Di sản văn hóa làng Yên
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Di sản văn hóa làng Yên", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- di_san_van_hoa_lang_yen.doc
Nội dung text: Di sản văn hóa làng Yên
- DI SẢN VĂN HÓA LÀNG YÊN
- Di sản văn hóa làng Yên Chú thích bìa: - Ảnh bìa trước: Chùa Tây Phương - Ảnh bìa sau: Đền rước hát 2
- LIÊN CHI HỘI NGƯỜI CAO TUỔI LÀNG YÊN DI SẢN VĂN HÓA LÀNG YÊN Biên soạn: Khương Duy Anh Lời tựa: GS sử học Lê Văn Lan Tái bản có sửa chữa bổ sung NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA THÔNG TIN Năm 2014 3
- Di sản văn hóa làng Yên LỜI GIỚI THIỆU Làng Yên, còn gọi là Yên Thôn, thôn Yên, làng Yên Thôn, là một làng nhỏ, người xưa để lại nhiều di tích văn hóa có giá trị như đình, chùa, đền, miếu, văn chỉ, nhà thờ là những di sản văn hóa tiêu biểu ở làng quê đồng bằng sông Hồng. Trong đó, bảy di tích có từ thời Hậu Lê trở về trước. Có những di tích có giá trị lớn về kiến trúc và điêu khắc, như chùa Tây Phương, một công trình kiến trúc điêu khắc cổ nổi tiếng trong và ngoài nước; đình Yên thôn, đặc trưng, tiêu biểu cho kiến trúc đình thời Lê Trung Hưng; đền Đỗng Hoa, kiến trúc độc đáo và hiếm lạ v.v Những đặc sắc của các di tích là tinh hoa của những bàn tay khéo léo của biết bao thế hệ thợ làng. Ngày nay hậu duệ của họ vẫn đang phát huy tinh hoa của cha ông truyền lại, làm đẹp cho đời. Trong các di tích, còn lưu giữ được gần trăm đôi câu đối cổ, 25 tấm bia đá cổ, 4 quả chuông đồng niên đại thời Lê, Nguyễn. Các di vật cổ là những tư liệu rất có giá trị về nghiên cứu lịch sử và văn hóa. 1
- Di sản văn hóa làng Yên Ngoài chùa là nơi thờ Phật các di tích khác thờ những vị Thánh, vị Thần là những người có công với dân với nước như Thánh Tản, Trần Hưng Đạo, Đào Khang, Trầm Đỗng, kết hợp với tín ngưỡng dân gian, đa thần giáo, phản ánh đời sống tâm linh đa dạng và phong phú của dân làng. Các di tích văn hóa ở làng Yên phong phú và độc đáo, có nhiều giá trị về nghiên cứu khoa học, giáo dục truyền thống và còn là địa điểm du lịch sinh thái tâm linh và tìm hiểu về truyền thống lịch sử. Nhằm góp phần giúp cho người làng có thêm hiểu biết về các di sản văn hóa của quê hương mình, liên chi hội người cao tuổi làng Yên Thôn xuất bản cuốn sách “Di sản Văn hóa làng Yên”, do ông Khương Duy Anh biên soạn cùng một số nhà giáo nghỉ hưu tham gia. Tập sách giới thiệu: Hệ thống những tư liệu sưu tầm được về các di sản văn hóa chủ yếu của làng như Đình, Chùa, Đền, Miếu, Văn chỉ, Nhà thờ cổ Hi vọng, cuốn tài liệu này là nguồn tài liệu tham khảo cho những ai muốn đi sâu tìm hiểu về các di tích văn hóa của làng Yên. Trong quá trình sưu tầm biên soạn tác giả đã nhận được sự chỉ đạo của Đảng ủy, ủy ban nhân dân xã, được sự giúp đỡ của ban khánh tiết, các vị trụ trì các chùa, đền, miếu của các cụ cao tuổi trong làng. Đặc biệt là các cụ Nguyễn Văn Thế, Vũ 2
- Khương Duy Anh Thuân, Nguyễn Kiến, nhà giáo Nguyễn Huy Lung đã cung cấp nhiều tư liệu và giúp dịch thuật các văn bản Hán Nôm ở các di tích. Giáo sư sử học Lê Văn Lan và ông Đặng Bằng nguyên trưởng ban quản lý di tích Hà Tây và phó ban quản lý di tích – danh thắng Hà Nội đã góp ý nhuận sắc hiệu đính và giới thiệu cuốn sách. Di sản văn hóa làng Yên còn tiềm ẩn nhiều điều chưa hé lộ. Cuốn sách này chỉ nên coi là một bước tiếp cận ban đầu. Mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng chắc chắn cuốn sách còn nhiều thiếu sót. Rất mong bà con dân làng và bạn đọc góp ý chỉ giáo thêm. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách “Di sản văn hóa làng Yên” với đông đảo bạn đọc. Liên chi hội người cao tuổi Làng Yên 3
- Di sản văn hóa làng Yên LỜI TỰA Đình, chùa, đền, miếu là những nơi linh thiêng tinh kết nhiều giá trị truyền thống của làng quê ta. Chắt chiu từng nắm gạo, đồng tiền, năm này qua năm khác, đời trước đến đời sau, các thế hệ cư dân thôn xã của đất nước ta, cũng đồng thời dồn vào đây biết bao là tâm hồn và tài trí, để làm nên và gìn giữ những công trình kiến trúc tôn giáo – tín ngưỡng này. Định kì hoặc thường xuyên lui tới những nơi này để tụ họp xã hội và cộng đồng, để sống cuộc sống tâm linh và thực hành các nghi thức tôn giáo – tín ngưỡng, nhiều đời người xưa, trong và sau các lũy tre làng, có khi cũng còn vài điều thái quá hoặc bất cập đấy, nhưng, tảng nền và xuyên suốt, thì đích thực là đã tạo ra được một chất keo quí hóa để gắn kết lại sự bền vững và trường tồn của các làng quê và cả đất nước Việt Nam. Mặt khác, các cụ cũng – hình thức hoặc vô thức – để lại những thông điệp cho đời sau, rất có giá trị, từ trong những động thái mà là niềm tha thiết vô cùng của chính thế hệ các cụ, khi lui tới những nơi này. Những thông điệp ấy, trải quá nhiều năm tháng, có khi may mắn mà còn vẹn nguyên, nhưng đa phần thì đã trở thành ảo mờ, bí ẩn hoặc thậm chí bị sao nhãng, lãng quên. 4
- Khương Duy Anh Với tinh thần trách nhiệm cùng người xưa, và những giá trị do các cụ để lại, nhiều nhà nghiên cứu và cơ quan chức năng đã đến những nơi đình, chùa, đền, miếu trong các làng thôn xưa để tìm hiểu, sưu tầm, nghiên cứu làm nên nhiều tác phẩm, công trình đáng kể. Nhưng tốt hơn, thì đây vẫn là và chính là việc của những “người trong cuộc”, những hậu duệ và đồng hương bây giờ, của các thế hệ người xưa đã tạo dựng, bảo trì và đặc biệt là đã sống thiết tha cùng và ở các đình, chùa, đền, miếu ấy. Công việc này, có thể và cần phải vượt qua một số khó khăn, chủ yếu là về năng lực chuyên môn, nhưng đổi lại, những “tác giả tại chỗ” này, lại sẵn ngay trong mình những thực tế trực tiếp, thậm chí, đã ngấm vào máu thịt rồi, mà những người từ ngoài, từ xa đến, khó mà có được. Sách “Di sản văn hóa làng Yên” của tác giả Khương Duy Anh là một ví dụ, thậm chí là tiêu biểu, của sự thể này. Đây là sách của những người làng Yên thôn, xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội, tự nói về những đình, chùa, đền, miếu trong khối di sản văn hóa đồ sộ của quê hương mình. Chắc chắn cuốn sách này là một đóng góp đáng kể vào công cuộc bảo tồn, phát huy các giá trị quí báu và quan trọng trong những di sản văn hóa của quê hương và của đất nước. Hà Nội, đầu xuân Qúy Tỵ 2013 Giáo sư sử học Lê Văn Lan 5
- Di sản văn hóa làng Yên VÀI NÉT VỀ LÀNG YÊN Làng Yên nằm ở phía nam huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội, cách huyện lị Thạch Thất 4 km, cách trung tâm Hà Nội theo đại lộ Thăng Long trên 20km. Yên thôn giáp với các xã Chàng Sơn ở phía Bắc, Bình Phú ở phía nam; Cần Kiệm ở phía tây và làng Thạch cùng xã ở phía đông. Trước thế kỉ 19 làng Yên Thôn là 1 trong 3 làng của xã Nguyễn Xá – còn gọi là Nguyễn Xá tam thôn. Từ đầu thế kỉ 19 là 1 trong 3 làng của xã Thạch Xá. Từ năm 1955 là 1 trong 2 làng của xã Thạch Xá đến nay. Làng Yên xưa có tên là làng Triền. Tên này thấy ghi trong các bia đá, các bài minh chuông ở các chùa Bảo Quang, Tây Phương, Am Thanh, Quan Âm có niên đại từ thế kỉ 18 trở về trước. Thời vua Minh Mệnh thứ 18 - 1838 còn thấy ghi tên Triền Thôn trong giấy văn bằng trúng cách kì thi khảo hạch của cụ Nguyễn Thế Phúc. Đến thời vua Thiệu Trị thứ 6 – 1846, xuất hiện tên An Thôn (đọc là Yên Thôn cũng thế) trong sắc phong thần ở quán làng Yên. Như vậy địa danh Yên Thôn có từ cuối thời Minh Mệnh hoặc thời vua Thiệu Trị, trong 6
- Khương Duy Anh khoảng 8 năm từ 1838 đến 1846. Có lẽ nằm trong lần đổi tên 300 làng xã ở 13 trấn Bắc Thành và phủ Hoài Đức “dùng tên đẹp để lưu lại cho muôn đời sau” 1. Làng Yên là dải đất kéo dài từ triền phía nam gò Nủ Rùa lên phía tây là núi Câu Lậu – Tây Phương. Nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền núi và đồng bằng nên địa hình làng Yên, cả trong làng và đồng điền không bằng phẳng, có nhiều ao, đầm, gò đống xen kẽ, ngòi nước uốn lượn. Làng Yên có đường tỉnh lộ và đường liên xã chạy qua, giúp cho giao lưu với các nơi khác khá thuận lợi. Dân cư làng Yên quần tụ theo từng ngõ xóm, “trong xóm ngoài làng”. Làng có trên 10 xóm, 7 xóm ở khu làng Yên và 3 xóm lẻ Cầu Liêu, Đồng Sống, Tây Phương. Ngày nay làng chia làm 6 thôn mới: 3 thôn ở làng Yên và 3 thôn lẻ. Dân cư làng Yên, tuy có mặt ở đây từ thời xa xưa nhưng phát triển chậm. Theo thống kê, năm 1928 chỉ có 1634 người, và nay có 4000 người quy tụ trong 12 dòng họ. Trong đó có một số họ được biết từ Thanh Hoá ra định cư ở đây từ khoảng 500 năm nay. Hầu hết các họ có nhà thờ tổ, trong đó có một số nhà thờ họ có từ 100 đến 200 năm tuổi. 1 Theo sách Làng mĩ tục Hà Tây của TS. Nguyễn Tá Nhi 7
- Di sản văn hóa làng Yên Từ bao đời nay, người dân Yên Thôn đã thích nghi với môi trường tự nhiên không mấy ưu đãi. Làng đất chật người đông, bình quân ruộng đất thời cải cách ruộng đất chưa được 1 sào Bắc Bộ. Ruộng đất không mấy phì nhiêu, nhưng bằng trí tuệ và sự cần cù, năng suất cây trồng luôn ở mức cao của huyện. Từ xưa, ngoài nghề làm ruộng, bà con còn tìm tòi nhiều ngành nghề khác để mưu sinh, góp cùng với các làng Tổng Nủa thành vùng đất trăm nghề. Có những nghề sản phẩm trở thành đặc sản như bánh tẻ Cầu Liêu được đúc kết thành tục ngữ: “Ổi Lại Khánh, bánh tẻ Cầu Liêu, sáo diều Kẻ Nủa”. Và nghề thợ ngõa Yên thôn thì nổi tiếng. Phần lớn nam giới trong làng làm thợ, quy tụ trong các “xã” thợ. Thợ ngõa Yên thôn nổi tiếng với xây tường đá ong ghép mạch kẻ chì, soi bói, đắp vẽ, trang trí các công trình từ nhà cửa đến đình chùa đền miếu. Hầu hết các công trình ở làng và phần lớn các công trình trong vùng là sản phẩm của những tay nghề thợ ngõa làng Yên. Có những tên tuổi để lại những dấu ấn đặc sắc về đắp vẽ trang trí ở chùa Tây Phương, đền Đỗng Hoa, tháp Bình Sơn v.v như các cụ Hai Nông, cụ Ba Canh v.v Ngày nay, nghề truyền thống này tiếp tục phát triển, làng có hàng chục tổ thợ, trong đó có số phát triển thành doanh nghiệp; có hàng chục tay thợ chuyên 8
