Ý nghĩa chiến lược của vùng đất an giang trong thế trận phòng thủ biên giới Tây Nam của chính quyền nhà Nguyễn thời kì 1802 – 1867

pdf 11 trang hapham 2540
Bạn đang xem tài liệu "Ý nghĩa chiến lược của vùng đất an giang trong thế trận phòng thủ biên giới Tây Nam của chính quyền nhà Nguyễn thời kì 1802 – 1867", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfy_nghia_chien_luoc_cua_vung_dat_an_giang_trong_the_tran_phon.pdf

Nội dung text: Ý nghĩa chiến lược của vùng đất an giang trong thế trận phòng thủ biên giới Tây Nam của chính quyền nhà Nguyễn thời kì 1802 – 1867

  1. TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Trần Thị Thanh Thanh và tgk ___ Ý NGHĨA CHIẾN LƯỢC CỦA VÙNG ĐẤT AN GIANG TRONG THẾ TRẬN PHÒNG THỦ BIÊN GIỚI TÂY NAM CỦA CHÍNH QUYỀN NHÀ NGUYỄN THỜI KÌ 1802 – 1867 TRẦN THỊ THANH THANH*, DƯƠNG THẾ HIỀN TÓM TẮT Trong chiến lược quốc phòng biên giới Tây Nam của chính quyền nhà Nguyễn thời kì 1802 – 1867, vùng đất An Giang giữ vai trò trọng yếu trong các hoạt động tổ chức và thực thi quốc phòng. Những vị trí chiến lược trên các tuyến thủy lộ (bao gồm sông Tiền, sông Hậu, sông Vàm Nao, kênh Thoại Hà, kênh Vĩnh Tế và kênh Vĩnh An), vùng rừng núi Thất Sơn, biên thùy Châu Đốc, Tân Châu đã tạo cho vùng đất An Giang một ý nghĩa chiến lược quan trọng trong thế trận phòng thủ biên giới Tây Nam thời kì này. Từ khóa: quốc phòng, An Giang, nhà Nguyễn. ABSTRACT The strategic role of An Giang in the Southwest border’s defense formation of the Nguyen regime during the period of 1802-1867 In the Nguyen regime’s defense strategy for the Southwest border during the period of 1802-1867, An Giang played a significant role in organizing and implementing national defensive activities. Strategic locations on waterway routes (including rivers such as Tien, Hau, Vam Nao, and channels such as Thoai Ha, Vinh Te and Vinh An), That Son mountains, frontiers such as Chau Doc, Tan Chau all contributed to the role of An Giang as a strategic point in the Southwest border’s defense formation during the period. Keywords: national defense, An Giang, Nguyen Regime. 1. Mở đầu sách của các chúa Nguyễn đã tiến hành An Giang là vùng đất địa đầu biên trong lịch sử. Cũng chính vì thế, vùng đất giới Tây Nam với nhiều yếu tố đặc trưng này vẫn luôn giữ được vị trí và ý nghĩa và giữ vai trò rất quan trọng trong chiến chiến lược đặc biệt trong công cuộc quốc lược quốc phòng của nước ta. Từ xưa, so phòng thời kì nhà Nguyễn. với nhiều vùng đất khác trong khu vực 2. Sự quan yếu của những vị trí Nam Bộ, An Giang chiếm vị trí quan chiến lược trên vùng đất An Giang trọng hơn hẳn và được nhà Nguyễn tập Chính quyền nhà Nguyễn tiếp tục trung công tác quốc phòng. Thế trận phát huy ưu thế vị trí, địa hình của vùng phòng thủ biên giới Tây Nam trên vùng đất An Giang vào chiến lược quốc phòng đất An Giang của chính quyền nhà biên giới, đồng thời sáng tạo những Nguyễn từ 1802 đến 1867 thể hiện sâu phương cách mới để từng bước hoàn sắc sự kế thừa và phát triển những chính thiện công cuộc phòng thủ, bảo vệ vững *TS, Trường Đại học Sư phạm TPHCM; Email: t4196hcm@gmail.com ThS, Trường Đại học An Giang 69
  2. TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 2(80) năm 2016 ___ chắc nền độc lập của đất nước ở phía Tây Long với hai nhánh sông chính là sông Nam Tổ quốc. Một hệ thống phòng thủ Tiền và sông Hậu. An Giang với vùng đất có tính chất liên hoàn từ Tây Ninh kéo địa đầu biên giới Châu Đốc và Tân Châu dài đến Hà Tiên đã tạo ra tuyến phòng được coi là đầu nguồn của sông Cửu thủ vững chắc phía Tây Nam, trong đó, Long. Trục dọc sông Cửu Long đi xuyên vùng đất An Giang giữ một vị trí vô cùng qua vùng Nam Bộ đến tận biển Đông, trọng yếu. ngược dòng Cửu Long có thể qua Cam- Đánh giá vị trí quan trọng, thiết yếu pu-chia (Chân Lạp) rồi đi tới Thái Lan của An Giang về mặt chiến lược quốc (Xiêm La) Yếu tố địa lí rất quan trọng phòng, vua Gia Long nhận định: “Châu này của sông Mê-Kông có vai trò quan Đốc, Hà Tiên bờ cõi chẳng kém Bắc trọng và