường do hội đồng kì nào làng nấy đánh”. Hai là, thói quen điều mục cử ra, có nhiệm vụ thi hành mọi quyết khiển đời sống xã hội bằng tục lệ và dư định của Hội đồng kì mục [15, tr.95]. Trực luận khiến cho việc tổ chức xã hội theo tiếp làm việc với dân, với quan trên là lí pháp luật rất khó khăn, tệ “đi cửa sau”, hay dịch. Lí dịch quản lí ba hạng dân bên dưới, “một người làm quan cả họ được nhờ” đó là lão, đinh và ti ấu. Đứng đầu ban lí Hậu quả là, phép nước không được nghiêm dịch là lí trưởng (hay xã trưởng); dưới là minh, hiệu lực pháp luật bị giảm nhẹ. phó lí (giúp việc), hương trưởng (lo việc 3.3. Tính dung hợp trong tư duy công ích) và trương tuần (hay xã tuần, lo Cùng với tính cộng đồng, tính tự trị, việc an ninh). Phương tiện quản lí chủ yếu người dân ở đồng bằng Bắc Bộ còn mang của lí dịch qua hai loại sổ: sổ đinh quản lý tính dung hòa, dung hợp trong tư duy. Nhà về nhân lực (trai đinh) và sổ điền quản lý văn hóa Đào Duy Anh từng nhận xét: về về kinh tế (ruộng đất). tính chất tinh thần thì người Việt Nam đại Cách thức tổ chức bộ máy hành chính khái thông minh, nhưng xưa nay ít người có làng ở đồng bằng Bắc Bộ như trên đã được trí tuệ lỗi lạc phi thường ( ) não sáng tác hình thành dần dần như một sản phẩm lịch thì ít, nhưng mà bắt chước, thích ứng và sử của quá trình phát triển văn hóa dân tộc. dung hóa thì rất tài” [1, tr.23]. Chỉ sau Cách mạng tháng Tám, phong trào Vì sao người dân vùng đồng bằng Bắc cải cách ruộng đất và hợp tác hóa thì việc Bộ mang trong mình tư duy dung hợp? Vấn quản lý làng ở đồng bằng Bắc Bộ mới có sự đề này có thể được giải thích ở khía cạnh xã thay đổi căn bản. hội và nhận thức. Do nghề trồng lúa nước Như vậy, làng vùng đồng bằng Bắc Bộ trong điều kiện khoa học chưa phát triển trong truyền thống là một đơn vị xã hội (có nên để thu hoạch được sản phẩm, cùng một nơi là đơn vị hành chính) mà người nông lúc con người phải phụ thuộc vào nhiều yếu dân và các thành phần khác tập hợp lại tạo tố. Từ đó về mặt nhận thức, họ hình thành thành sức mạnh cộng đồng có tính tự quản lối tư duy tổng hợp, coi trọng các mối quan khá sâu đậm. Trong đó, nếu tính cộng đồng hệ hơn các yếu tố riêng rẽ. Về mặt xã hội, 67
  7. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 1(98) - 2016 đồng bằng Bắc Bộ là vùng có kết cấu xã hội lành của Phật giáo đã cuốn hút các tầng lớp đa dạng, đã từng trải qua nhiều thăng trầm nhân dân. Đa phần các làng ở đồng bằng lịch sử Điều đó làm cho con người ở đây Bắc Bộ đều có chùa thờ Phật. Dân làng nào có khả năng thích nghi cao với mọi biến cũng tin Phật, họ thường đi trẩy hội chùa ở động. Từ những năm 40 của thế kỷ XX, nơi khác hoặc đi lễ ở chùa gần nhất. P.Gourou đã nhận xét rằng: tất cả những ai Tính bao dung tôn giáo thể hiện ngay quan sát cách làm ăn của người nông dân trong một ngôi chùa ở đồng bằng Bắc Bộ. đồng bằng Bắc Bộ “đều phải thán phục sự Ở nhiều nơi, tín ngưỡng Phật với tín thích nghi mềm dẻo và sự quan sát của ngưỡng dân gian bản địa được thờ hỗn hợp người nông dân” [12, tr.50]. trong chùa (tiền Phật hậu thần, hay ngược Có thể nói, người dân vùng đồng bằng lại). Hiện tượng tín ngưỡng dung hợp này Bắc Bộ có sự dung hợp trong tiếp nhận, phản ánh tư duy bao dung của người Việt. mềm dẻo, hiếu hòa trong đối phó; họ rất Bên cạnh đình và chùa, làng quê Bắc Bộ linh hoạt, uyển chuyển, luôn biến báo cho còn có miếu, quán, nhà thờ Tuy vậy, các thích hợp với từng hoàn cảnh cụ thể. Với tôn giáo, tín ngưỡng này ở đồng bằng Bắc người nông dân, triết lý sống của họ là: ở Bộ cùng song song tồn tại, nhiều khi bổ bầu thì tròn, ở ống thì dài; đi với bụt mặc áo sung, hỗ trợ nhau. Trong lịch sử, người cà sa, đi với ma mặc áo giấy. ngoại quốc khi đến Việt Nam thường chê Do vậy, trong ứng xử với tự nhiên, dân ta có tín ngưỡng hỗn độn. Thực chất, người dân quan niệm “mùa nào thức nấy”, người dân đồng bằng Bắc Bộ chấp nhận sống hài hòa với tự nhiên. Trong ứng xử xã một cách khoan dung bất cứ tín ngưỡng, tôn hội, người dân đồng bằng Bắc bộ từ xa xưa giáo nào mà giáo điều không đi ngược lại thường phải đối phó với các cuộc chiến căn bản đạo đức dân tộc. Trong những tranh xâm lược nhưng họ luôn hiếu hòa. trường hợp cụ thể, giáo lý của những tôn Ngay cả lúc phải chiến đấu, mỗi khi thế giáo này lại phải thay đổi cho phù hợp với thắng cha ông ta thường dừng lại, “trải truyền thống dân tộc. Trong điều kiện hội chiếu hoa” cho