- Khương Duy Anh đắp vẽ hoa văn theo tích cổ, có người được nhà nước phong danh hiệu nghệ nhân như Nguyễn Văn Tuấn (được vinh danh năm 2011). Đặc sản Yên Thôn còn phải kể đến hồng Yên Thôn, có quả đỏ đẹp, không có hạt, ăn rất ngọt, được tham gia vào quần thể những cây đặc sản của mọi miền đất nước trồng trong vườn Bác ở sau lăng. Cà trắng Cửa Núi, cùi dày, ăn dòn vị ngọt, khác hẳn cà trắng nơi khác. Tuy đến nay đã thành dĩ vãng, nhưng dư âm cà Cửa Núi còn mãi : “Nhớ ngày mùng 6 tháng 3. Ăn cơm với cà đi hội chùa Tây”. Làng Yên có phường rối nước cổ truyền, 1 loại hình nghệ thuật dân gian có từ rất xưa, từng diễn trò trong các đình đám, hội hè ở làng và đi lưu diễn ở các nơi; có phường hát chèo cũng có tiếng trong vùng; có phường vật, là 1 trong 4 lò vật ở Tổng Nủa, có những đô nổi tiếng ở xứ Đoài còn được nhắc đến như đô Ái, đô Đồng, đô Phong Trong đó đô Ái vật đổ cả đô vật Bắc Kỳ. Tuy là một làng nhỏ nhưng người xưa để lại nhiều di sản văn hoá, tín ngưỡng tâm linh cổ kính với mật độ khá dày như đình, chùa, đền, miếu, nhà thờ, văn chỉ; có đến 7 di tích có từ thời Lê. Trong đó chùa Tây Phương là di tích kiến trúc điêu khắc 9
- Di sản văn hóa làng Yên cổ độc đáo nổi tiếng trong và ngoài nước, với những pho tượng La Hán, Kim Cương được ghi sách kỷ lục Việt Nam. Đình Yên Thôn có kiến trúc đặc trưng tiêu biểu của kiến trúc đình thời Lê Trung Hưng. Đền Đỗng Hoa di tích kiến trúc độc đáo và hiếm lạ, Trong các di tích còn lưu giữ được nhiều cổ vật như chuông đồng, bia đá và có nhiều hoành phi câu đối cổ; có giá trị lớn về nghiên cứu khoa học. Các nhà nghiên cứu cho biết: hiếm có làng nhỏ nào mà có nhiều di sản văn hoá cổ đến như thế. (đây là nội dung chính đề cập đến trong cuốn sách này) Làng Yên xưa cũng là làng Khoa bảng, về đại khoa có cụ Phùng Đốc 1 đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ thời Lê Hiển Tông làm quan đến giám sát ngự sử (theo văn chỉ Yên Thôn). Về trung khoa, có 7 vị đỗ hương cống, cử nhân là các cụ: -Nguyễn Trang Kiên hương cống khoa Canh Tý - 1720 -Nguyễn Đăng Tam hương cống khoa Quý Mão - 1723 1 Văn chỉ Yên Thôn ghi: Phùng Đốc “tại bản thôn”, tức là ở thôn này. Hiện nay làng Yên không có ai mang danh họ Phùng. Có thể hậu duệ của Cụ đã phát tán đi nơi khác hoặc không còn ai. Thời gian đã dăm trăm năm nay, mọi biến đổi rất có thể xảy ra 10
- Khương Duy Anh - Khương Xuân Hồng hương cống khoa Canh Ngọ 1750 - Khương Trọng Tuân hương cống khoa Đinh Sửu 1757, thi hội đỗ tam trường - Nguyễn Huy Hoa hương cống năm Tân Tỵ 1821 - Nguyễn Kỳ Điển cử nhân khoa Qúy Mão 1843 - Khương Bá Khanh cử nhân khoa Đinh Mùi 1847. Và nhiều cụ đỗ sinh đồ, tú tài nho học. Nối dòng khoa bảng, ngày nay làng Yên cũng có không ít người cố gắng học hành, thành đạt, góp vào phong trào hiếu học chung của Thạch Xá. Đến nay làng đã có 5 tiến sĩ 1; và có vài trăm người có bằng thạc sĩ, cử nhân. Từ con đường dày công học hành phấn đấu, có người trở thành tướng lĩnh, đại tá quân đội công an 2 , là giảng viên, giáo viên, kỹ sư, bác sỹ, đang cống hiến trên nhiều lĩnh vực đời sống xã hội. 1Là Phạm Kim Thoa, Khương Xuân Minh, Khương Văn Thắng, Khương Thu Hương, Nguyễn Thị Hòa 2 Là thiếu tướng an ninh Đỗ Hữu Thành. Là các đại tá: Lê Văn Lan, Nguyễn Văn Thông, Nguyễn Văn Thịnh, Khương Xuân Quế, Khương Xuân Minh. 11
- Di sản văn hóa làng Yên Từ mảnh đất thiên nhiên không mấy ưu đãi, các thế hệ dân làng Triền trước đây và sau là làng Yên đã dày công khai phá ruộng đồng, khắc phục khó khăn khắc nghiệt của thiên nhiên, bảo vệ xóm làng, từng bước xây dựng đời sống có thuần phong mỹ tục, có đời sống văn hóa vật chất, tinh thần đa dạng và phong phú. Chiều sâu về truyền thống văn hóa đa dạng và phong phú là nền tảng và điểm tựa để dân làng Yên khai thác, phát huy, tạo ra sức bật mới, trong công cuộc xây dựng đời sống văn hóa mới, nông thôn mới, trên đường tiến tới xã hội văn minh hiện đại. 12
- Khương Duy Anh ĐÌNH YÊN THÔN ĐẶC TRƯNG TIÊU BIỂU KIẾN TRÚC ĐÌNH THỜI LÊ 1. Vài nét khái quát về đình Yên thôn1 Làng Yên có ngôi đình cổ, là một trong những ngôi đình cổ tiêu biểu ở huyện Thạch Thất được bảo tồn khá nguyên vẹn. Các nhà bảo tồn, bảo tàng văn hóa đã khảo sát nghiên cứu về đình Yên thôn, viết trong sách Di tích Hà Tây, do Sở VHTT Hà Tây xuất bản năm 1999 như sau: “Nhìn tổng thể, ngôi đình có ngôi đại bái, nhà hậu cung, nhà Tả vu, Hữu vu và cổng đình với tường xây bao quanh. Hiện diện kiến trúc cả hai 1 Theo GS Trần Ngọc Thêm trong Cơ sở văn hóa Việt Nam: Đình là tên gọi mới chỉ một khái niệm cũ, một kiến trúc truyền thống lâu đời mà cho đến nay vẫn còn tồn tại với tên gọi nhà rông. Nhà rông và đình làng chỉ là những tên gọi khác nhau của cùng một khái niệm, chúng có cùng chức năng và kiểu kiến trúc, là hậu thân của những ngôi nhà làng thời Hùng Vương với sàn cao và mái cong hình thuyền mà ta thấy khắc trên trống đồng. Có người cho rằng đình có nguồn gốc Trung Hoa? Thực ra, Trung Quốc không có đình làng. Đình trong tiếng Hán là từ chỉ những ngôi nhà nhỏ, đơn giản, dựng lên để che mưa nắng khi thưởng ngoạn như kiểu phụng nghi đình nơi Lã Bố hí Điêu Thuyền trong Tam quốc chí. 13
- Di sản văn hóa làng Yên thời Lê và Nguyễn được kế nhau kết hợp hài hòa thành tổng thể khu di tích. Thời Lê xây dựng ngôi nhà Đại bái và Hậu cung. Cấu trúc mặt bằng kiểu chữ đinh (J). Đây là hạng mục công trình được xây dựng sớm nhất vào thời Lê, đến thời Nguyễn làm thêm ngôi nhà Tả vu và Hữu vu, nằm song song nhau ở phía trước đầu hồi của ngôi Đại bái. Khu di tích nằm trên thửa đất ở giữa làng, phía trước là khoảng không gian thoáng đãng và đường trục chính. Xa xa là dãy núi Câu Lậu phủ kín màu xanh của cây rừng, có ngôi chùa Tây Phương cổ kính là danh lam đệ nhị trời Nam. Vào đình Yên Thôn là cổng đình, xây kiểu hệ thống tứ đại trụ. Bốn cột cao to đồ sộ, đắp hoa văn theo tích cổ. Hai cột trụ chính cao chừng 5 m, chia làm ba phần: đỉnh, thân, đế. Đỉnh đắp bốn chim phượng cách điệu hoa dành, tiếp là ô đèn lồng trang trí tứ linh (long, ly, quy, phượng) và tứ quý (thông, trúc, cúc, mai). Thân trụ hình hộp 50cm x 50cm trong lòng viết nhiều câu đối có ý nghĩa bằng chữ Hán . Qua cổng vào sân đình chiều dài 29m, chiều rộng 16cm, nền sân lát gạch vuông sạch sẽ. Giữa sân có hai ông voi chiến đứng chầu và một số cây hoa cảnh đẹp. Hai phía bên sân là ngôi nhà Tả vu, Hữu vu chiều dài 13.70 m, chiều rộng 5.25 m. Ngôi nhà 5 gian, hai mái chảy, lợp ngói ri, đầu hồi 14
- Khương Duy Anh xây bít đốc. Kiến trúc vì quá giang trụ trốn cột. Đây là công trình kiến trúc được làm vào thời Nguyễn muộn, chức năng của ngôi nhà này là nơi nghỉ ngơi, sắm lễ trước khi vào đình lễ Thánh. Ngôi Đại bái là hạng mục công trình kiến trúc thời Lê, nhà có chiều dài 19.7 m, chiều rộng 10.85 m được chia làm 3 gian 2 dĩ, bốn mái đao cong, lợp ngói ri cổ (kiểu mũi hài). Bờ nóc, bờ guột chữ đinh, cổ rỗng hoa chanh và những con giống bằng đất nung ở nhiệt độ cao sành sẫm nâu đen, nghệ thuật thời Lê. Trong ngôi nhà Đại bái là hệ thống khung nhà, vì, kèo, hệ thống cột cái và cột quân đều cao đồ sộ, cột cái cao 4.5m, chu vi 1.7m, đường kính 0.55m, cột quân cao 3.4m, chu vi 1.55m, đường kính 0.50m, cột hiên cao 2.8m, chu vi 1.20m, đường kính 0.4m. Hàng cột chính có đấu vuông thót đáy trên đỉnh để khớp câu đầu tạo nên kiến trúc vì của khung nhà, trên thân cột có lỗ đục để lắp giá đỡ sàn. Đó là những đặc trưng tiêu biểu của kiến trúc khung nhà Đại bái đình Yên Thôn được xây dựng thời Lê Trung Hưng. Kiến trúc của ngôi nhà Đại bái làm kiểu giá chiêng kẻ bẩy. Ở các khung rường cụt, đầu dư, thân kẻ, cột đội, kẻ góc, bẩy hiên đều chạm khắc mây rồng, lá lật rất tinh sảo. Mỗi bộ vì có 6 hàng chân cột, trong 4 bộ vì chính có 8 đầu dư được chạm kênh bong hình một con rồng (độc long) 15
- Di sản văn hóa làng Yên rất công phu. Mỗi con rồng mang dấu nét nghệ thuật của từng thời kỳ. Cổ xưa là con rồng trên đầu dư vì thứ tư, nét nghệ thuật gần phong độ thời Mạc được gặp rất ít nguyên bản như ở Đình Đồng Trúc (Thạch Thất), chùa Cả xã An Khánh (Hoài Đức). Còn phần lớn, rồng được chạm bong kênh mang phong cách nghệ thuật thế kỷ 18 – 19, có nhiều lớp trang trí là do những lần tu sửa. Hậu cung là công trình kiến trúc cổ kính cùng thời với ngôi Đại bái. Đặc biệt việc bài trí khám thờ trang nghiêm, bộ khám to đồ sộ nhiều lớp, nhiều tầng được trang trí hoa văn tứ linh bong kênh sơn son thếp vàng. Ba cỗ ngai thời Lê đặt trang trọng ở chính giữa. Đây là những cỗ ngai cổ ít thấy ở huyện Thạch Thất. Ngoài ra còn nhiều đồ thờ có niên đại sớm như: hạc, bình hương, chóe, kiệu bài trí khoa học tạo nên thế uy nghiêm. Đình Yên thôn thờ tam vị Thánh Tản là những người có công với nước, có nghĩa với dân là biểu tượng người anh hùng văn hóa, là công thần bậc nhất thời đại Hùng Vương Đình Yên Thôn là công trình văn hóa có đầy đủ những tính chất đích thực cả nội dung và hình thức. Nó là một bảo tàng kiến trúc cổ thu nhỏ mang tính chất nghiên cứu giáo dục cao có ý nghĩa du lịch văn hóa ” 16
- Khương Duy Anh 2. Về thời gian làm đình: Có một số tài liệu lưu hành ở địa phương nói rằng, đình Yên Thôn được làm từ thời Lý Thánh Tông (1052-1074). Vấn đề này cần được kiểm chứng, vì chưa thấy công trình nghiên cứu nào ở nước ta nói thời Lý có đình làng1. Sự hiện diện ngôi đình hiện nay, tuy chưa tìm được chứng tích cụ thể về niên đại làm đình, cũng như những lần sửa chữa, nhưng căn cứ vào đặc điểm kiến trúc điêu khắc của đình, giới bảo tồn bảo tàng nhận định rằng: Ngôi Đại bái, hậu cung và các di vật chính mang đặc trưng tiêu biểu của thời Lê Trung Hưng, hai nhà Tả vu, Hữu vu là hai công trình thời Nguyễn. Trong đó nhà tả mạc được làm năm Giáp tý thời Khải Định thứ 9 – 1924, năm đó làng bán 24 xuất quan viên, mỗi xuất 60 quan, vừa đủ làm 5 gian nhà tả mạc như ta thấy hiện nay. Công trình có những chi tiết kiến trúc, điêu khắc khác nhau ở tòa Đại đình, có 1 Giáo sư Hà Văn Tấn, Viện trưởng viện khảo cổ Việt nam, viết trong sách nghiên cứu về “ chùa Việt Nam” (Do viện KHXH xuất bản năm 1993): “Trước khi ngôi đình xuất hiện vào thời Lê thì ngôi chùa làng còn làm cả chức năng của ngôi đình ”. Nghiên cứu của giới khảo cổ cho biết: đình làng ở thế kỷ 16 trở về trước có hình chữ nhất (-), có 4 hàng cột, chỉ có bẩy, không có kẻ. Từ thế kỷ XVII trở đi, đình mới làm 6 hàng chân, từ cột quân trở ra liên kết theo kiểu kẻ - bẩy, đình có thêm chuôi vồ thành hình chữ đinh (J). Ở nước ta, hiện nay đình cổ nhất được biết đến là: Đình Lỗ Hạnh, ở Bắc Giang, còn chữ ghi lại là ngày 7 – 6 – 1576 thời Sùng Khang. Đình Tây Đằng ở Ba Vì làm năm Qúi mùi – 1583 17