ảnh hưởng mạnh mẽ trong tiến Thành” [5, tr.946]. Đến năm 1833, Minh trình lịch sử các quốc gia Đông Nam Á Mạng vẫn khẳng định: “Tỉnh An Giang lục địa cũng như vùng đất Nam Bộ Việt là đất địa đầu xung yếu” và đưa ra chủ ý Nam. Sông Tiền và sông Hậu chi phối “tất phải xây dựng thành trì để cho sự hầu hết các tuyến đường thủy trên địa phòng thủ biên cương được hùng tráng.” bàn An Giang và có vai trò tiên quyết [6, tr.370]. Tất cả đã đặt nền tảng cho sự trong công cuộc mở đất, cai quản, kiểm nghiệp bảo vệ Tổ quốc của quân dân thời soát trên toàn vùng Nam Bộ xưa. An Nguyễn nơi biên địa An Giang. Trên Giang trở thành trung tâm thực thi chiến vùng đất còn nhiều khó khăn và phức tạp lược bảo vệ biên cương trên các tuyến này, chính quyền nhà Nguyễn đã thể hiện thủy lộ trọng yếu từ thời các chúa một nét tích cực với chính sách quốc Nguyễn, chi phối mạnh mẽ chính sách phòng đúng đắn và vững chắc. Nhà quốc phòng của chính quyền vua Nguyễn Nguyễn tiếp tục phát huy những công trên vùng biên giới Tây Nam. trình quân sự, vị trí đóng quân từ thời các Trên tuyến sông Tiền chúa Nguyễn và thời nội chiến với Tây Ngõ thủy lộ Tiền Giang chảy qua Sơn trên vùng đất An Giang để làm nền một vùng lãnh thổ rộng lớn từ biên giới tảng cho chiến lược quốc phòng đất nước Chân Lạp thuộc địa phận An Giang, trong thời kì mới. Đồng Tháp ngày nay, xuyên qua các tỉnh 2.1. Yếu tố chiến lược từ các tuyến Tiền Giang, Vĩnh Long, Bến Tre và Trà thủy lộ Vinh rồi đổ ra biển Đông theo 6 cửa: Sông Mê-Kông bắt nguồn từ cao Tiểu, Đại, Ba Lai, Hàm Luông, Cổ Chiên nguyên Tây Tạng (Trung Quốc), theo và Cung Hầu. Theo sách Đại Nam nhất một hành trình dài chảy qua các nước thống chí: “Sông Tiền Giang cách huyện Lào, Myanmar, Thái Lan, Cam-pu-chia Đông Xuyên hai dặm phát nguyên từ rồi vào lãnh thổ Việt Nam, đổ ra biển sông Cửu Long ở Trung Quốc chảy về Đông theo 9 cửa. Vì vậy, phần chảy trên phía Đông Nam qua địa phận tỉnh An lãnh thổ Việt Nam của sông Mê-Kông Giang, bờ phía Nam là địa phận của tỉnh, dài khoảng 250km được gọi là sông Cửu bờ phía Bắc là địa giới tỉnh Định Tường, 70
  3. TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Trần Thị Thanh Thanh và tgk ___ giữa có bãi Long Sơn, Tán Tụ và Chà Và, thể theo các cửa của sông Cửu Long lại chảy quanh có 58 dặm chia làm kênh ngược dòng về phía biên giới để đến sông Thuận, lại chảy 9 dặm chia làm sông Lễ Tiền. Công, lại chảy 10 dặm chia làm sông Tú Sông Tiền được xem là tuyến Điền. Ở giữa nổi lên cồn bãi làm thành phòng thủ trọng yếu có tính chất bản lề bãi Doanh Châu, Tùng Sơn, Ngưu Châu, của quân đội nhà Nguyễn trấn giữ biên quanh co 29 dặm đến huyện Vĩnh An, cương, với hàng loạt căn cứ trải dài và chia làm sông Hội An, sông Tân Đông, rộng, gồm Tân Châu [9, tr.220], Hùng 42 dặm qua lị sở Tân Thành làm thành Ngự1, Tiến An, Nhân Hội [9, tr.221], sông Sa Đéc ” [9, tr.199-200]. Phía Vĩnh Thành, An Lạc [5, tr.407], Thủ Đông sông Tiền là khu vực miền Biên Chiến Sai [6, tr.965], Sa Đéc [9, tr.217] Hòa, Sài Gòn – Gia Định, Mỹ Tho Đại Các căn cứ này được bố trí lực lượng Phố với những trung tâm hành chính, phòng vệ nhằm giữ an ninh và hỗ trợ kinh tế, văn hóa quan trọng nhất của đất nhau khi có biến; mặt khác cũng được chi Nam Bộ xưa. Trong buổi đầu mở đất và viện nhanh chóng từ những căn cứ có giữ đất, sông Tiền được xem là tuyến tính liên hoàn ở các tỉnh khác như Vĩnh thủy lộ trọng yếu thông suốt với hệ thống Long, Định Tường2 và cả Gia Định. Việc sông Vàm Cỏ - Sài Gòn. Điều này mang di chuyển thuận lợi bằng đường thủy trên đến sự thuận lợi cho việc di chuyển bằng sông Tiền không những giúp tuyến phòng đường thủy từ phía Đông sang phía Tây thủ này chiếm ưu thế trong việc hành của vùng Nam Bộ, cũng như ngược lên quân, chi viện, mà trong tác chiến của phía Bắc đến Chân Lạp, rồi qua Xiêm La. quân đội có thể tạo ra nhiều bất ngờ đối Trong suốt mấy trăm năm khai phá vùng với quân địch từ nơi xa đến. Điều này thể đất Nam Bộ, sông Tiền là nơi xuôi ngược hiện rõ qua các cuộc giao tranh của quân đi về của những