giặc về, mở đường cho nhập hiện nay, tinh thần khoan dung là rất chúng rút lui trong danh dự. đáng quý. Đó là cơ sở để thực hiện một Tính dung hợp trong tư duy đời sống trong mục tiêu “cùng chung sống” trong xã tinh thần được thể hiện ở tinh thần khoan hội hiện đại. dung tôn giáo, tinh thần hoà nhập, học tập Tuy nhiên, tính dung hòa trong tư duy tiếp thu những giá trị văn hoá bên ngoài của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ trên cơ sở những giá trị văn hoá bản địa. cũng có hạn chế nhất định: tác phong ăn Tinh thần khoan dung tôn giáo của xổi, tùy tiện, phong cách làm việc không kế người dân vùng đồng bằng Bắc Bộ được thể hoạch, tật co giãn giờ giấc, thiếu tác phong hiện đậm đặc trong việc tiếp nhận Phật công nghiệp. Văn hóa làng Việt vốn mang giáo. Phật giáo là một tôn giáo nước ngoài tính mềm dẻo, nhưng nhiều khi có xu được du nhập vào đồng bằng Bắc Bộ khá hướng thái quá: “một trăm cái lý không sớm và được người dân tiếp nhận một cách bằng một tí cái tình”. Nhìn ra thế giới, dễ dàng. Tư tưởng từ bi, bác ái, ở hiền gặp chúng ta dễ nhận thấy hậu quả của hạn chế 68
  8. Thân Thị Hạnh này đối với cuộc sống cá nhân và sự phát [5] Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Huyên triển của xã hội. (Đồng chủ biên) (2002), Giá trị truyền 4. Kết luận thống trước những thách thức của toàn Trong lịch sử phát triển lâu dài, vùng cầu hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. đồng bằng Bắc Bộ đã hình thành nhiều đặc [6] Phan Đại Doãn (2004), Mấy vấn đề về văn trưng văn hóa làng độc đáo. Văn hóa làng hóa làng xã Việt Nam trong lịch sử, Nxb vùng đồng bằng Bắc Bộ có vai trò đặc biệt Chính trị quốc gia, Hà Nội. không chỉ với quá khứ mà với cả hiện tại. [7] Đinh Xuân Dũng (Chủ biên) (2005), Xây Trong sự nhận thức mới về vai trò của nông dựng làng văn hóa ở đồng bằng Bắc Bộ nghiệp và nông thôn, Đảng và Nhà nước ta thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đã khẳng định nông thôn sẽ chiếm một vị trí Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. hết sức quan trọng trong đời sống văn hóa [8] Phạm Xuân Đại (2014), “Xóm ở làng quê của con người. Làng quê Việt Nam hiện đại Bắc Bộ qua các thời kỳ lịch sử”, Tạp chí trong viễn cảnh là nơi nuôi dưỡng tinh thần Khoa học xã hội Việt Nam, số 8 (81). và làm phong phú đời sống tâm hồn người [9] Lê Thị Lan (2015), “Tư tưởng làng xã ở Việt. Tuy nhiên, văn hóa làng vùng đồng Việt Nam”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt bằng Bắc Bộ cũng mang trong mình những Nam, số 3 (88). nét tiêu cực nhất định cần phải khắc phục. [10] Vũ Tự Lập, Đàm Trung Phường (1991), Trong điều kiện hiện nay, khi sự phân biệt Văn hóa và cư dân đồng bằng sông Hồng, giữa các dân tộc dần được đo bằng sự phát Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. triển của văn hóa, thì việc giữ gìn và phát [11] Vũ Duy Mền (Chủ biên) (2001), Hương huy bản sắc dân tộc Việt Nam, trong đó có ước làng xã Bắc bộ Việt Nam với luật làng văn hóa làng, cần được quan tâm hơn nữa KanTo Nhật Bản (Thế kỷ XVII - XIX), Nxb từ nhiều phía. Điều đó không chỉ có tác Viện Sử học, Hà Nội. dụng trong hiện tại, mà còn có vai trò quan [12] Nhiều tác giả (2008), Nông dân, nông thôn trọng trong chiến lược phát triển bền vững và nông nghiệp những vấn đề đặt ra, Nxb vì tương lai. Tri thức, Hà Nội. [13] Phan Thanh Tá (2012), Văn hóa cổ truyền Tài liệu tham khảo trong làng xã Việt Nam hiện nay, Nxb Lao [1] Đào Duy Anh (2002), Việt Nam văn hóa sử động, Hà Nội. cương, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. [14] Nhất Thanh, Vũ Văn Khiếu (2005), Phong [2] Toan Ánh (1999), Tìm hiểu phong tục Việt tục làng xóm Việt Nam, Nxb Phương Đông. Nam qua nếp cũ gia đình, Nxb Văn nghệ [15] Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Tp. Hồ Chí Minh. Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. [3] Toan Ánh (2000), Tìm hiểu phong tục Việt [16] Nguyễn Huy Thông (Chủ nhiệm chương Nam qua Lễ - Tết - Hội hè, Nxb Thanh trình) (1991), Thư mục hương ước Việt niên, Hà Nội. Nam: Thời kỳ cận đại, Nxb Viện Thông [4] Nguyễn Từ Chi (1996), Góp phần nghiên tin khoa học xã hội, Hà Nội. cứu văn hóa và tộc người, Nxb Văn hóa - [17] Trần Quốc Vượng (2008), Cơ sở văn hóa Thông tin, Hà Nội. Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 69
  9. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 1(98) - 2016 70