- Di sản văn hóa làng Yên thể là do những lần sửa chữa về sau. Nhận định như trên là phù hợp với nghiên cứu của giới khảo cổ. 3. Về di vật, đình Yên Thôn còn lưu giữ được nhiều di vật cổ rất có giá trị. Về di vật đồ gỗ còn lưu giữ được: + 1 Khám thờ đồ sộ như kiểu 1 hậu cung kép + 3 cỗ ngai đặt trong khám, trên ngai có linh vị 3 vị Thánh + Một nhang án, trang trí nhiều tầng rất độc đáo + 4 cỗ kiệu bát cống, 1 long đình + 2 tượng tròn chim hạc cao đến 3.3m, 2 con ngựa gỗ cao 3m + Và nhiều đồ tế khí khác Tất cả đồ thờ trên, được đục trạm tinh xảo, sơn son thếp vàng, phần lớn được tạo tác từ thời Lê được bảo tồn khá nguyên vẹn. Về di vật đồ gốm sứ, đáng kể là: + 3 bát hương gốm Thổ hà thời Lê + Các con giống trên mái như: kìm, nghê, xối, đầu đao rồng bằng sành nung đen nghệ thuật thời Lê. 18
- Khương Duy Anh 4. Một số hoành phi câu đối ở đình Yên Thôn Đình Yên thôn có bốn bức hoành phi và mười đôi câu đối cổ. Trong đó, ba bức hoành và ba đôi câu đối cổ có từ xưa bị mất nay khôi phục lại. Nội dung hoành phi câu đối ở đình là những lời hay ý đẹp ca ngợi công lao to lớn với dân với nước của các vị Thần, Thánh thờ ở đình. 4.1.Câu đối ở mặt lòng hai trụ cổng: Tản Lĩnh phong vân y cựu hộ Câu Sơn hoa thảo đắc xuân tiên Dịch nghĩa: Gió mây vẫn như xưa, chở che ngọn núi Tản Hoa cỏ đón mùa xuân, trước tiên trên núi Câu 4.2. Câu đối ở mặt ngoài hai trụ cổng: Thần thư vân điểm tam phong tú Tiên trượng phong phiêu vạn cổ linh Dịch nghĩa: Các đám mây tô điểm, 3 ngọn núi thêm đẹp, nhắc chuyện xưa có người được tặng sách Thần Những ngọn gió linh muôn đời nhắc chuyện xưa có người được tặng gậy Thần 19
- Di sản văn hóa làng Yên 4.3. Câu đối ở mặt trong hai trụ cổng: Hộ quốc anh tài chiêm bái vọng Linh thần thắng cảnh ngưỡng di cao Dịch nghĩa: Người anh tài có công giúp nước phải được bái vọng Nơi thắng cảnh thờ thần thiêng, nhìn lên càng thấy cao 4.4. Hoành phi, câu đối cổ trong Đại bái. 4.4.1. Hoành phi: Hoành phi trước ban thờ chính điện: Thượng đẳng tối linh Dịch nghĩa: Vị thần cao nhất rất linh thiêng Hoành phi trước hậu cung: Thánh cung vạn tuế Dịch nghĩa: (Lời chúc) Thánh còn mãi đến vạn năm Hoành phi trước ban thờ bên trái: Trạc trạc quyết linh Dịch nghĩa: Sự linh thiêng của Thánh vời vợi còn mãi về sau. 20
- Khương Duy Anh Hoành phi trước ban thờ bên phải: Dương dương tại thượng Dịch nghĩa: Thánh vời vợi trên cao 4.4.2. Câu đối trong đại bái: Câu đối ở cột cái gian giữa, sườn lòng giếng: Lâm chiếu bản vô tư, nhất thốc lâu đài tiên đắc nguyệt Thái hòa giai khả lạc, tư thời ca quản tối nghi thu Dịch nghĩa: Ánh sáng chiếu khắp nơi, nhưng lâu đài nơi đây được đón ánh trăng trước tiên Cảnh thái bình lúc nào cũng mừng vui, bốn mùa ca hát, nhưng vào mùa thu thì rộn ràng nhất Câu đối ở hai cột cái gian giữa trước chính điện: Thịnh đức nguy nguy tiêu tứ vọng Linh phong viễn viễn tiếp tam thần Dịch nghĩa: Đức lớn vời vợi nêu lên cho mọi nơi ngưỡng vọng 21
- Di sản văn hóa làng Yên Gió thiêng mênh mang thổi không ngừng tới chốn thâm cung* [(*): Chữ tam đối với chữ tứ, chữ tam chỉ là con số tượng trưng chỉ chốn thâm cung, thăm thẳm phía trong] Câu đối ở cửa hậu cung: Linh tích ức niên lưu vũ trụ Sùng từ vạn cổ trấn giang sơn Dịch nghĩa: Dấu tích thiêng vạn năm còn lưu trong vũ trụ Đền miếu ngàn đời còn giúp giữ gìn đất nước Câu đối ở cột cái gian biên bên trái: Chiêu kính thời hâm kim cổ tự Hãn tai mặc trợ nhạo xuyên linh Dịch nghĩa: Thờ Thánh xưa nay, giây phút thiêng liêng hưởng phúc Vui thú với non thiêng (Thánh) trừ họa cho dân Câu đối trước ban thờ bên trái: Thánh đức anh minh phù quốc thịnh Thần công hách trạc trợ dân an Dịch nghĩa: 22
- Khương Duy Anh Đức Thánh sáng suốt phù trợ cho đất nước mạnh giàu Công lao rực rỡ của Thần giúp cho dân yên lành Câu đối ở cột cái gian biên bên phải: Vân thủy nhất hồ phân chủ quản Đỗng Sơn thiên lý hiển vương thần Dịch nghĩa: Làm chủ một vùng mây nước được trời đất chia cho Thần đã hiển linh ở Đỗng Sơn ngàn dặm Câu đối trước ban thờ bên phải: Sinh phong lương tướng thần trung liệt Hóa tặng tôn thần thánh đại vương Dịch nghĩa : Lúc sống được phong lương tướng là bầy tôi trung liệt Lúc hóa được tôn là thần, thánh, đại vương Phiên âm và dịch nghĩa: Nguyễn Kiến, Nguyễn Văn Thế Nguyễn Huy Lung. 23
- Di sản văn hóa làng Yên 5. Các công trình gắn với đình a. Nhà mổ trâu Nhà mổ trâu ở phía trái khu đình. Đó là một nhà ba gian lợp ngói, kết cấu kiểu quá giang ghếch trụ, hai đầu hồi bít đốc, xây tường đá ong kín 3 bề. Khi tiệc đình, đây là nơi mổ trâu, làm cỗ tế Thánh và chia phần cho dân. Ngày nay nhà này không còn, khu đất đã thành nhà ở của dân. b. Miếu thổ thần Miếu thổ thần ở bên phải đình, cạnh đường đi vào Ngõ Hạ. Miếu là ngôi nhà nhỏ xây kín ba bề, Mái cuốn vòm, cửa chỉ treo bức mành. Cạnh miếu là ban thờ Thạch Cẩu, có tượng chó ngồi bằng đá xanh đặt trên bệ, như tướng trấn giữ phương bắc canh giữ cuộc sống yên lành cho làng. Khu vực miếu xưa nay đã thành khu dân cư, chỉ còn Thạch Cẩu vẫn ở vị trí cũ ven đường. c. Giếng đình Từ giữa cửa đình chiếu thẳng ra, qua sân ngoài là giếng đình. Cùng với hệ thống ao ngòi, đầm phía ngoài, giếng đình tạo thêm thế tụ thủy phía trước – nơi tích tụ những điều tốt lành cho làng. Giếng đình không biết làng làm từ bao giờ, có thể từ khi có đình hoặc trước nữa. Đây là một cái 24
- Khương Duy Anh giếng rất lớn, đường kính đến 5m, sâu đến 15m, xây bằng những phiến đá ong lớn từ đáy trở lên. Giếng đình rất tốt nước, có mạch lớn, nước không lúc nào cạn, cung cấp nước sinh hoạt cho 4 xóm - nửa làng Yên: Xóm Đình, xóm Chằm, xóm Mè, xóm ngõ Hạ. Khi đại hạn thì bà con xóm Quán, Chàng Sơn cũng xuống gánh nước dùng chung. Khi đình có đám thì hai trai điện ra múc nước giếng đình mang về tế Thánh. Hàng năm tát giếng vào ngày 12 tháng 7, để giếng có nước mới trong sạch dùng cho việc tế. Mỗi xóm chịu trách nhiệm tát giếng một năm. Khi tát cạn, xóm chọn cử một trai đinh, khỏe mạnh còn thanh tân, xuống thau rửa sạch sẽ. Sau đó, dùng vôi, mật, muối đổ xuống để tôi giếng. Cùng với các bến nước, ao làng, giếng đình tạo thêm cho cảnh quan khu đình thêm ngoạn mục. d. Đền rước hát Đền rước hát được xây dựng ở đồng Bịa, chỗ trạm y tế ngày nay. Đây là ngôi đền lộ thiên. Mặt trông về núi Câu Lậu theo hướng đình. Phần chính của đền rộng khoảng 200m 2, tường xây 3 bề bằng đá ong, đẽo nhẵn, mạch ghép kẻ chỉ, đắp chiện rỗng chạy phía trên đỉnh tường. Phía ngoài có 2 cột trụ giành, và 2 cột trụ lồng đèn ở hai bên. Phía 25
- Di sản văn hóa làng Yên tường hậu đắp nổi rồng chầu mặt nguyệt và bệ thờ. Ở giữa đền là 3 bệ lớn. Sân đền là bãi cỏ rộng. Tối vào đám tháng Bảy, dân làng rước Thánh từ đình ra đền đặt 3 cỗ kiệu trên bệ để Thánh cùng dân làng xem hát. Các trò diễn xướng tổ chức ở giữa sân cỏ thường là hát ca trù hoặc hát chèo. Năm 1971 khu đền bị tháo dỡ, dành chỗ cho xây dựng đường trục Tây Phương – Yên thôn. 6. Ruộng đất của đình Yên Thôn xưa Ngày xưa, đình Yên Thôn có nhiều ruộng đất. Hương ước làng Yên Thôn thời Nguyễn ở Điều 89 ghi như sau: “Làng có 2 cái đình và 3 cái chùa1. 1. Đình Cả có 1 mẫu 8 thước ruộng, 3 sào 12 thước đất và 5 sào ruộng ngoại canh xã Bình Xá. 2. Đình Bé có 11 thước đất, giao thủ từ cấy để đèn hương, sóc vọng, 2 đình quanh năm và phải sửa một tiệc, 3 ngày Tết Nguyên Đán, một tiệc thường tân. Còn 4 mẫu 5 sào 8 thước ruộng, 2 sào 8 thước ao giao 12 giáp, giáp nào đến câu đương phải sửa 1 năm 9 tiệc ở 2 đình, 4 tiệc kì hậu ở chùa thì giáp ấy cấy”. 1 Làng Yên có 4 chùa. Trong hương ước chỉ ghi có 3 vì chùa Quan Âm là chùa tư (Xem bài viết về chùa Quan Âm). 26
- Khương Duy Anh Như vậy, cả hai đình có tới 6 mẫu 1 sào 1 thước ruộng, 4 sào 8 thước đất và 2 sào 8 thước ao. Số ruộng đất ao của đình được giao cho ông từ, giáp đăng cai canh tác. Hoa lợi thu được dùng đèn nhang quanh năm và vật phẩm cho những ngày tiệc ngày đám của đình. Phần lớn số ruộng đất của Đình có được do sự cung tiến của những người có hảo tâm trong làng. Trong đó, bia hậu dựng ở chùa Bảo Quang năm Mậu Ngọ thời Lê Trịnh ghi rõ sự cung tiến của gia đình cụ Nguyễn Thế Thịnh, lúc đó làm từ đình đã cung tiến: “ruộng trên dưới xấu tốt 4 thửa và một số tiền tu sửa đình, để dùng trong tiệc thường tân (xôi mới) 12 đấu, nhang hoa, tiền một quan. Các tiệc dân, gia đình được biếu một cỗ. - 1 thửa Đồng Chảy 1 sào - 2 thửa Cửa Núi 4 sào 12 thước. - 1 thửa Mạ Giang 3 sào” Ngày xưa nhờ số ruộng này mà dân làng có điều kiện về kinh phí để duy trì việc hương khói trong các ngày sóc vọng, các lễ tiết và đình đám hàng năm, và cũng giúp cho việc bảo vệ trông nom tu bổ thường xuyên. Ngày nay, ruộng đình không còn, kinh phí phục vụ cho việc duy trì hương khói, và 27
- Di sản văn hóa làng Yên các hoạt động ở đình trông vào tiền công đức đóng góp của dân làng. 7. Sự tích các vị Thần thờ ở đình Yên Thôn a. Tam vị Thánh Tản, thờ ở chính điện Hiện nay, đình Yên Thôn có bản thần phả chữ Hán và bản dịch cuốn Ngọc phả Tản Viên Sơn Thánh do Hàn lâm viện Đông Các Đại Học Sĩ tiến sĩ Nguyễn Bính soạn năm Hồng Phúc nguyên niên (1572), Quản giám bách thần tri điện hùng lĩnh thiếu khanh Nguyễn Hiền phụng sao năm Vĩnh Hựu lục niên (1740) và bản sao của bộ lễ thời Tự Đức năm thứ 24 (1871). Bản ngọc phả tam vị Thánh Tản viết khá dài, xin được tóm lược như sau: Thời Hùng Vương thứ 18 – Hùng Duệ Vương ở động Lăng Xương, huyện Thanh Xuyên nay là Thanh Thủy, Phú Thọ có 2 ông bà Nguyễn Cao Hạnh và Đinh Thị Điên và 2 ông bà người em là Nguyễn Ban và Tạ Thị Hoan. Cả 2 nhà đã luống tuổi mà chưa có con. Hai anh em lấy làm phiền muộn, liền bán hết gia sản ra sức làm việc thiện. Sau đó ông bà Nguyễn Cao Hạnh và Đinh Thị Điên sinh được một con trai khôi ngô tuấn tú đặt tên là Tuấn Công, ông Nguyễn Ban và bà Tạ Thị Hoan sinh được hai người con trai cũng khôi ngô tuấn tú đặt tên là: Sùng Công và Hiển Công. Năm 17 tuổi, 28