lưu dân khai hoang mở đội nhà Nguyễn với quân Xiêm năm đất, những cuộc hành quân lớn nhỏ của 1833 – 1834 trong các trận chiến Vàm các đội thủy binh. Đối với Chân Lạp và Nao và Củ Hủ. Xiêm La, sông Tiền thường là con đường Trên tuyến sông Hậu thủy thuận lợi để hành quân xâm nhập Phía Tây sông Tiền, tuyến thủy lộ vào khu vực trung tâm trù phú Mỹ Tho, Hậu Giang chảy từ biên giới Chân Lạp Sài Gòn của Nam Bộ. Còn đối với chính xuyên qua vùng lãnh thổ trung tâm của quyền chúa Nguyễn, vua Nguyễn, khi có An Giang rồi đổ vào các tỉnh Đồng Tháp, việc cần thiết phải đến vùng biên viễn An Cần Thơ, Hậu Giang, Vĩnh Long, Trà Giang, Hà Tiên hay vùng đất phía Tây Vinh, Sóc Trăng ngày nay, thông ra biển sông Hậu thì nhất thiết phải di chuyển Đông theo 3 cửa là Định An, Ba Thắc và qua khu vực sông Tiền. Từ Gia Định có Tranh Đề. Sách Đại Nam nhất thống chí thể đi từ sông Sài Gòn qua sông Vàm Cỏ viết: “ Sông Hậu Giang ở cách huyện để vào sông Tiền. Theo đường biển Tây Xuyên (tỉnh An Giang thời nhà Đông, từ miền Trung và miền Bắc vào có Nguyễn) 8 dặm về phía Tây Bắc [tức là 71
  4. TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 2(80) năm 2016 ___ huyện lị Tây Xuyên cũng là tỉnh thành Châu Giang, thủ Thuận Tấn (Thuận Châu Đốc nằm ở phía Tây Bắc bờ sông Phiếm), thủ Đông Xuyên, thủ Cường Hậu]. Phát nguyên như sông Tiền Giang, Thành, thủ Cường Oai, thủ Trấn Giang đến phủ Nam Vang nước Cao Miên, chia (thuộc Cần Thơ ngày nay), thủ Trấn Di một nhánh về phía Tây Nam làm sông (thuộc Sóc Trăng ngày nay), tất cả tạo ra Hậu Giang. Phía Đông sông là địa phận sự liên hoàn, hiệp trợ nhau khi có biến, các huyện Đông Xuyên, Vĩnh An, An đồng thời giữ an ninh trật tự phục vụ cho Xuyên (là các huyện của phủ Tân Thành sự nghiệp khai hoang lập làng buổi đầu. tỉnh An Giang thời nhà Nguyễn). Phía [9, tr.217-218] Tây là địa phận các huyện Tây Xuyên, Sông Hậu giữ vai trò đặc biệt trong Phong Phú, Vĩnh Định, và Phong Thịnh chính sách quốc phòng của chính quyền (là các huyện thuộc 2 phủ Tuy Biên và Ba vua Nguyễn trên vùng đất An Giang. Xuyên tỉnh An Giang nhà Nguyễn). Sông Trên cơ sở những căn cứ quân sự của ở giữa địa phận của tỉnh ” [9, tr.205]. thời kì trước, chính quyền nhà Nguyễn đã Sông Hậu có vị trí chiến lược chẳng kém hoạch định lại những vị trí bố phòng then sông Tiền, là tuyến thủy lộ quan trọng chốt bên cạnh việc mở rộng và tăng bậc nhất, chi phối mạnh mẽ vùng đất cường các đồn, bảo, thủ, sở. Do thấy Tầm Phong Long xưa, cũng như cả khu được tầm quan trọng và tính chất quyết vực phía Tây sông Hậu. Ngay từ buổi định của mặt sông Hậu đối với toàn bộ hệ đầu, chúa Nguyễn đã cho thiết lập đạo thống phòng thủ trên tuyến biên giới Tây Châu Đốc [5, tr.166] một địa hạt hành Nam, chính quyền nhà Nguyễn đã từng chính - quân sự trọng yếu để bước đầu bước thiết lập rất nhiều căn cứ trải dài từ quản lí vùng đất vừa tiếp quản cũng như biên giới xuống phía Nam bao gồm các tạo căn cứ tiền tiêu trong hệ thống phòng đồn Bình Di [5, tr.407], Bình Thiên [5, thủ phương Nam bên bờ sông Hậu. Trước tr.408], Đa Phúc [3, tr.536], Châu Đốc [9, những nguy cơ rất lớn đến từ Xiêm và tr.216], Châu Giang, Năng Gù, Thuận Chân Lạp, trong việc quốc phòng, trị an Tấn, Cần Thăng [9, tr.221], An Châu [4, cho vùng đất mới, đồng thời trên cơ sở tr.408], Đông Xuyên, Mĩ Thanh [9, vốn có là căn cứ chống Tây Sơn trong tr.221], Trấn Giang [9, tr.218], Trấn Di giai đoạn Nguyễn Ánh phục nghiệp, [9, tr.217], Tái Suất [4, tr.408], Cồn chính quyền từ chúa Nguyễn đến vua Muộn [4, tr.405], Cường Thắng, Cường Nguyễn liên tục cho xây dựng, củng cố Thành, Cường Uy [4, tr.406] Nếu như các đồn, thủ nhằm hình thành hệ thống hệ thống phòng thủ trên sông Tiền giữ căn cứ quân sự tương trợ nhau trên sông vai trò bản lề trong chính sách phòng thủ Hậu, đồng thời liên kết với hệ thống của chính quyền nhà Nguyễn thì hệ thống phòng thủ trên sông Tiền trong mục tiêu phòng thủ trên sông Hậu giữ vai trò trung chung của đất nước3. Trên đất An Giang tâm trong hệ thống phòng thủ biên giới xưa, từ đạo Châu Đốc theo sông Hậu đi Tây Nam. Hệ thống phòng thủ trên mặt về phía hạ lưu, liên tiếp gặp các đồn sông Hậu được vây quanh bởi rất nhiều 72