- Khương Duy Anh cha mẹ hai nhà đều mất cả. Nguyễn Tuấn rời Lăng Xương sang núi Tản làm con nuôi bà Ma Thị Cao Sơn, hai mẹ con làm nghề đốn củi nuôi nhau. Một hôm Tuấn Công lên rừng đốn củi gặp được Tiên ông cho gậy thần, dạy cho lời chú, cải tử hoàn sinh. Tuấn Công dùng gậy thần và lời chú cứu được rắn thần – con vua Thủy Tề, hồi sinh, Ngài được Long Vương ban cho sách ước. Có gậy thần, sách ước Ngài đã giúp dân trong vùng làm ăn, gây dựng làng xóm yên vui. Vua Hùng Duệ Vương có 2 người con gái nết na, Tiên Dung đã kết duyên cùng Chử Đồng Tử, còn Ngọc Hoa chưa kết duyên cùng ai. Vua mở cuộc thi tài kén rể. Tuấn Công còn gọi là Sơn Tinh, Hoàng tử con vua Thủy Tề còn gọi là Thủy Tinh cùng trổ tài, thi sức. Sơn Tinh nhờ có gậy thần, sách ước giúp sức đã trở thành con rể vua Hùng, Thủy Tinh không lấy được Ngọc Hoa đem lòng thù hận, dâng nước, cùng loài thủy tộc đánh phá lên núi Tản. Sơn Tinh đã cùng nhân dân phòng chống thiên tai lũ lụt, đánh bại Thủy Tinh. Ngài chính là người anh hùng trong cuộc chiến chống thủy tai trong chuyện Sơn Tinh Thủy Tinh lưu truyền trong dân gian. Khi nước Văn Lang bị Thục Phán - thủ lĩnh bộ tộc Âu Việt đem quân sang xâm lấn, Ngài đã cùng 2 người em là Sùng Công và Hiển Công sang giúp vua Hùng giữ yên bờ cõi. Khi thấy mình tuổi 29
- Di sản văn hóa làng Yên cao, sức yếu vua Hùng mấy lần truyền ngôi cho nhưng Ngài đều từ chối. Cuối cùng phải nhận làm vua, nhưng chỉ được 3 năm thì Ngài cùng vua Hùng giao lại giang sơn cho Thục Phán. Ba Ngài cùng vua Hùng và Ngọc Hoa trở về núi Tản, đi chu du khắp nơi, tiếp tục dạy dân làm ruộng, trồng dâu nuôi tằm, làm nhà dựng cửa xây dựng cuộc sống yên lành cùng đắm mình trong phong cảnh đất trời, sông núi. Thánh Tản trở thành 1 trong tứ bất tử trong huyền thoại dân gian người Việt cổ. Ba anh em nhà Thánh Tản sau khi hóa cùng được tôn thờ : - Tuấn Công được tôn thờ là Tản Viên Sơn Quốc Chúa Thượng Đẳng Thần - Sùng Công được tôn thờ là Cao Sơn Đại Vương Thượng Đẳng Thần - Hiển Công được tôn thờ là Quý Minh Đại Vương Thượng Đẳng Thần Thánh Tản là biểu tượng người anh hùng văn hóa trong tâm thức người dân Việt. Theo Đại Nam nhất thống chí, ở vùng xứ Đoài có 72 nơi thờ Ngài. b. Ngài Tiếu Thiện Đại Vương, thờ ở ban thờ bên trái tòa đại bái: Theo bản dịch thần phả in trong sách về các tướng lĩnh Hai Bà Trưng do sở VHTT Hà Sơn Bình xuất bản năm 1979, Ngài có tên thật là Đào Khang 30
- Khương Duy Anh quê ở trang Đặc Kiệt, huyện Thanh Lâm, Phủ Nam Sách, đạo Hồng Châu, nay là huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Ông bà thân sinh là Đào Thịnh và Nguyễn Thị Phương, vốn nhà nghèo nhưng giàu lòng nhân ái, luôn tu nhân tích đức, luống tuổi mới sinh ra Ngài – một trang khôi ngô tuấn tú. Lớn lên Ngài chăm chỉ học hành, tài kiêm văn võ. Ngài có chí muốn đánh đuổi giặc Hán, lúc đó đang đô hộ nước ta để cứu dân cứu nước. Rời quê hương, Ngài đi chu du khắp nơi, tìm người cùng chí hướng để kết thân, mưu việc lớn. Ngài đã đến làng Gia ở ít lâu, chiêu tập những người trẻ tuổi để luyện tập võ nghệ giữ làng. Sau đó Ngài lên vùng núi Vân Mộng Ba Vì thấy nơi đây phong cảnh núi sông hùng vĩ liền ở lại để chiêu binh, mãi mã xây dựng căn cứ chờ thời. Khi nghe tin Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa, Ngài liền trở lại, chiêu mộ thêm quân ở khu vực làng Gia, làng Yên, làng Chàng, Sau đó, Ngài đem toàn bộ lực lượng về giúp Hai Bà, Hai Bà phong cho Ngài làm Tiền Đạo Tướng Quân, đem quân tiến đánh giặc Hán. Giặc thua chạy, Hai Bà xưng vương, đóng đô ở Mê Linh, Ngài đưa quân về quê ta luyện quân củng cố lực lượng. 31
- Di sản văn hóa làng Yên Đất nước thanh bình chỉ được 3 năm ngắn ngủi, vào năm 43 sau công nguyên, Mã Viện đem quân sang đánh, Hai Bà triệu Ngài về hội quân chống giặc. Trong một trận đánh nhau với quân Hán, Ngài đã anh dũng hy sinh. Hôm đó là ngày mùng ba tháng tư năm Qúi Mão (43). Ngài được nhân dân làng Gia, làng Chàng, làng Yên ta thành kính tôn thờ làm Thành hoàng. Các triều đại phong kiến phong Ngài là Tiếu Thiện Đại Vương Trung Đẳng Thần. c. Ngài Trầm Đỗng Đại Vương, thờ ở ban thờ bên phải tòa Đại bái: Trầm Đỗng Đại Vương tên thật là Trương Chủng. Ngài là hậu duệ đời thứ sáu của một người Tàu, ở Lũng Tây lánh nạn sang làm thầy dạy học và cư trú ở lại, đời nối đời thành người quê ta. Trương Chủng là người thông minh thao lược, sức mạnh hơn người. Thời bấy giờ nước ta dưới ách đô hộ của nhà Lương, do tên thái thú Tiêu Tư bạo tàn cai trị. Ông Lý Bôn là người Thái Bình đã đứng lên phất cờ khởi nghĩa1. Ngài Trương 1 Sách Việt Nam sử lược viết: “Thái Bình thuộc về huyện Phong châu ngày trước, nay ở vào địa hạt tỉnh Sơn Tây, nhưng mà không rõ là chỗ nào, chứ không phải là phủ Thái Bình ở Sơn Nam mà bây giờ là tỉnh Thái Bình”. Cũng có ý kiến cho rằng, Thạch Thất cũng có thôn Thái Bình thuộc xã Bình Yên, có thể “Thái Bình” là chỗ này chăng? 32
- Khương Duy Anh Chủng đã theo giúp Lý Bôn đánh đuổi Tiêu Tư về nước, lập nên nhà nước Vạn Xuân năm 544. Ngài xin cho quê ta được miễn thuế khóa và còn được cấp cho 600 quan tiền để tạu ruộng làm nhà cho dân nghèo. Năm 545, nhà Lương cử Trần Bá Tiên và Dương Sàn đem 30 vạn quân sang xâm chiếm nước ta. Thế giặc mạnh, vua Lý thua trận, lui quân về Khuất Lão, bị ốm nặng, trước khi mất, đã giao binh quyền cho Triệu Quang Phục tiếp tục cuộc kháng chiến chống quân Lương. Năm 548 Triệu Quang Phục lên ngôi vua xưng là Triệu Việt Vương. Năm 550, quân Lương bị đánh bại rút chạy về nước. Thấy Triệu Quang Phục lên ngôi vùa Ngài Trương Chủng cho Triệu Vương là làm phản nhà Lý, Ngài đã đem quân lui về quê ta, chống lại Triệu Vương. Trong một trận chiến ác liệt với quân Triệu, Ngài đã tuẫn tiết hy sinh tại núi Trầm. Hôm đó là ngày mùng 4 tháng 4. Khi nhà hậu Lý lên nắm quyền đã phong Ngài Trương Chủng là Trẫm Đỗng Đại Vương. Ngài được phối thờ ở đình Yên thôn, đình Chàng thôn và là Thành hoàng thờ ở đình Thạch Thôn. Các triều đại phong kiến phong Ngài là Trung Đẳng Thần. 33
- Di sản văn hóa làng Yên 8. Những tiệc chính ở đình Yên Thôn: Đình Yên Thôn có các tiệc chính sau đây: - Tiệc lão nuôi trai - 13 tháng 2: Ngày xưa, các trai đinh đại diện cho các giáp, mỗi giáp 4 người, tuổi từ 42 tới 46 ra đình bàn việc và nhận việc làng trong đó có việc “đăng cai”. Những trai đinh qua tuổi 46 lên lão 47 được thả cá ao làng phải sắm vật phẩm sửa lễ trong ngày tiệc này. - Tiệc giỗ Tiếu Thiện Đại Vương: mùng 3 tháng tư - Tiệc giỗ Trầm Đỗng Đại vương: Mồng 4 tháng tư - Tiệc hạ điền: mùng 1 tháng sáu. Làm lễ Thần Nông ở sân đình, cầu cho mưa thuận gió hòa, lúa tốt, mùa màng bội thu. Sau lễ này làng mới được cấy mùa. Ngày nay, tiệc này được tổ chức vào ngày rằm tháng năm1. - Tiệc ngày sinh Trầm Đỗng Đại Vương:12 tháng bảy - Đám tháng Bảy: 3 ngày, 16, 17, 18, là tiệc quan trọng nhất ở đình Yên Thôn. (Nói rõ ở phần sau) 1 Ngày “xuống đồng”, ngày xưa làng chọn một lão nông khỏe mạnh gia cảnh đề huề, quang quẻ có kinh nghiệm làm nông, thay mặt dân làng mở đầu việc cấy. Một thửa ruộng cày bừa sẵn, cắm cây nêu cao (thường là ruộng của làng). Sau khi làm lễ thần nông ở sân đình, lão nông đội nón lá, mặc áo tơi, sách 3 cái mạ ra ruộng cấy. Các vị chức sắc và bà con dân làng đứng ở bờ cổ vũ để cấy cho nhanh, cho đẹp, cho mùa màng sau này được tốt tươi. 34
- Khương Duy Anh - Tiệc xôi mới: mùng 1 tháng mười. Lễ tạ ơn các vị Thần, đã độ trì cho mùa màng lúa tốt bội thu. Tiệc này làm lễ ở sân đình. Sau lễ này dân làng mới được ăn cơm mới. Ngày xưa trong các tiệc đình (không kể đám tháng bảy, nói rõ ở phần sau), chủ lễ thường là ông tiên chỉ thay mặt cho dân làng làm lễ thánh. Những người cấy ruộng đình phải sắm lễ vật phục vụ các ngày tiệc theo lệ làng. Ngày nay, các ngày tiệc do ban khánh tiết, phối hợp cùng ông từ đình tổ chức nhang đăng lễ bái. 9. Đám tháng bảy1 9.1Vài nét về Đám tháng Bảy Tiệc chính của đình Yên Thôn là Đám Tháng Bảy. Đám Tháng Bảy là sự kiện quan trọng của việc làng hàng năm. Ngày xưa, Đám Tháng Bảy được quyết định tại cuộc họp đầu xuân giữa tiên thứ chỉ, chức dịch, trùm quan viên và đại diện các 1 Về ngày đám tháng Bảy, được tổ chức rất trọng thể từ xưa ở đình làng Yên cũng như đình làng Chàng. Đến nay chưa tìm hiểu rõ được ngày 18 tháng bảy là kỷ niệm ngày gì liên quan đến Thánh Tản. Vì các ngày kỉ niệm quan trọng nhất với Ngài là: ngày sinh 6 tháng giêng, ngày hóa 6 tháng 11, ngày được tôn Thánh đầu tiên 12 tháng tám. Những ngày tiệc chính của các đền thờ Thánh Tản đều tổ chức vào các ngày sinh, ngày hóa kể trên. Còn ngày 18 tháng 7, ở làng ta là ngày kỉ niệm gì? Có lẽ đám tháng bảy là tiệc Kì Yên của đình làng ta chăng? Cũng có thể được tổ chức theo thời gian nông nhàn “Xuân thu nhị kì” giống như các làng xã ở đồng bằng Bắc bộ. Nếu tìm được tư liệu làm rõ, cũng là 1 điều có ý nghĩa. 35
- Di sản văn hóa làng Yên giáp. Tại cuộc họp bàn định việc tổ chức đám, phân công giáp đăng cai, cử người tham gia vào các công việc chính. Từ ngày đổi mới, đám tháng Bảy do ban khánh tiết, cùng hội người cao tuổi chủ trì, xin phép chính quyền cho làng vào đám. Làng có mười hai giáp, mỗi giáp đăng cai việc làng một năm. Giáp đăng cai có trách nhiệm chăm lo các công việc phục vụ đình đám cho dân. Thời gian nhiệm vụ là từ sau đám tháng Bảy năm nay đến đám tháng Bảy sang năm. Ngày nay, không có giáp, việc đăng cai do hội đồng tuế tuổi sáu mươi luân phiên phục vụ việc tổ chức đám cho làng. Ngày xưa, những người có chân trong hội Tư văn mới được vào hội quan viên. Là quan viên mới được tham gia tế. Chủ tế và ban tế do trùm quan viên tiến cử để làng quyết định. Chủ tế - người thay mặt dân làng dâng lễ và bày tỏ tâm nguyện của dân với Thần Thánh nên được lựa chọn rất kỹ. Phải là người toàn vẹn về mọi mặt, vợ chồng con cái đầy đủ, toàn vẹn, có đức độ, có tín nhiệm với dân làng, có sức khỏe và phải không có “bụi”. Ngày xưa, người được bầu làm chủ tế phải có lễ trình Thánh và làm cỗ khao quan viên. Những người tham gia tế phải tự may lấy quần áo, mũ, hia. Chủ tế mặc áo, mũ, hia màu đỏ còn các vị khác mặc áo, mũ, hia 36