  5. TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Trần Thị Thanh Thanh và tgk ___ hệ thống vệ tinh. Ở mặt Bắc trên đất “bảo sự đột phá về mặt chiến lược và hành hộ” Chân Lạp, nhà Nguyễn đã thiết lập động. Với ý thức lấy sông Hậu làm trung một loạt các đồn binh4 như Trấn Tây [8, tâm, nhà Nguyễn đã tiến hành cho khơi tr.1016], đồn Thị Đam, Vịnh Bích [8, đào những ngõ thủy lộ hiệp trợ mang ý tr.741], Ba Nam [8, tr.741], Thiết Thằng nghĩa quốc phòng rất lớn trên đất An [8, tr.1016] làm những tiền đồn ngăn Giang bằng việc cho ra đời của ba con giặc từ ngoài biên giới. Bên cạnh hệ kênh Thoại Hà, Vĩnh Tế và Vĩnh An đều thống phòng thủ trên sông Tiền ở phía có đầu xuất phát từ sông Hậu. Đông được kết nối với sông Hậu bằng Kênh Thoại Hà là một công trình có những ngõ thông sông Lễ Công (ở phía ý nghĩa thiết yếu của hệ thống phòng thủ. Nam) và kênh Vĩnh An (ở phía Bắc). Ở Bên cạnh giá trị kinh tế, khai hoang phục phía Tây sông Hậu là hệ thống phòng thủ hóa để phát huy tiềm lực, về mặt quốc Thất Sơn, Vĩnh Tế và Hà Tiên. Trong khi phòng kênh Thoại Hà cho thấy tầm nhìn ở phía Nam có sự hỗ trợ của hệ thống vượt hẳn thời chúa Nguyễn vì nó thông phòng thủ vùng Trấn Giang (Cần Thơ), từ sông Hậu ra đến Biển Tây, từ khu vực Ba Thắc (Sóc Trăng). Qua đó cho thấy sự Đông Xuyên (Long Xuyên) ra đến Rạch tác động to lớn của sông Hậu lên chính Giá, nơi đạo Kiên Giang thời chúa sách quốc phòng trên vùng biên giới Tây Nguyễn. Do đó, khi có giặc, từ đồn Rạch Nam của nhà Nguyễn. Giá có thể thoái lui dễ dàng về Trấn Trên tuyến sông Vàm Nao Giang theo đường thủy nếu thất thủ, mặc Bên cạnh hệ thống phòng thủ trên khác có thể đưa quân nhanh chóng từ hệ sông Tiền và sông Hậu, chính quyền nhà thống phòng thủ ở Cửu Long Giang sang Nguyễn bố trí phòng ngự trên sông Vàm ứng cứu, khắc phục nhược điểm lớn thời Nao5, một yếu địa mang tính chiến lược chúa Nguyễn. vừa kết nối hai hệ thống phòng thủ lớn Kênh Vĩnh Tế là một công trình thể trên sông Tiền và sông Hậu vừa có những hiện tầm nhìn chiến lược của chính quyền đặc điểm thuận lợi cho việc tập kích quân nhà Nguyễn, trên thực tế đã phát huy địch từ nơi xa đến và liên lạc quân sự dễ được vai trò và lợi ích to lớn của nó đối dàng trên hai mặt trận sông Tiền và sông với chính trị, an ninh quốc phòng cũng Hậu. Sông Vàm Nao không những là như phát triển kinh tế vùng biên viễn trên chiếc cầu giữ liên lạc mật thiết giữa sông toàn bộ khu vực phía Tây Nam từ Châu Tiền và sông Hậu mà còn là yếu địa Đốc đến Hà Tiên. Vua Gia Long đã đề chiến lược của những trận tập kích của xuất thiết lập một thủy lộ chạy song song quân ta trước kẻ thù xâm lược, nổi bật với tuyến chiến lược phòng thủ Hà Tiên như trong cuộc chiến năm 1833 với quân và Châu Đốc, nhằm tạo ra sự tương trợ Xiêm. cần thiết giữa quân bộ và quân thủy trong Hệ thống kênh đào việc gìn giữ biên cương trước sự tấn công Trong hệ thống phòng thủ bằng từ bên ngoài. Sách Đại Nam thực lục cho đường thủy, nhà Nguyễn đã thể hiện rõ biết năm 1816, trấn thủ Vĩnh Thanh Lưu 73
  6. TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 2(80) năm 2016 ___ Phước Tường tâu với vua Gia Long về hỗ trợ đắc lực cho hệ thống phòng thủ ở việc xây dựng thành Châu Đốc. Vua xem Hà Tiên – Phú Quốc. Điều này thể hiện địa đồ miền Châu Đốc Tân Cương rồi rất rõ qua lời tâu của Nguyễn Công Trứ truyền rằng: “Xứ này nếu mở đường thủy và Nguyễn Công Nhàn lên vua Thiệu Trị thông với Hà Tiên thì hai đàng nông “Vĩnh Tế là đường sau tỉnh Hà Tiên, nếu thương đều lợi. Trong tương lai, dân đến bị cắt đứt thì Hà Tiên không thể giữ ở càng đông, đất mở càng rộng, sẽ thành được” [8, tr.316]. Từ khi ra đời năm một thị trấn to vậy” [5, tr.940]. Có thể 1824, kênh Vĩnh Tế đã giữ vai trò trọng thấy, chính vị trí có ý nghĩa chiến lược đã yếu trong chính sách quốc phòng trên tạo ra sự liên kết hữu cơ trong việc bố vùng biên giới Tây Nam của chính quyền phòng, cũng như phát triển kinh tế giữa nhà Nguyễn. hai vùng của An Giang (Châu Đốc và Trong khi đó, kênh Vĩnh An được Thất Sơn) với Hà Tiên, tạo điều kiện khơi dòng để kết nối hệ thống phòng thủ thuận lợi để con kênh Vĩnh Tế ra đời, trên sông Tiền với các hệ thống phòng hoàn thành hệ thống phòng thủ biên giới thủ khác mà trực tiếp là sông Hậu. Công Tây Nam trong giai đoạn trước khi thực trình này thể hiện được tầm nhìn chiến dân Pháp xâm lược. Kênh Vĩnh Tế là hệ lược của chính quyền nhà Nguyễn trong thống phòng thủ đường thủy ở phía sự cơ động của thủy binh không những trước, nơi tiếp giáp Chân Lạp, linh hoạt trong lúc căng thẳng với quân Xiêm trong di chuyển và tác chiến được hỗ trợ những năm 1843, 1844 mà cả về sau. từ hệ thống phòng thủ bộ binh Thất Sơn Chính vì vùng đất An Giang sở hữu rất vững chắc ở phía sau, đồng thời kết những ngõ thủy lộ vô cùng quan trọng hợp với hai hệ thống phòng thủ hữu cơ trong sự thiết lập thế trận quốc phòng rất cơ động trên sông Tiền và sông Hậu trên vùng biên giới Tây Nam, nên việc tạo ra thế tấn công địch liên tục. Tướng chính quyền nhà Nguyễn tập trung xây nhà Nguyễn Lê Văn Đức từng cho ý dựng một lực lượng thủy binh hùng mạnh kiến: “Sông Vĩnh Tế là đường sau của Hà ở vùng đất này là một tất yếu. Theo đó, Tiên, thông vào tận ruột tỉnh An Giang, tỉnh An Giang được xây dựng một đội Vệ việc phòng bị rất là quan trọng” [8, thủy với đội thuyền có lúc lên đến 65 tr.366]. Theo dòng Vĩnh Tế, chính quyền thuyền Điển thủ (1854)6 với đầy đủ binh nhà Nguyễn đã thiết lập một hệ thống lính, khí giới, chiến cụ. Tất cả trở thành phòng thủ quan trọng bao gồm các đồn cơ sở để tạo nên sự vững chắc của hệ bảo như Vĩnh Tế [7, tr.827], Vĩnh Gia [4, thống phòng thủ biên giới Tây Nam của tr.405], Vĩnh Điều [9, tr.219-221], Tiến chính quyền nhà Nguyễn. An [3, tr.536], Nhơn Hội [9, tr.219-221], 2.2. Ý nghĩa chiến lược của những Giang Nông [3, tr.536] có ý nghĩa như vùng địa đầu biên giới một bức “Vạn lí hào thành”, với sự cơ Khu vực Thất Sơn động và vững chắc của các đội quân Vùng đất An Giang mang đặc điểm thủy, bộ để ngăn giặc từ phía Chân Lạp, bán sơn địa rất rõ nét với sự phân bố rộng 74
  7. TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Trần Thị Thanh Thanh và tgk ___ khắp của địa hình đồi núi. Trong đó, Tuy nhiên, đây là sự nghiệp khó khăn vì vùng Thất Sơn với diện tích khoảng nơi này tập trung phần lớn cư dân 600km2 địa hình đồi núi được xem là một Khmer, hay bị kích động, dễ bị chi phối ưu thế rất lớn trong việc thiết lập thế trận từ phía Chân Lạp, gây nên tình hình trị an phòng thủ và triển khai phản công. Vùng thường xuyên bất ổn. Điều này phương Thất Sơn như một pháo đài thiên nhiên hại đến công tác quốc phòng của nhà vô cùng kiên cố trước Chân Lạp và Xiêm Nguyễn trên cả vùng biên giới Tây Nam. La, án ngữ cả vùng bờ biển Hà Tiên, Vấn đề này thể hiện khá rõ trong thời Rạch Giá, làm tấm bình phong che chắn Thiệu Trị khi vùng Thất Sơn liên tục bất cho cả khu vực phía Tây Nam của Nam ổn song song với cuộc xâm lược của liên Bộ. Yếu tố hiểm địa của vùng núi non quân Xiêm La – Chân Lạp vào Hà Tiên, được các nhà quân sự từ cổ chí kim thừa An Giang từ 1841 đến 1845. Trong suốt nhận và đánh giá rất cao trong việc điều thời gian đó, chính quyền nhà Nguyễn binh khiển tướng. Trong lịch sử Việt phải liên tục vừa điều quân trấn áp bên Nam, không ít trường hợp đã lợi dụng trong vừa chống giặc bên ngoài, thể hiện triệt để địa hình đồi núi để giữ thế phòng rõ thế lâm nguy cho phía Nam đất nước. thủ và phản công chiến lược giành lấy thế Chính quyền nhà Nguyễn nhiều lần thừa thắng. Có thể kể đến Đinh Bộ Lĩnh (924 nhận vùng Thất Sơn rất hiểm trở, “đường – 979), ông đã lợi dụng địa hình hiểm trở rừng nhiều ngã, chưa dễ đi cùng kiệt của động Hoa Lư mà xây dựng căn cứ trong rừng núi” [8, tr.248], nên việc buổi đầu dẹp loạn 12 sứ quân; Lê Lợi kiểm soát càng được tăng cường. Chính (1385 – 1433) nhờ rừng núi Chí Linh mà vì sự quan trọng và sức tác động của 3 lần cố thủ thành công tạo tiền