- Khương Duy Anh màu xanh. Làng chỉ sắm giáp trụ, quần áo cho hàng đô. Quần áo hàng đô giống như y phục binh lính thời phong kiến. Hàng đô do các giáp chọn cử, báo cho chức dịch, chức dịch lập danh sách thông báo công khai dán ở đình trước một tháng. Ngày nay, việc cử hàng đô giao về cho các xóm, cụm dân cư lựa chọn. Những người được tham gia tế và hàng đô, phải kiêng khem, chay tịnh, tránh tiếp xúc với việc ô uế. Ai không thực hiện được bị Thánh “quở” phải chịu phạt: lễ tạ Thánh và có lời xin lỗi với làng. - Việc viết văn tế được giao cho người có phẩm hàm học vị cao nhất của làng. Những năm trước Cách mạng Tháng tám được giao cho cụ Khương Đình Hào (thường gọi là cụ Đồ Hai) và tiếp theo là cụ Tú Khương Xuân Hòe viết văn tế. Khi viết văn tế, các cụ cũng phải một tuần kiêng cữ, ngày viết văn phải tắm gội sạch sẽ, ngồi nâng bút trước hương trầm thơm ngào ngạt. Từ ngày khôi phục lại việc tế lễ, cụ Nguyễn Văn Khôi (thường gọi là cụ Khôi Tùng), và sau là cụ Nguyễn Văn Thế viết văn và đọc văn tế Thánh cho làng. - Lễ vật chính dâng lên tế Thần Thánh, ngày xưa là thịt trâu. Trâu, sau khi thui chín, làm sạch, cắt lấy 5 miếng thịt phay: 3 phay dâng lên chính cung, 2 phay dâng lên hai ban tả hữu, còn thủ trâu để vào 37
- Di sản văn hóa làng Yên mâm ván cúng bộ hạ. Ngày nay, lễ vật tế đơn giản hơn chỉ là lễ chay, mâm ngũ quả, tượng trưng cho ngũ hành, tạo nên trời đất vũ trụ cùng với trầu cau trà tửu. Việc mổ trâu, ngày xưa giáp đăng cai phải cử người đi tìm mua trâu cho làng, phải là trâu đực tơ màu đen có hình dạng đẹp, béo tốt. Giáp đăng cai phải đem trâu về trình làng trước một tháng để làng quyết định, sau đó vỗ béo bằng rơm cỏ sạch, tắm rửa cho trâu sạch sẽ. Sáng ngày mười tám tháng bảy trâu được làm thịt tại điếm cạnh đình, thui chín bằng rơm, guột sạch. Sau khi cắt thủ, phần thịt làm lễ tế thần, thịt trâu được cắt biếu quan viên một sa mắc(dụng cụ dùng để xúc tôm tép), biếu người có học vị cao nhất làng, biếu người viết văn tế, biếu tiên chỉ, chức dịch còn lại chia đều cho mười hai giáp. Riêng giáp đăng cai được chia thêm bốn cẳng trâu. Đám tháng Bảy được tiến hành trong ba ngày16, 17 và 18: - Ngày 16, lễ mở cửa đình. Sau khi ông từ thắp hương xin phép mở cửa đình, chuẩn bị vào đám, giáp đăng cai tiến hành quét dọn, kéo cờ đám, lau chùi đồ thờ, lắp ráp tàn quạt, bày biện cho cuộc tế. - Ngày 17, lễ sái tảo (giống như lễ mộc dục ở các di tích khác). Sau khi thắp hương làm lễ, cụ từ mở khám thờ. Tiếp theo, cụ Từ và một số người được 38
- Khương Duy Anh cắt cử dùng nước trà thơm lau long ngai Tam vị và các đồ thờ trên hậu cung và hai ban thờ tả hữu. Buổi chiều tổ chức tế yết. Tế yết cũng giống như tế chính nhưng đơn giản và ngắn thời gian hơn. Buổi tối, những năm gần đây, các bà, các chị trong đội dâng hương tổ chức lễ dâng hương tế thần. - Ngày 18 – ngày chính tiệc. Sau khi rước bài văn tế do một vị có học vị phẩm hàm cao nhất làng viết về đình, cuộc tế bắt đầu. Cuộc tế tổ chức giống như tế đàn Nam Giao của triều đình. Hàng đô, chấp kích đứng oai nghiêm hai bên, các quan viên thực hiện lễ thức tế, theo sự dẫn dắt của hai ông đông xướng, tây xướng, theo tiếng chiêng, tiếng trống tưng bừng và dàn nhạc bát âm, làn điệu lưu thủy hành vân réo rắt. Trong khi tế, các cụ cùng các vị chức sắc của làng ngồi trên sạp đình, còn bà con dân làng đứng chiêm ngưỡng, thành kính ở hai bên tả vu hữu vu. Năm nào làng mở hội thì tối 17 có rước kiệu, rước Thánh từ đình ra Đền Rước Hát ngoài Đồng Bịa (chỗ Trạm xá ngày nay) để Thánh và dân làng xem hát. Thường là hát ca trù với đèn đuốc sáng trưng. Kết thúc cuộc hát, lại rước Thánh hồi cung về đình. Trong hai ngày hội có các trò chơi như đánh gậy, vật, múa rối ở ao đình và các trò chơi khác. 39
- Di sản văn hóa làng Yên 9.2Việc tế thần ở đình Yên thôn Trước đây hàng năm, đám tháng Bẩy năm nào cũng tổ chức tế thần. Việc tế bị gián đoạn từ năm Giáp thân 1944, do nạn đói, ngập lụt, chiến tranh thế giới lần thứ hai và sau đó là kháng chiến chống Pháp và Mỹ kéo dài. Đến năm 1993, việc tế Thần ở đình mới được khôi phục lại sau nửa thế kỷ bị gián đoạn. (Trong nửa thế kỷ, có tổ chức tế một lần vào năm 1952). Vì lâu ngày không tế, nay khôi phục lại, như một việc làm mới mẻ, còn ít người biết. Những người tham gia, phải tập tế dòng dã 3 tuần lễ, ở đền Đỗng Hoa, do cụ Đỗ Văn Cận – người biết nhiều chữ Hán, thông thuộc việc tế lễ hướng dẫn. Đám tháng Bảy năm 1993 việc tế Thánh chính thức được khôi phục lại. Đại thể việc tế Thần ở đình Yên Thôn, có thể tóm lược như sau: Ban tế gồm có: 1/ Chủ tế: Do dân bàu, chọn người từ 50 tuổi trở lên (trước đây là 48 tuổi), có gia cảnh vẹn toàn, quang quẻ. 2/ Trợ tế: 2 vị, được coi như trợ lý của Chủ tế. Chủ tế và 2 ông trợ tế, còn gọi là 3 ông cai tế: Cai 1, cai 2 và cai 3. 40
- Khương Duy Anh 3/ Bồi tế: 3 vị. Đứng ở chiếu dưới cùng – chiếu thứ 3, lễ (hưng bái) cùng với Chủ tế. 4/ Chấp sự: 9 vị, đứng ở cạnh hương án, bày hiện vật cho việc tế, bên trái 5 vị, bên phải 4 vị. Chấp sự phục vụ việc tế. 5/ Điển xướng: 2 vị. Gọi là ông Đông xướng, Tây xướng, điều khiển việc tế. Hai vị đứng trên hè, trước cửa đình. 6/ Đại lược hoặc Đồng văn: 2 vị, 1 vị đánh trống, ở bên trái và 1 vị đánh chiêng ở bên phải. 7/ Độc văn: 1 vị đọc văn tế. 8/ Kì chỉ: 2 vị, đi đầu dẫn hàng đô từ trong đình đi ra vị trí chuẩn bị tế và điều khiển hàng đô đứng 2 bên suốt buổi tế. 9/ Hàng đô: 12 người trai trẻ, mặc áo mũ giáp trụ, cầm vũ khí đứng dàn 2 bên sân tế. 10/ Trai điện: 2 người, đón lễ lên ban thờ chính cung và ban thờ hai bên tả hữu. 11/ Ban nhạc: Ít nhất 3 người: sáo, nhị và trống (nếu đủ bát âm là 8 người). Tham gia tế có khoảng 40 người. Cuộc tế diễn ra theo sự điều khiển của 2 ông Điển xướng (Đông xướng, Tây xướng). 41
- Di sản văn hóa làng Yên Việc xướng tế đại thể như sau: - Khởi sơ nghiêm, khởi tái nghiêm, khởi tam nghiêm, khởi chinh cổ: Nổi trống chiêng, 3 hồi. - Nhạc sinh tựu vị, cử nhạc: Đội nhạc vào vị trí, cử nhạc. - Bài ban tựu vị: Chủ tế, trợ tế, bồi tế, kì chỉ, hàng đô chấp sự từ trong đình đi ra các vị trí. - Củ soát lễ vật: Chấp sự 2 bên cầm nến, dẫn chủ tế vào nội điện kiểm soát lễ vật. - Chấp sự giả, các tư kì sự: Chấp sự sẵn sàng vào buổi tế. - Chủ tế, trợ tế, bồi tế nghệ quán tẩy sở: Chủ tế, trợ tế, bồi tế, đến chỗ rửa tay mặt tẩy uế. - Thuế cân: Lau khô và chỉnh đốn trang phục - Bồi tế tựu vị: Bồi tế đứng vào chiếu dưới cùng. - Chủ tế, trợ tế tựu vị: Chủ tế đứng vào chiếu trên. - Thượng hương: 2 chấp sự bưng nến, 2 chấp sự bưng lư hương và hộp trầm tiến vào, quì xuống, chủ tế để gói trầm vào lư hương, Chủ tế vái, xong giao lại cho chấp sự, chấp sự tiến vào đưa lên bàn thờ. Xong, chấp sự quay về chỗ cũ (đi vào hướng đông, đi ra hướng tây) - Nghinh thần cúc cung bái: Chủ tế, trợ tế và bồi tế lễ 4 lạy theo nhịp xướng: Đông xướng bái, tây xướng hưng. 42
- Khương Duy Anh - Bình thân: Đứng nghiêm. - Hành sơ hiến lễ: Dâng rượu tuần đầu. - Hành sơ hiến lễ, nghệ tửu tôn sở: chủ tế và trợ tế đến bàn hương án. - Giả cử mịch: Chấp sự mở khăn và nắp đài rượu. - Chước tửu: Chủ tế rót rượu - Nghệ hương án tiền: Chủ tế lên chiếu 1 - Quị: Chủ tế, trợ tế quì. - Hiến tước: Chấp sự tiến vào, đưa đài rượu cho chủ tế vái, sau đó chủ tế đưa lại cho chấp sự. - Tiến tước: Chấp sự dâng đài rượu vào nội điện, sau đó trở về chỗ cũ. - Quân hiến: Chấp sự hai bên dẫn hai đài rượu vào nội điện dâng lên ban thờ hai bên tả hữu. - Phủ phục: Chủ tế, trợ tế, bồi tế: cúi lễ, hưng: đứng lên - Bình thân phục vị: Đứng lên đi xuống chiếu cũ, đứng nghiêm. - Độc chúc: - Nghệ độc chúc vị: Chủ tế lên chiếu 1. Chấp sự và người đọc chúc chuyển văn tế vào - Giai quì: Chủ tế, người đọc chúc và người chuyển văn, tất cả quì 43
- Di sản văn hóa làng Yên - Chuyển chúc: Người chuyển văn quì bên phải, đưa văn cho chủ tế vái 1 vái, chủ tế đưa cho người đọc văn quì bên trái chủ tế. - Đọc chúc: Người đọc văn đọc xong giao lại cho Chủ tế vái 1 vái, Chủ tế giao người chuyển văn, chuyển văn lên ban thờ. - Phủ phục: Lễ theo nhịp hưng bái 2 lần - Bình thân phục vị: Đứng lên và trở về chiếu cũ - Hành á hiến lễ, nghệ tửu tôn sở: Lễ hiến rượu lần 2 giống như lần 1. - Hành chung hiến lễ, nghệ tửu tôn sở: Như hiến rượu lần 1 và lần 2 - Ẩm phước nghệ, ẩm phước vị: Thánh ban lộc. Chủ tế lên chiếu 1. - Ẩm phước: Chủ tế quì, uống rượu (rượu do ông từ mang từ nội điện ra) - Thụ tộ: Nhận lộc, ăn miếng trầu - Phủ phục: Chủ tế lễ theo nhịp hưng bái 2 lần - Bình thân phục vị: Chủ tế về chiếu cũ (Chiếu 2) - Tạ lễ: - Tạ lễ cúc cung bái: Chủ tế, trợ tế, bồi tế lễ 4 lạy theo nhịp xướng hưng, bái. - Bình thân: Đứng nghiêm - Phân chúc: Người đọc chúc vào lấy chúc ra, vái rồi đốt văn tế - Lễ tất: Xong. 44
- Khương Duy Anh - Ba hồi trống chiêng, ban tế vào làm lễ, sau đó kỳ chỉ dẫn hàng đô vào đình, cất gươm giáo, ra chiếu làm lễ. Kết thúc buổi tế. Dân làng vào làm lễ cuối cùng. Từ ngày khôi phục đám tháng Bảy năm 1993, việc tổ chức tế do Ban khánh tiết và Hội người cao tuổi chủ trì. Trong đó, các ông Trưởng ban khánh tiết giữ vai trò quan trọng trong việc tổ chức đám tháng Bảy, dân làng ghi nhận sự tận tâm với việc làng của các ông: Phạm Văn Dậu - Trưởng ban kháng tiết từ năm 1991 – 2002; ông Vũ Đình Thuân - Trưởng ban khánh tiết từ năm 2002 – 2006; ông Nguyễn Văn Sang - Trưởng ban khánh tiết từ năm 2008 – 2012. Các ông trưởng và thành viên Ban khánh tiết, các ông Chủ tế cùng các vị trong ban tế, đội nhạc tế của làng, các hội đồng tuế đăng cai những năm qua đã thực hiện xuất sắc nhiệm vụ tâm linh tế truyền thống đám tháng Bảy của làng. Các bà, các chị tham gia đội dâng hương cũng đã thực hiện tốt hoạt động tâm linh dâng hương tế Thần, bổ sung thêm một nét mới cho lễ truyền thống tế Thần ở làng Yên Thôn. 9.3 Vui đám tháng bảy Đám tháng bảy có hai phần : Phần Đình và phần Đám. Phần Đình tổ chức tế lễ trong đình. Phần 45
- Di sản văn hóa làng Yên Đám chính là phần Hội tổ chức ở ngoài đình. Đình đám là một chỉnh thể thống nhất. Phần Đình là phần tín ngưỡng, là phần của thế giới tâm linh, thì phần Đám là phần tập hợp vui chơi giải trí, đó là đời sống văn hóa thường nhật mà chỉ có trong những ngày này, dân làng mới có dịp phô bày và thưởng thức. Đám Yên Thôn có nhiều trò nhưng nổi bật nhất là đấu vật và múa rối nước : Đấu vật Vốn nằm trong tổng Nỗ Đô xưa ( Nỗ Đô là tên tổng Nủa thời nhà Mạc ) , nơi có truyền thống về vật. Làng Yên xưa có nhiều đô vật, tiếng tăm còn truyền lại đến nay như cụ Thủ Ái, cụ Đồng từng giật giải cao ở nhiều nơi trong xứ Đoài, và vật đổ cả đô vật Bắc Kỳ. Làng có hai lò vật, ở khu vực làng Yên và khu vực Tây Phương, là nơi huấn luyện cho những đô vật trẻ trong làng. Bãi vật còn gọi là sới vật ở sân đình ngoài, có đà tre quây quanh. Thẳng đình trông ra bày hương án, đỉnh trầm, có cọc treo giải vật. Vật ngày xưa không phân theo hạng cân, được thua phải ‘nấm lưng trắng bụng’ hoặc phải nhấc đối thủ lên khỏi mặt đất. Giải vật có ba giải nhất, nhì, ba và một số lèo (như giải khuyến khích). Điều khiển các trận vật là một người cầm chịch, điều hành bằng trống và một người giám sát. Trống 46