đề duy trì vùng Thất Sơn lên chính sách quốc lực lượng rồi phản công đánh bại quân phòng của nhà Nguyễn rất lớn nên việc Minh. Đó được xem là yếu tố “địa lợi” thiết lập một hệ thống vừa giữ an ninh, trong binh pháp. trật tự vừa phòng thủ biên giới là một nội Vùng Thất Sơn vừa có đồi núi để dung quan trọng của công cuộc quốc tạo thế phòng thủ, phản công, lại vừa có phòng nơi đây. Trong vùng Thất Sơn, đồng bằng để canh tác nuôi quân. Đây nhà Nguyễn đã thiết lập một hệ thống chính là yếu tố tạo nên tính bền vững của phòng thủ bao gồm nhiều đồn bảo như căn cứ Thất Sơn. Yếu tố địa lợi từ vùng Tĩnh Biên [1, tr.19], Tiên Nông [8, rừng núi Thất Sơn trở thành lá chắn tự tr.323], Vĩnh Thông, Vĩnh Điều [9, nhiên ngăn trở những đợt địch họa từ bên tr.219-220], Thân Nhân, Hưng Nhượng, ngoài vào trung tâm An Giang nói riêng Thuyết Nặt, Đàm Triết [8, tr.141, 323] và Nam Bộ nói chung. Do đó, đối với Các đồn bảo này có sự liên hệ với nhau, chính quyền nhà Nguyễn, việc kiểm soát đồng thời cũng liên hệ mật thiết với các và phát huy thế mạnh của vùng đất chiến hệ thống phòng thủ Vĩnh Tế, Hà Tiên, lược này không thể xem nhẹ trong việc Châu Đốc thông qua đường liên lạc thủy ổn định và phòng thủ biên giới Tây Nam. kênh Vĩnh Tế. Đại Nam thực lục chép: 75
  8. TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 2(80) năm 2016 ___ “Một dải sông Vĩnh Tế là đường lối buộc Vùng đất này được các vua Nguyễn phải đi qua của hai tỉnh An Giang và Hà đánh giá rất cao khi bàn về vị trí xây Tiên khi có việc tư báo hoặc vận lương” dựng lị sở chỉ huy cho cả hai tỉnh An [8, tr.141]. Có thể nói, vị trí và địa hình Giang và Hà Tiên: “Bàn về hình thế, thì đặc trưng của vùng Thất Sơn đã tác động Mỹ Đức (Châu Đốc) tuy hẹp mà khống lớn đến chính sách quốc phòng của nhà chế được Phù Cừ, Kim Dữ (thuộc Hà Nguyễn, đóng góp to lớn vào công cuộc Tiên) như vạt áo, như cổ họng của núi, giữ nước của dân tộc trên tuyến biên giới biển, thực là chỗ đất quan yếu. Đến như Tây Nam từ đầu thế kỉ XIX đến trước khi sông Tiền Giang, Hậu Giang ở tỉnh An thực dân Pháp xâm lược (1867). Giang đều từ Nam Vang đổ lại, mà bên tả Khu vực Châu Đốc sông Hậu Giang thì là đất liền dân người Khi đề cập vị trí chiến lược của Kinh ở, đất bằng liền thấp, thông suốt vùng đất An Giang, các nhà quân sự thời nhiều ngả, lúc quốc sơ dựng đồn (tức là Nguyễn thường dành cho vùng Châu Đốc đồn Châu Đốc, nay là Đồng Phú) ở đấy, một vị trí xứng đáng. Vùng đất này hội thực là chỗ quan yếu để khống chế các đủ những yếu tố để trở thành một trung bộ lạc người phiên. Long Sơn thì dựa tâm cả về quân sự, chính trị lẫn kinh tế lệch vào sông Tiền Giang, không đẹp qua nhiều thời kì. Châu Đốc được xem là bằng chỗ Đồng Phú này. Vua cho là nơi biên viễn phức tạp, khai phá muộn phải.” [4, tr.178]. nhưng có địa thế chiến lược “tựa núi nhìn Trong chiến lược quốc phòng của sông”, “tiền tam giang, hậu thất lĩnh”, án chính quyền nhà Nguyễn trên vùng đất ngữ hai đường thủy bộ thuận lợi từ Chân An Giang, Châu Đốc được xem như khu Lạp vào nước ta. Ngay từ thời các chúa vực đầu não với nhiều đồn, bảo, thành Nguyễn, đây đã là nơi tập trung của nhiều lũy, kho trữ quan trọng, giữ vai trò chỉ đồn bảo quan trọng, có ý nghĩa chiến huy hệ thống. Nhà Nguyễn sớm nhận ra lược trong hệ thống phòng vệ phương vị trí chiến lược của Châu Đốc mà ít nơi Nam chạy từ Châu Đốc qua Thất Sơn đến nào có được. Đại Nam nhất thống chí Hà Tiên, tạo thế phòng thủ liên hoàn trên chép: “Châu Đốc về phía Tây cách tỉnh tuyến đường bộ tiến vào khu vực Nam Hà Tiên 203 dặm, phía Bắc cách thành Bộ. Các đồn bảo được chính quyền chúa Nam Vang 244 dặm rưỡi, thật là nơi biên Nguyễn cho thiết lập xuyên suốt từ Châu phòng quan yếu” [9, tr.216]. Về đường Đốc qua Hà Tiên với sự kết hợp giữa bộ thủy, Châu Đốc thông tuyến đến tất cả binh và thủy binh, linh hoạt trong chiến những trung tâm quan trọng thuộc nội đấu. Vùng Châu Đốc không chỉ thuận lợi thủy khu vực Nam Bộ cũng như thông ra cho việc phòng thủ ngăn giặc ngay khi đến biển Đông và biển Tây, phía Bắc lên mới vào nước ta mà còn là nơi yếu địa đến Chân Lạp, Xiêm La. Về đường bộ, đặt căn cứ điều hành, đảm bảo công tác Châu Đốc có đường đến cuối địa giới chỉ huy nhanh chóng trong hệ thống Vĩnh Long dài hơn 25.800 trượng, một phòng thủ biên giới Tây Nam. đường đến Hà Tiên xuất phát từ trạm 76