- Khương Duy Anh thúc liên hồi là các đô cứ việc vật, giữ miếng, vào miếng Trống cắc cắc cắc ba tiếng là dừng. Mở đầu cuộc vật có lể trình Thánh. Cuộc vật lễ của các đô nhà mang tính mở màn cho cuộc vật. Vật tranh giải từ thấp lên cao, tham gia giải nào phải vuốt giải nấy. Thắng ba keo mới được vào vòng trong. Vật làng Yên quy tụ được nhiều đô vật trong vùng tham dự. Đô vật làng Yên có những miếng vật rất hay, Các đô thắng cuộc dùng miếng là chính. Giải nhất ít khi mất về các đô làng khác. Hội thi vật làm cho không khí Đám thêm tưng bừng, náo nhiệt, không những bởi những keo vật hay mà còn bởi tiếng trống thúc giục, bởi sự cổ động của người xem. Hội vật làng Yên là một sinh hoạt văn hóa mang đậm nét bản sắc văn hóa truyền thống, nhưng vì nhiều lý do mà hội vật đến nay chưa được khôi phục Múa rối nước Phường rối nước Yên thôn không biết có từ bao giờ, nhưng theo truyền lại thì phường rối đã từng được phục vụ ở kinh thành Huế thời Nguyễn. Rối nước là hình thức nghệ thuật rất độc đáo và hấp dẫn, trên thế giới chỉ có ở Việt Nam, và ở Việt Nam cũng chỉ có ở số ít làng. Hiện nay được biết cả 47
- Di sản văn hóa làng Yên nước có 14 phường rối nước. Ở miền Bắc có ở Bắc Ninh, Hải Phòng, Thái Bình. Ở Hà Nội có các phường Đào Thục - Đông Anh, Đại Nghĩa - Mỹ Đức và 3 phường ở Thạch Thất là: Làng Gia, Chàng Sơn và Yên Thôn. Trước đây múa rối thường tổ chức ở ao đình, cũng có năm tổ chức múa ở ao cụ Lang Liêu cạnh sân đình ngoài. Giữa ao là thủy đình làm băng tre, mái lợp bằng những tấm cót, phía trước treo những bức mành nứa là cửa để rối đi ra trình diễn. Phía trên những mành nứa có tấm hoành, ghi ba chữ : ‘Nhạo thủy hành’ nghĩa là đi chơi vui dưới nước. Chỉ cần đọc ba chữ này đã thấy ngồ ngộ và hấp dẫn rồi.Cũng có khi treo ba chữ trí giả nhạo là múa rối rất trí tuệ mà vui. Hai bên cửa thủy đình treo hai câu đối : “Khởi xuất mộc vô tri, tái ca, tái vũ Thùy giáo thủy hữu thuật, dữ xuất, dữ kỳ” Dịch nghĩa là : con rối từ gỗ là vật vô tri, mà biết hát, biết múa. Nước ao như có phép thuật, rối càng ra càng thấy lạ Rối Yên thôn rất độc đáo, chủ yếu điều khiển bằng dây (các phường rối khác thường chỉ điều khiển con rối bằng sào, tuy dễ diễn hơn nhưng 48
- Khương Duy Anh không đưa được con rối ra xa). Đoàn rước kiệu từ thủy đình rước xa hàng chục mét, mang cau trầu ra tận khán đài mời khán giả. Rồng vàng cũng bơi ra tận gần bờ nghểnh đầu, vẫy đuôi, phun khói, phun nước ra bốn phương tám hướng. Rối chỉ là diễn trò, chứ không diễn vở như những hình thức nghệ thuật khác và phần lớn là ‘trò cảnh mọi mặt đời sống và sản xuất của cư dân nông nghiệp như cảnh đi bừa, đi cấy, kéo cá, xay lúa, giã gạo, quay tơ, trèo cây hứng dừa hoặc cảnh tài nghệ như cưỡi ngựa chém chuối, leo dây đốt pháo, Con rối hoạt động tài tình, lạ mắt, kết hợp với lời dẫn của ông trùm Híp Họa, bằng những câu ứng khẩu ca dao hò vè, pha trò rất có duyên làm cho trò diễn sống động rất hấp dẫn người xem. Ngược lại với đám vật, đám vật người xem phần lớn là nam giới còn ở ao rối nước thì phần lớn là các bà các chị và nhất là trẻ em thì thích thú lắm. Người xem ngồi kín năm sáu vòng quanh bờ ao. Từ ngày khôi phục Đám Tháng Bảy 1993 thì ba năm mới mở Đám một lần và múa rối được tổ chức ở ao rối cạnh trụ sở ủy ban nhân dân xã, có nhà thủy đình chồng diêm tám mái xây sẵn bằng bê tông kiên cố. 49
- Di sản văn hóa làng Yên 10.Một số bài văn tế Thánh ở Đình Yên thôn Ngày tế thần đám tháng Bảy, sau tuần hương và tuần rượu thứ nhất, đến tuần đọc văn. Văn tế thường có các nội dung: quốc hiệu, niên hiệu, địa danh, thời gian, đối tượng, lời tôn vinh ngưỡng vọng Thần Thánh, lời khẩn cầu của dân làng với Thần Thánh. Nội dung các văn tế thể hiện tính nhân văn sâu sắc., cầu mong điều tốt lành cho dân làng, cầu mong quanh năm mùa màng tươi tốt, dân khang, vật thịnh, làng xóm yên vui. Đình còn lưu giữ được quyển sách ghi nội dung các bài văn tế, văn khấn lễ bằng chữ Hán. Dưới đây là một số bài văn tế, khấn lễ dùng trong các cuộc tế lễ hàng năm ở đình Yên thôn. 10.1 Bài văn tế Thánh Tản bằng chữ Hán, dùng trong cuộc tế chính ngày 18 tháng bảy Duy Tuế thử niên, nguyệt kiến sóc Sơn Tây tỉnh, Thạch Thất huyện, Thạch Xá xã, Yên Thôn cử bàu tế chủ Đồng dân thượng hạ đẳng. Cẩn dĩ. Thứ phẩm chi nghi cảm minh cốc vu 50
- Khương Duy Anh Tản viên sơn, chiêu dung hiển ứng hộ quốc tả thánh oai cảm hoằng hóa nhân đức nghĩa võ anh triết minh tín trợ phúc hiển công quảng tế chỉ khần. Phù hộ vận chợ hiển cao lãng phu hiu hồng liệt chương nghị. Sung tình uyên mục nguyên thông duệ trí vĩnh dụ phù dũng oai khánh phổ trạch diệu vi bảo bang tương hịu trợ ninh hiển khánh hoành hiu dương võ tuyên tiệp quảng vận riệu hóa. Phu dũng phổ duệ oai đức tuy dân. Dực vận phụ quốc bảo dân hậu đức chí nhân cương nghị trấn quốc dương võ phù độ triệu mưu tá tích nam quốc phúc thần trấn võ oai dũng hùng ân đại đức chí đạo thâm nhân đốc nghĩa phát thiện bảo công dáng tường khải thánh niên đồ cương dũng minh đạt anh nghị khoát đạt thông minh thần võ doãn cung huyền mặc anh linh cương đoán phù nhân hưng tường chí đức bác nhân an cảnh khoan dụ quang minh duệ trí anh lược. Vĩ tích đạt đức thần võ anh đoản nhạc khánh thánh đức thần công hộ sỹ chứ linh hiển ứng tăng phúc trung túc cộng ý tuyên từ huệ hòa minh doãn đốc thực cương quả ôn cung doãn tắc duệ linh chương cảm phu ứng hịu mệnh dương hịu đốc hỗ hồng liệt thần võ duệ thánh mậu huân dáng trạch hoằng hỉ tụy linh cảnh giáp tuấn tĩnh dực bảo trung hưng. Tản Viên Sơn tam vị thượng đẳng thần. Vị tiền viết vị hữu tế tất cốc lễ dã. 51
- Di sản văn hóa làng Yên Cung duy: Thượng đẳng thần doãn văn doãn võ chí túy chí tinh dáng sinh đặc dị bất tử lưu danh nhất đường bá thân vạn cổ anh linh tỷ dân hộ quốc hãn hoạn phù ninh. Lịch chiều phong tặng ba cổn chi vinh thiên thu trật tự chỏ đậu chi hinh thích phùng tiệc chi tiến phỉ thành ngưỡng kỳ minh cách tích dĩ phong hanh tỷ xương nhi sý kỷ hòa thả bình thực bằng bảo hịu duy thần chi thỉnh. Cung thỉnh: Bảo Ninh Hịu Thiện chính trực đôn ngưng Thành hoàng Tiếu Thiện Đại Vương sơ phong Tuyên Uý Trung đẳng thần. Vị tiền. Hùng trấn Trầm Đỗng Đại Vương sơ phong Tủng Bạt Trung đẳng thần. Vị tiền. Tả hữu đồng lai dám cách. Phục duy thượng hưởng. Cẩn cốc. Dịch nghĩa. Duy: Quốc hiệu năm thứ tháng ngày Sơn Tây tỉnh, Thạch Thất huyện, Thạch Xá xã Yên thôn. 52
- Khương Duy Anh Cử bầu tế chủ: (là) cùng tất cả toàn dân trên dưới trong làng, sắm sửa vật phẩm, lòng thành tâu lên đức Thánh Tản Viên sắc phong là: “Chiêu dung hiển ứng hộ quốc tả thánh oai cảm hoằng hóa nhân đức nghĩa võ anh triết minh tín trợ phúc hiển công quảng tế chỉ khần. Phù hộ vận chợ hiển cao lãng phu hiu hồng liệt chương nghị. Sung tình uyên mục nguyên thông duệ trí vĩnh dụ phù dũng oai khánh phổ trạch diệu vi bảo bang tương hịu trợ ninh hiển khánh hoành hiu dương võ tuyên tiệp quảng vận riệu hóa. Phu dũng phổ duệ oai đức tuy dân. Dực vận phụ quốc bảo dân hậu đức chí nhân cương nghị trấn quốc dương võ phù độ triệu mưu tá tích nam quốc phúc thần trấn võ oai dũng hùng ân đại đức chí đạo thâm nhân đốc nghĩa phát thiện bảo công dáng tường khải thánh niên đồ cương dũng minh đạt anh nghị khoát đạt thông minh thần võ doãn cung huyền mặc anh linh cương đoán phù nhân hưng tường chí đức bác nhân an cảnh khoan dụ quang minh duệ trí anh lược. Vĩ tích đạt đức thần võ anh đoản nhạc khánh thánh đức thần công hộ sỹ chứ linh hiển ứng tăng phúc trung túc cộng ý tuyên từ huệ hòa minh doãn đốc thực cương quả ôn cung doãn tắc duệ linh chương cảm phu ứng hịu mệnh dương hịu đốc hỗ hồng liệt thần võ duệ thánh 53
- Di sản văn hóa làng Yên mậu huân dáng trạch hoằng hỉ tụy linh cảnh giáp tuấn tĩnh dực bảo trung hưng, Tản Viên sơn tam vị Thượng Đẳng Thần. (Cả đoạn văn trên là những mĩ tự, không dịch). Vì rằng: có lễ tế Thánh Kính nghĩ. Đức Thánh Thượng Đẳng Thần văn võ toàn tài rất mực tinh túy, xuống trần một cách lạ lùng, lưu danh là một nhà có ba vị Thánh bất tử, nên được thờ ở nhiều làng giúp dân giúp nước, ngăn hoạn nạn, phù bình yên, các triều phong tặng mũ áo cân đai, nghìn năm trật tự vẫn còn, thờ cúng thiêng liêng. Nhân gặp tiệc , tiến hành lễ nghi trông nhờ đức Thánh cho được giàu có, hằng mong hòa bình, yên đủ, đó là nhờ vào đức thiêng liêng của nhà Thánh. Xin mời: Đức Thành hoàng Tiếu Thiện Đại Vương sắc phong Tuyên Úy, Trung Đẳng Thần, giúp dân làm việc hiền lành ngay thẳng. Thánh tổ Trầm Đỗng Đại Vương, phong là Tủng Bạt Trung Đẳng Thần, hùng trấn 54
- Khương Duy Anh Cùng tả hữu Thần, đồng lai chứng giám và thượng hưởng. Xin hết. Bài dịch của Nguyễn Kiến 10.2 Bài văn khấn lễ Hạ điền (1 tháng 6 hàng năm) Duy Quốc hiệu Tuế thứ niên nguyệt kiến Sóc Tỉnh Thạch Thất huyện, Thạch Xá xã, Yên thôn. Cử bàu mệnh bái Đồng dân thượng hạ đẳng, cẩn dĩ trai nghi, oản quả, ba tiêu, nhang đẳng trà tửu, phù lang thanh chước, thứ phẩm chi nghi cảm minh cốc vu Tiên nông Thánh đế vị tiền viết vị, hữu hạ điền tất cốc lễ dã. Cung duy: Tiên nông thổ nghi tưởng đại chế tác tiên thiên giao dân giá sắc nông sụ hưng yên tư phùng hạ giá chi tiến vi kiền ngưỡng kỳ minh cách phúc ngã nông điền minh đằng đầu hỏa thời vũ vô khiên, thực bằng Thánh đức tích dĩ phong niên, phục duy thượng hưởng. Cẩn cốc. 55
- Di sản văn hóa làng Yên Dịch nghĩa. Duy Quốc hiệu năm thứ tháng ngày tỉnh Sơn Tây, huyện Thạch Thất, xã Thạch Xá, thôn Yên, cử bàu chủ lễ là cùng toàn dân, trên dưới, kính cẩn dâng lễ chay gồm oản quả, đèn nhanh, trà rượu, cau trầu, nước trong, tất cả các thứ lễ nghi, cầu xin Thần Nông, Thánh Đế giáng xuống, vì rằng (nay) có lễ hạ điền. Kính nghĩ: Thần Nông trông coi việc ruộng đồng, theo ý trời, dạy dân cày cấy, việc nhà nông tốt lành là vậy, nay gặp tiết mùa hạ, lòng thành mong được Thần Thánh thấu cho, dẫu rằng gặp thời tiết nóng bức, gió mưa bất thường, cũng không gây tai họa. Được như vậy là nhờ ân đức của Thần Thánh. Xin cho năm nay được mùa. Xin hết. Bài dịch của Nguyễn Kiến 10.3 Một số bài văn tế Thánh bằng quốc văn Bài văn tế chữ Hán, nội dung rất súc tích, đọc ở lễ tế Thần rất trang trọng đầy chất cổ kính, nhưng người nghe không hiểu được nội dung bài văn tế 56