  9. TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Trần Thị Thanh Thanh và tgk ___ Giang Phúc dài hơn 14.500 trượng, một chính quyền nhà Nguyễn từng đánh giá: đường đến thành Trấn Tây (Chân Lạp) “Thôn Long Sơn ở về đất thượng du, hình xuất phát từ bờ Vĩnh Tế dài hơn 14.900 thế cao ráo sáng sủa, thêm vào đó, lại có trượng [7, tr.747], lại có đường thông vào 2 con sông Tiền Giang và Hậu Giang bao khu vực Thất Sơn qua ngõ “Tân lộ kiều bọc, thực là nơi danh thắng” [7, tr.802]. lương”. Như vậy, về hai tuyến thủy bộ, Tuy nhiên, do chiến lược quốc phòng và Châu Đốc đều thông suốt đảm bảo cho công cuộc bảo hộ Chân Lạp có những việc hành quân, truyền tin và vận lương, diễn biến mới mà vùng Long Sơn dần những yếu tố rất quan trọng trong công mất ưu thế chiến lược so với Châu Đốc tác quốc phòng. Mặt khác, trong chiến “nhưng nay quan quân đóng giữ ở Trấn lược quốc phòng trên vùng biên giới Tây Tây thì chỗ ấy trở thành nơi nội địa lại Nam, việc lấy hệ thống phòng thủ trên chẳng cần thiết trước mắt nữa. Thành trì sông Hậu làm trung tâm mà Châu Đốc là Châu Đốc hiện thành cơ sở rồi, thì đóng tuyến đầu quan yếu trong hệ thống đó đã ở đấy cũng đủ giúp cho việc phòng ngự” cho thấy sự tác động rất lớn của vùng đất [7, tr.802], do đó, thành tỉnh An Giang này đối với sự an nguy của quốc gia ở cũng không được dựng ở đây mà dời về phía Tây Nam. Nhiều cơ sở quan trọng Châu Đốc. Tuy nhiên, do vị trí án ngữ được xây dựng ở Châu Đốc như thành khá quan trọng của Tân Châu nên chính tỉnh An Giang [9, tr.192-193] là trung quyền nhà Nguyễn đã thiết lập nhiều đồn, tâm chỉ huy của cả hai tỉnh An Giang và bảo quan trọng thuộc vùng đất này như: Hà Tiên; đồn Châu Đốc [5, tr.917-941] đồn Long Sơn [7, tr.802], bảo An Lạc, và kho Đốc Tín [3, tr.452] lớn nhất ở bảo Vĩnh Thành [9, tr.219-220]. Mặt phía Tây Nam lại cho quân đội chủ lực khác, nhà Nguyễn còn thiết lập những đóng ở đây. Tất cả đã nói lên vị trí và tầm đồn bảo quan trọng bên kia sông Tiền quan trọng của Châu Đốc với chiến lược thuộc Định Tường như Hùng Ngự, quốc phòng trên vùng biên giới Tây Nam Thông Bình [9, tr.216] để hỗ trợ nhau. của chính quyền nhà Nguyễn. Tân Châu trở thành một mắt xích quan Khu vực Tân Châu trọng trong hệ thống phòng thủ trên vùng Trên vùng đất An Giang thời biên giới Tây Nam của chính quyền nhà Nguyễn, bên cạnh vị trí chiến lược vô Nguyễn ở An Giang. cùng quan trọng của Châu Đốc, chính Mỗi vùng đất biên giới của An quyền nhà Nguyễn cũng rất đề cao vị trí Giang nắm giữ những vai trò chiến lược án ngữ vùng đầu nguồn sông Cửu Long khác nhau, có sự liên kết hỗ trợ nhau một của Tân Châu. Trên vùng đất này, nhà cách tự nhiên, cũng như dưới tác động Nguyễn đã từng bước bố trí các căn cứ của chính quyền nhà Nguyễn đã tạo ra quân sự, đặt quân trấn giữ để biến cù lao một sức mạnh to lớn trong công cuộc này thành “chiến hạm khổng lồ” ngăn phòng thủ trên vùng biên giới Tây Nam giặc giữa dòng Cửu Long. Tân Châu sở của đất nước. hữu vùng Long Sơn rất quan yếu mà 77
  10. TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 2(80) năm 2016 ___ 3. Kết luận huy, điều hành bởi những danh tướng Với cách nhìn nhận tổng thể về thế mưu trí, dày dạn trận mạc, am tường binh trận quốc phòng trên vùng biên giới Tây pháp như Nguyễn Văn Thoại, Trương Nam, chính quyền nhà Nguyễn đã chủ Minh Giảng, Nguyễn Tri Phương, Doãn tâm kiến tạo vùng biên địa từ An Giang Uẩn Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hầu qua Hà Tiên thành một hệ thống phòng từng nhận định vùng đất An Giang quan thủ kiên cố, vững mạnh đủ sức đánh bật trọng bởi hai yếu tố “dãy Thất Sơn với mọi sự tấn công xâm lấn từ phía Chân gần 20 ngọn núi nằm về phía Tây Mótt Lạp và Xiêm La. Trong hệ thống phòng Chrút (Châu Đốc) là một địa lợi về mặt thủ đó, vùng đất An Giang với vị trí án cứ hiểm quân sự, những nhánh sông Tiền ngữ biên thùy, ngõ thông tứ hướng có ý và Hậu lưu thông từ Phnom Penh ra biển nghĩa chiến lược quyết định đến sự thành phía Nam lại là một thủy đạo thiết yếu về bại của cả hệ thống. Trên vùng đất An thương mại và quốc phòng” [1, tr.3]. Do Giang, chính quyền nhà Nguyễn đã vị trí đặc biệt, hệ thống phòng thủ trên hoạch định đúng đắn khi xây dựng từng biên địa An Giang được thiết lập với vai hệ thống phòng thủ vệ tinh theo đặc trưng trò trung tâm của thế trận phòng thủ biên địa hình và vị trí chiến lược, có sự kết giới Tây Nam, có sự liên kết hữu cơ với hợp giữa thủy và bộ, giữa địa hình sông những hệ thống phòng thủ khác thuộc Hà nước linh hoạt với núi rừng vững chắc, Tiên, Định Tường, Vĩnh Long và Gia trong đó tuyến sông Hậu (bao gồm cả Định, cũng như giữ liên hệ chặt chẽ với Châu Đốc) làm trung tâm điều tiết và chỉ triều đình Huế. Vùng đất An Giang mang huy. Đây là đặc điểm quan trọng của thế ý nghĩa chiến lược quan trọng trong thế trận phòng thủ ở An Giang, được bao trận quốc phòng trên vùng biên giới Tây quanh bởi các tuyến phòng thủ sông Nam không chỉ của chính quyền nhà Tiền, Vĩnh Tế, Thất Sơn, Châu Đốc, Tân Nguyễn thời kì 1802 – 1867 mà cả những Châu được xây dựng rất cơ bản, được chỉ giai đoạn giữ nước tiếp sau. ___ 1 Hội Sử học Đồng Tháp - Tên gọi Hồng Ngự, 2 Hệ thống đồn bảo liên hoàn hiệp trợ tỉnh An Giang thuộc: - Tỉnh Định Tường: đạo Trường Đồn, Hùng Ngự, Thông Bình, Cửu An, Trấn Nguyên [9, tr.124-126]. - Tỉnh Vĩnh Long: thành Vĩnh Long [9, tr.150], tấn Định An, Ngao Châu, Bân Côn [9, tr.166-167]. 3 Từ năm 1789, Nguyễn Ánh cho xây thủ Đông Xuyên (là một đồn nhỏ tại vàm sông Tam Khê, sau đổi thành sông Đông Xuyên, nay là sông Long Xuyên) để làm tiền đồn chống lại quân Tây Sơn, tiếp đó, ông cho lập đồn Châu Giang, đồn Hồi Oa, thủ Cường Uy để giữ gìn an ninh, phòng thủ quân địch. Bên cạnh đó, Nguyễn Ánh cũng tăng cường quân lực cho các căn cứ cũ từ thời các chúa Nguyễn để biến đất An Giang trở thành căn cứ đứng chân buổi đầu, làm bàn đạp tái chiếm Gia Định, tạo tiền đề cho quá trình phục nghiệp họ Nguyễn Gia Miêu. 4 Những đồn lũy nhà Nguyễn thiết lập trên đất Chân Lạp dọc theo sông Mê Kông kéo dài từ biên giới nước ta đến thành La Bích (Lovek). 5 Thời chúa Nguyễn cho lập đồn Thuận Tấn ở đầu phía Tây giáp sông Hậu, đến thời nhà Nguyễn đổi thành đồn Thuận Phiếm [9, tr.218]. 6 Quốc sử quán triều Nguyễn, Viện sử học (2007), Đại Nam thực lục, tập VII, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.311. 78
  11. TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Trần Thị Thanh Thanh và tgk ___ TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Văn Hầu (1970), Sự thôn thuộc và khai thác đất Tầm Phong Long (chặng cuối cùng của cuộc Nam tiến), Tạp san Sử-Địa, số 20-1970, Sài Gòn. 2. Sơn Nam (1988), Lịch sử An Giang, Nxb Tổng hợp An Giang. 3. Nội các triều Nguyễn, Viện sử học (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 9, Nxb Thuận Hóa, Huế. 4. Nội các triều Nguyễn, Viện Sử học (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 10, Nxb Thuận Hóa, Huế. 5. Quốc sử quán triều Nguyễn, Viện Sử học (2007), Đại Nam thực lục, tập I, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 6. Quốc sử quán triều Nguyễn, Viện Sử học (2007), Đại Nam thực lục, tập III, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 7. Quốc sử quán triều Nguyễn, Viện Sử học (2007), Đại Nam thực lục, tập IV, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 8. Quốc sử quán triều Nguyễn, Viện Sử học (2007), Đại Nam thực lục, tập VI, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 9. Quốc sử quán triều Nguyễn, Viện Sử học (2006), Đại Nam nhất thống chí, tập 5, Nxb Thuận Hóa, Huế. 10. Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang (2013), Địa chí An Giang, Nxb An Giang. (Ngày Tòa soạn nhận được bài: 09-9-2015; ngày phản biện đánh giá: 01-10-2015; ngày chấp nhận đăng: 23-02-2016) 79