- Khương Duy Anh nói gì, vì hiện nay rất hiếm người biết chữ Hán. Thời gian gần đây, cụ Nguyễn Trọng Hạp có sưu tầm được bài văn tế bằng quốc văn, tại buổi tế thần năm 2006 đã đọc bài văn tế quốc văn này. Các bài văn tế quốc văn nói được sự tích, công lao của các vị thần với dân với nước và nói lên tâm nguyện của dân làng trước các vị tối linh thần, viết theo thể phú đối rất chặt chẽ và sâu sắc. Người tham dự nghe hiểu được nội dung một cách dễ dàng. Đây cũng là sự đổi mới phù hợp với thời đại. 10.3.1 Bài quốc văn tế Thánh Tản Đức Thánh Tản Viên Sơn-Quốc Chúa Thượng Đẳng Thần Kính nghĩ: Sông Đà sóng vỗ, ầm ầm vang tiếng quan quân. Núi Tản mây che phảng phất khí thiêng thần thánh Non sông gấm vóc Quang cảnh thâm nghiêm Đất nước Việt thiêng liêng, khí trung đúc sinh ra bậc Thánh. Động Lăng Xương tĩnh mịch vẻ u huyền xuất hiện tinh Thần. Cảnh nhà bần bách 57
- Di sản văn hóa làng Yên Dòng dõi bình dân Mẹ cha phúc hậu Tích đức tu thân. Đất Thanh Xuyên quen thuộc nghề rừng, gian nan cuộc sống. Dải sông Đà sớm chiều lặn lội vất vả làm ăn Sáu tuổi đời côi cút Ba năm tang chế ân cần Cùng mẹ già hái củi nuôi nhau long đong khôn xiết Với em họ đốn cây chạy bữa sớm tối xoay vần Lăng Xương vắng mặt Tản Lĩnh nuôi thân Đến bà Ma kết nghĩa ân tình nương tựa được qua ngày đoạn tháng Vào thầy Lý xin nhập môn sư đệ học hành cho tốt chữ hay văn Chốn rừng sâu gặp được tiên ông, dạy lời chú, ban gậy thần đi cứu dân độ thế Bờ sông rộng vui cùng bạn trẻ, đọc lời chú cứu rắn thần được cải tử hoàn sinh - Vua Thủy Tề hàm ơn tặng sách ước 58
- Khương Duy Anh Đức Sơn Thánh cảm tạ hồi dương trần - Về Tản Viên thờ hai mẹ ngày đêm lo tròn chữ hiếu Xuống Bản Trại cùng mọi người làm lụng cổ vũ lòng dân - Vua Hùng Vương kén rể hiền tài, dựng đài thi tuyển Trai đất Việt ước mơ vợ đẹp, nô nức đọ cân - Hiệp sĩ khắp nơi thảy đều bị loại Thần sư gặp lại hoàng tử bạn thân - Hai anh hùng trổ tài ba hô phong hoán vũ Nhiều thế trận thật diệu kì, xuất quỉ nhập thần - Bao phen đọ sức, thắng bại không phân Hai trai một gái lòng vua phân vân - Lập mưu cao, vua phán ngày mai ai đến trước sẽ thành phu phụ Dùng sách ước, thần hô một tiếng, Ngài đủ ngay lễ vật hôn nhân Công chúa về núi Muôn vẻ như xuân Sơn Tinh thắng thế 59
- Di sản văn hóa làng Yên Thủy Tinh kém phân - Hoàng tử Thủy Tề uất hận, dâng nước giao tranh, rắn dải kình nghê tàn phá Sơn Thần núi Tản kiên gan, cùng dân đánh giặc, mương phai bờ đập đắp ngăn Sơn Tinh đại thắng Thủy Tinh lui quân Đồng trắng lại xanh Nước lành thanh mát - Chốn Vân Mộng đầm ấm nhân duyên, ân ưu hiển Thánh Vùng Núi Tản vui vầy hạnh phúc, hiển hiện linh Thần - Giúp vua Hùng sửa sang việc nước, cuộc sống yên vui, nước Văn lang giữ yên bờ cõi Khuyên Thục Phán giữ tình lân lý, vẹn bề giao hảo, miền Việt Âu đằm thắm nghĩa nhân - Chốn thiên cung đi gió về mây chơi núi chơi sông, yên nhiên bất tử Nơi trần thế xây đài dựng điện, vui chiều vui sớm, vĩnh viễn trường sinh 60
- Khương Duy Anh - Ôi! tấm gương trung hiếu vẹn tròn, của núi Tản, Thần sư, non nước Việt âu ca rất mực Kìa! Con người nghĩa tình phụ bạc là Thủy cung, Hoàng tử, nhân dân ta oán hận vô vàn - Nay nhân ngày khánh tiết. Dâng lễ tế thần Trẻ già trai gái Toàn thể nhân dân Noi gương trung hiếu Học tập nghĩa nhân Nước nhà thịnh vượng Dân xã cách tân Dưới trên một dạ Mong đợi thiên ân Kính lễ! 10.3.2 Bài quốc văn tế Tiếu Thiện Đại Vương Tiếu Thiện Đại Vương Dực bảo Trung hưng Trung đẳng thần. Kính nghĩ: Ánh sao trại Kiệt trông thêm sáng. 61
- Di sản văn hóa làng Yên Xe mây non Tản ngó càng cao. Tiếu Thiện Đại Vương. Hồng chân tráng khí Đặc Kiệt danh nhân Gia đình phúc hậu Giỏi võ hay văn - Thấy non sông giặc Hán chiếm quyền dù võ giỏi hay văn cũng thẹn Nhìn già trẻ dân Nam cực nhục nghĩ thù này oán ấy càng sâu - Rời quê hương lên Thạch Thất Phú Đa nạp bạn chiêu hiền nêu cao nghĩa cả Lập doanh trại bên sông Đà, núi Tản chiêu binh mãi mã quyết lập công đầu Trời xanh ngày trắng Bãi bể nương dâu - Bến Châu Phong, Trưng nữ phất cờ rửa nhục nước trả thù chồng khảng khái Dưới trướng hổ ba quân theo lệnh, về hội quân đi cứu nước mau mau 62
- Khương Duy Anh - Đào tướng quân Tiền đạo tiên phong, đuổi ngay Tô Định Trưng nữ chúa trung quân đốc chiến, giải phóng Luy Lâu - Tô Định thua, Hán quân tan tác Trưng nữ thắng, Nam quân anh hào - Tại Đô thành Trưng nữ xưng vương, dân tộc hân hoan quan quân khen thưởng Trước doanh trại Đào Khang thắng tướng nhân dân hồ hởi quân sĩ ăn khao Ba năm sau Mã Viện lại xâm lược Đào tướng quân hồi trào - Trưng nữ vương truyền tướng sĩ xuất chinh cứu nước cứu dân, danh lưu muôn thưở Đào đại tướng lệnh đội ngũ quyết chiến vì dân vì nước bia để nghìn thu - Dân Phú Đa, ghi dấu tích đầu tiên, dựng miếu tôn thờ, phảng phất anh linh bất diệt Dân Tam thôn nhớ in lưu hậu lập đàn cúng tế hương hoa ngào ngạt bội phần - Nay nhân ngày khánh tiết 63
- Di sản văn hóa làng Yên Dâng lễ khấn cầu Noi gương đức thánh Trung dũng làm đầu Làm mọi việc tốt Nước mạnh dân giàu Cho đời hiện tại Và cho mai sau Cầu thần phù hộ Hạnh phúc bền lâu Kính lễ! 10.3.3 Bài quốc văn tế Trẫm Đỗng Đại vương Trầm Đỗng Đại Vương Dực bảo Trung hưng Trung đẳng thần. Kính nghĩ: - Đình làng Yên cao đẹp đầm Cầu Liêu mát trong, Cảnh trí thiên nhiên, tạo thế địa linh nhân kiệt Cha họ Trương phúc hậu, mẹ họ Nguyễn hiền hòa, nhân duyên phối hợp, ắt sinh quí tử hiền nhân Đức Thánh tổ xưa Nề nếp nho phong 64
- Khương Duy Anh Khôi ngô tuấn kiệt Giỏi võ hay văn - Với mẹ cha, phụng dưỡng hết lòng, lo điều con hiếu. Với đất nước, trung trinh rất mực, sáng đạo tôi trung - Thấy non sông trong cảnh mịt mùng, dạ canh cánh lo bề cứu nước Thấy dân tộc đương cơn tủi nhục, lòng đăm chiêu lo việc cứu dân - Căm giặc Lương tàn ác Giận Tiêu Tư tham tàn Chờ thời cơ mua ngựa nuôi quân, đợi ngày khởi nghĩa Tìm bầu bạn bàn mưu tính kế kịp lúc ra quân Thấy Lí Bí phất cờ, Triệu hưng long đã đến Cùng Quang Phục kết bạn, gan bắt hổ khôn ngăn Tiêu Tư đền mạng Giặc Lương tan tành Long Biên giải phóng 65
- Di sản văn hóa làng Yên Đất nước thanh bình - Tại kinh thành dựng nước Vạn Xuân, lần đầu tiên người nước Nam xưng đề Toàn lãnh thổ lập đài chiến thắng, đã bao phen dân đất Việt xưng hùng Lý đế hoan hỉ Tướng sĩ vinh phong - Đức Thánh tổ được ân phong Thái úy - Xã Nguyên Xá được nhận ấp thực phong - Về quê hương giúp đỡ nhân dân làm ăn yên ổn Lo việc nước giữ gìn địa phận nhàn tản thong dong Giặc Lương lại đến Lý đế trao quyền - Triệu Quang Phục về Dạ Trạch lo việc chiến tranh đuổi được giặc ra ngoài bờ cõi Trương thái úy về Nguyễn Xá lo việc bảo vệ ngăn quân thù mở rộng chiến tranh Giặc Lương lại đại bại Long Biên lại thanh bình 66
- Khương Duy Anh Cậy công đầu Triệu Quang Phục xưng vương phản Lý đế Vì nghĩa lớn, Trương thái úy đem quân cứu triều đình Châu Tự Nhiên, Trương thái úy thua trận Núi Tử Trầm, Trương thái úy quyên sinh - Triều Lý phục hồi, Lý Phật Tử lên ngôi, ban thưởng công lao cho người nghĩa liệt Nguyễn trang sùng kính, Trương tướng quân chính vị, nguy nga đài các, đáng bậc trung thần - Ôi! Gương liệt sĩ sáng soi tựa hai vầng nhật nguyệt Kìa! Lòng trung trinh rạng rỡ như một ánh tường vân Nay: Nhân ngày khánh tiết Già trẻ trong dân Nguyện theo nghĩa lớn Nguyện học đức nhân Làm cho làng nước Giàu đẹp vô ngần 67
- Di sản văn hóa làng Yên Cúi mong Thánh tổ Phù hộ cho dân Kính lễ! 11. Sắc phong thần thờ ở đình Yên Thôn Các vị Thánh Thần thờ ở đình Yên Thôn được nhiều triều đại phong kiến xưa phong sắc. Trong cuốn ngọc phả bản chữ Hán có ghi chép được 17 đạo sắc phong thần thờ ở đình Yên Thôn, vào các triều đại sau đây: - Triều Lê Thái Tông (1434 – 1442) - Triều Lê Nhân Tông (1443 – 1458) - Triều Lê Nghi Dân (1459) - Triều Lê Thánh Tông (1460 – 1497) - Triều Lê Hiến Tông (1498 – 1504) - Triều Lê Hoàng Đệ Xuân (1523 – 1529) - Triều Lê Thần Tông (1619 – 1628) Rất tiếc, các sắc phong này đã bị thất lạc, hiện nay chưa tìm lại được. Có số ý kiến cho rằng, đình Yên thôn không chỉ có các triều đại trên phong sắc. Vì ngày xưa, các triều đại thường nhân một sự kiện trọng đại nào đó, mà phong sắc cho Thần và giao cho các làng 68
- Khương Duy Anh phụng thờ. Không lẽ, qua nhiều thời đại từ Lê Thần Tông (1619 – 1628) đến cuối nhà Nguyễn, Đình làng Yên thờ vị thần đứng đầu bách thần lại không được phong thêm sắc nào nữa ? (Được biết ở làng Chàng, đình cũng thờ Thánh Tản như đình Yên, năm mừng thọ vua Khải Định 40 tuổi (1925) còn nhận được 4 đạo sắc phong thần cho 2 đình và 2 miếu). Nếu có điều kiện, làng ta nên để tâm tìm kiếm về cho đình những bản sắc phong này, đây là những tài liệu rất có giá trị lịch sử của đình làng ta. 12. Quyết định xếp hạng đình Yên Thôn là Di sản văn hóa quốc gia Đình Yên Thôn được Bộ VHTT công nhận là di tích LỊCH SỬ VĂN HÓA tại quyết định số 95 – QĐ/BT Ngày 24/4/1998. Số danh mục 1961 do Bộ trưởng Bộ VHTT Nguyễn Khoa Điềm ký. 13.Việc bảo vệ,trùng tu, sửa chữa, tu bổ Đình Yên Thôn những năm gần đây Ngôi đình Yên Thôn từ khi khởi dựng đến nay đã qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa nhưng rất tiếc là chưa tìm được tư liệu để biết cụ thể. Tài liệu này xin giới thiệu vài nét về những lần tu bổ lớn gần đây. 69
- Di sản văn hóa làng Yên Sau thời gian dài chiến tranh chống Pháp chống Mỹ,cả nước tập trung vào việc đánh giặc, giải quyết những khó khăn trong việc phát triển kinh tế đời sống, cùng với những quan niệm không đúng về tín ngưỡng tâm linh, các di tích đình chùa ít được quan tâm, đình Yên Thôn có thời gian sử dụng vào việc khác, các đồ thờ tế khí, có lúc phải sơ tán sang đền Đỗng Hoa, đình bị xuống cấp nghiêm trọng. Bước sang thời kỳ đổi mới, đời sống kinh tế phát triển, việc giữ gìn truyền thống văn hóa được coi trọng, từ năm 1991 đình Yên Thôn từng bước được bảo tồn sửa chữa, tôn tạo và khôi phục lại các lễ tiết. 13.1 Bước đầu đi vào trùng tu, sửa chữa và khôi phục các lễ tiết ở Đình Năm 1991, làng Yên đã thành lập ban kiến thiết để trùng tu, sửa chữa đình làng. Ban kiến thiết gồm ông. Do ông Nguyễn Văn Thấn làm trưởng ban, ông Nguyễn Văn Thế - chi hội trưởng hội Bảo thọ làm phó ban, ông Lê Văn Thiệm làm thư ký và ông Đỗ Văn Tập làm thủ quỹ. - Lần trùng tu, sửa chữa này, đã phục hồi, làm lại 2 cột trụ lớn, 2 trụ nhỏ ở cửa đình, đắp lại đôi nghê, xây lại tường bao phía trước. 70
- Khương Duy Anh -Ở tòa đại bái đã thay số xà, rường, hoành và đảo lại ngói lợp. - Sửa lại sân đình, đắp lại đôi voi chầu v.v Sau khi trùng tu sửa chữa xong, ban kiến thiết cùng dân làng đã đưa các đồ thờ tế khí từ đền Đỗng Hoa như các long ngai, hạc thờ, ngựa thờ, và các đồ tế khí khác về đình như cũ. Các cụ gọi là đưa Thánh hồi cung. Đợt trùng tu sửa chữa này kéo dài 5 tháng, từ tháng 2 đến đầu tháng 7 năm 1991. - Khôi phục lại lễ tiết: Sau khi hoàn thành việc trùng tu sửa chữa, đầu tháng 7 năm 1991 làng cử ra ban khánh tiết để chăm lo việc cúng tế ở đình. Ban khánh tiết gồm 23 ông. Do ông Phạm Văn Dậu làm trưởng ban. Năm 1993 ban khánh tiết cùng với các cụ cao tuổi trong làng quyết định phục hồi lại việc tế Thần ở đình đã bị mai một từ cách đây trên nửa thế kỷ. Đã thu hút được hai chục người nhiệt tình tham gia vào ban tế, do ông Phạm Văn Dậu làm trưởng ban. Ban tế đã mời cụ Đỗ Văn Cận (thường gọi là cụ Quỹ Cận) – Người biết nhiều chữ nho, am hiểu việc tế lễ, hướng dẫn tập tế. Việc tập tế được tiến hành 71
- Di sản văn hóa làng Yên trong ba tuần ở đền Đỗng Hoa. Đám tháng Bảy năm 1993 lễ tế Thần chính thức được phục hồi. Trong đợt phục hồi, bảo tồn này, chi phí khoản tiền rất lớn, tất cả do sự cung tiến của dân làng. Việc bảo tồn ngôi đình, phục hồi lại các lễ tiết ở đình là việc hợp với lòng dân, khơi dậy được tình cảm tâm linh sâu thẳm trong lòng dân với Thần Thánh với đình làng sau nhiều năm bị mai một. 13.2Trùng tu, sửa chữa lớn năm 2003 Do có nhiều khó khăn, năm 1991 mới chỉ là bước đầu phục hồi sửa chữa những chỗ đổ nát hư hỏng nặng làm cho đình kín đáo và chống dột tạm thời. Toà đại bái và hậu cung vẫn bị xuống cấp nặng. Năm 2003, làng quyết định trùng tu, sửa chữa tiếp ngôi đình và lập ra ban kiến thiết gồm 16 vị do ông Nguyễn Xuân Biên_ Chủ tịch UBND xã làm trưởng ban; ông Nguyễn Xuân Hải - Chủ tịch MTTQ làm phó ban; ông Vũ Đình Thuân - Trưởng ban khánh tiết làm phó ban thường trực; ông Đặng Đình Lập làm thư ký và ông Nguyễn Văn Chúc làm thủ quỹ. Lần trùng tu này đã sửa chữa tòa đại bái, hậu cung, nhà tả vu, hữu vu. Ở tòa đại bái và hậu cung đã thay một số cột con, xà con, một số kẻ bẩy, toàn bộ hoành, dui; làm lại xối bằng bê tông cốt thép, 72
- Khương Duy Anh lợp lại mái, đắp lại đôi rồng chầu trên nóc đình, phục hồi lại lan can vòng quanh sàn đình, lát nền đình Với nhà tả vu, hữu vu đã sửa chữa một số chi tiết phần mộc và lợp lại mái. Đợt sửa chữa này kéo dài 5 tháng từ tháng giêng đến hết tháng 5 mới hoàn thành, tổng kinh phí hết 154.752.000 đồng, tương đương 32 cây vàng, trong đó nhà nước hỗ trơ 10 triệu, còn lại ủy ban xã cho khai thác 30 cây xà cừ ở đường Đồng Bịa (do các cụ trồng từ năm 1960), dân làng công đức 70 triệu và 1400 công. Đáng lưu ý trong lần sửa chữa này là đã thực hiện tốt quan điểm bảo tồn, tất cả những phần phải thay như kẻ, bẩy, hoành lan can từ kích thước đến hình thức điêu khắc được làm như cũ. Phần mái: giữ lại được nguyên vẹn các con giống, các đầu đao bằng sành nung, có niên đại từ thời Lê. Chỉ làm lại đôi rồng chầu mặt nguyệt nhưng mang được phong cách rồng thời Nguyễn. Đã dựng 12 tấm bia để ghi lại lần trùng tu, sửa chữa này, lưu niệm cho mai sau. 13.3 Đợt tu bổ lớn trong những năm 2008 – 2010 Tiếp theo lần sửa chữa năm 2003, trong 2 năm 2008 – 2010 Đình Yên thôn lại được tu bổ lớn. Đợt 73
- Di sản văn hóa làng Yên tu bổ này do ban khánh tiết đình đền làng Yên chủ trì, do ông Nguyễn Văn Sang làm trưởng ban. Trong đợt tu bổ này, đã mua sắm mới được nhiều đồ nội thất, phục hồi lại nhiều hạng mục của di tích, như phúc hội lại sạp đình, một số hoành phi câu đối, trần khám thờ, cửa vào hậu cung, cửa đình, đắp lại voi chầu, đổ mới bê tông sân đình ngoài Lần tu bổ này, tổng chi phí đến trên nửa tỷ đồng, nhà nước chỉ đầu tư 50 triệu, còn lại do một số cá nhân, một số hội đồng tuế cung tiến và sự đem tâm công đức của bà con trong làng. Có rất nhiều tấm gương tiêu biểu mà sổ vàng công đức đã ghi lại để lưu công đức cho đời. Xin được nêu một vài trường hợp: - Hội đồng tuế sinh năm 1964 cung tiến sập thờ ở gian giữa. - Hội đồng tuế sinh năm 1967 cung tiến sập thờ trước ban thờ bên trái. - Gia đình ông Phạm Văn Trung cung tiến sập thờ trước ban thờ bên phải. - Các hội đồng tuế sinh năm 1961, 1971, 1972 cung tiến phục hồi 3 bộ hoành phi câu đối. - Hội đồng tuế sinh năm 1964, 1965 cung tiến bức trương ban thờ bên trái. - Gia đình ông Nguyễn Văn Tiến cung tiến bức trương ban thờ bên phải. 74
- Khương Duy Anh - Hội đồng tuế sinh năm 1974 cung tiến làm lại cửa hậu cung. - Hội đồng tuế sinh năm 1940 cung tiến 1 lọng và 2 quạt thờ. - Gia đình ông Nguyễn Văn Hưng và Khương Văn Huệ cung tiến 5 quạt trần. - Gia đình ông Nguyễn Văn Sơn cung tiến làm lại 9m2 khám thờ. - Gia đình ông Vũ Đình Chung cung tiến đổ bê tông sân đình ngoài rộng 660m2 (70m3 bê tông) - Phục hồi lại 200m 2 sạp đình bằng gỗ sến và gỗ xoan vườn chi phí gần 200 triệu đồng do dân làng công đức. - Sư thầy chùa Yên Nội, Đồng Quang, Quốc Oai (người làng) cúng tiến bộ khung, bạt che mưa nắng ở sân đình phục vụ việc tế. Ai công đức cũng ở tâm mình. Tài liệu này không chép đủ những tấm lòng của nhân dân, của những tập thể, những cá nhân và của nhà nước đầu tư, bảo tồn tu bổ đình làng. Các vị Thánh minh, sẽ chứng dám lòng thành, đời sẽ ghi tạc những tấm lòng cao cả này. Đến thời điểm viết tài liệu này (2011) Đình Yên thôn cơ bản được phục hồi như cũ. 75
- Di sản văn hóa làng Yên Đình là biểu tượng tập trung nhất của làng về mọi phương diện. Đình Yên Thôn thờ thần núi Tản Viên - người anh hùng văn hóa dân gian; thờ những người anh hùng có công với dân với nước làm Thành hoàng, là những vị thần độ trì, là chỗ dựa tâm linh cho dân làng, thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn của làng Yên. Chính vì vậy, đình là nơi thiêng liêng, trung tâm tín ngưỡng trong tâm thức mọi người. Đình làng Yên xưa kia là trung tâm hành chính, là nơi hội họp, bàn việc chung, quyết định những việc trọng đại của làng, nơi làm việc của những người quản lý việc làng. Đình là trung tâm sinh hoạt văn hóa cộng đồng, nơi tổ chức hội hè đình đám. Khi làng Yên vào đám Tháng Bảy, thu hút mọi người hào hứng tham gia. Bà con làm ăn nơi xa, các bà các chị lấy chồng ngoài xã, năm nào cũng nhớ ngày về, tham gia “đám” làng với tình cảm gắn bó thiết tha với quê hương. Sân đình rộng rãi, dưới bóng đa làng râm mát, là nơi vui chơi của các lớp trẻ thơ. Đình còn là trung tâm về mặt tình cảm. Nói đến làng là nghĩ đến mái đình với tình cảm gắn bó thân thương nhất. Qua đình ngả nón trông đình 76
- Khương Duy Anh Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu Đình là ngôi nhà chung, là di sản văn hóa rất tiêu biểu của làng do toàn dân từ xưa đã cùng nhau chung lòng chung sức, góp công góp của xây dựng nên và giữ gìn sự toàn vẹn di tích cho đến nay. Ngày nay, công năng của Đình không còn như xưa nhưng ý nghĩa văn hóa của nó vẫn còn rất sâu đậm trong đời sống dân làng không những hiện tại mà còn lâu dài về sau. 77
- Di sản văn hóa làng Yên CHÙA BẢO QUANG NGÔI CHÙA THÂM NGHIÊM CỔ KÍNH Chùa Bảo Quang, thường gọi là Chùa Làng 1. Chùa có tên chữ là Bảo Quang tự, với ý nguyện đức Phật truyền ánh sáng quí báu đến khai sáng, mang điều lành đến cho dân làng. Chùa Bảo Quang được làm giữa làng Yên, lưng quay về gò Nủ Rùa, mặt trông về hướng nam (hướng nam và tây là 2 hướng chủ yếu của chùa Việt). Trước mặt là hệ thống ngòi ao có nước chảy từ đầm Thông vòng quanh làng, qua trước chùa xuống ngòi Đặng ra sông Tích. Phía trái chùa là ao làng dấu tích của việc vượt thổ đắp nền chùa và cũng để tạo thêm thế tụ thủy cho ngôi chùa. Khu chùa rộng rãi và thoáng đãng. Trước đây đứng từ sân chùa nhìn thấu xuống tận đồng làng Gia. Chùa gồm 2 nếp nhà nằm ngang, song song nối với nhau bằng nhà dọc ống muống gọi là nhà 1 “Đất vua chùa làng”. Chùa Làng là chùa do dân làng tự bỏ tiền ra làm, khác với một số chùa do nhà nước đứng ra xây dựng, gọi là quốc tự 78
- Khương Duy Anh thiêu hương tạo cho chùa có hình chữ công. Nhà nằm ngang phía ngoài là bái đường, nhà thiêu hương và nhà nằm ngang phía trong là thượng điện. Chùa có kiến trúc, kết cấu vì theo kiểu giá chiêng, chồng rường và bẩy không có kẻ. Tường xây bằng đá ong, loại vật liệu truyền thống sẵn có ở địa phương. Cả 2 nếp nhà trong, và nhà ngoài đều có 4 mái chảy xuống gặp nhau ở bốn góc tạo thành các đao cong mềm mại. Các con giống trên mái bằng vôi giấy, khảm sành. Chùa làm thấp, đặc trưng của ngôi chùa rất cổ, tàu hiên chỉ cách hè 1,60m. Nhưng nền chùa lại được đắp lên rất cao, phải qua 9 bậc mới lên đến hè chùa. Qua khoảng sân rộng, phía ngoài là tam quan kiêm gác chuông, làm theo kiểu chồng riêm hai tầng tám mái, trên treo quả chuông đồng lớn. 1. Tượng Phật chùa Bảo Quang Chùa Bảo Quang có 52 pho tượng. Trong đó có tượng Tam Thế và pho A Di Đà bằng gỗ mít. Còn lại tượng đắp bằng đất sét luyện với trấu xay, phủ sơn. Các pho tượng được tạo tác khá đẹp theo phong cách tả thực. Đặc biệt là 2 pho hộ pháp và nhóm tượng Đức Ông rất sống động. Bốn tượng kim cương ngồi (không phải là bát bộ kim cương đứng như ở số chùa khác), không sát khí đằng 79
- Di sản văn hóa làng Yên đằng, lại có kim cương ngồi gảy đàn, thể hiện việc bảo vệ Phật pháp trong bình yên, phù hợp với sự thái bình, thịnh thời gian tạo tác các pho tượng này. Các pho tượng chùa Bảo Quang được bố trí như sau: 1.1. Ở tòa thượng điện: - Lớp trên cùng là 3 pho tượng Tam Thế - Lớp thứ 2 là tượng A Di Đà tam tôn, tượng A di đà ở giữa, 2 bên là Quan Thế Âm và Đại Thế Chí bồ tát - Lớp thứ 3 là tượng Phật trên núi tuyết: Tuyết Sơn ở giữa, hai bên là tượng Văn Thù và Phổ Hiền bồ tát. - Lớp thứ 4 là tượng Di lặc - Lớp thứ 5 là tượng Cửu long và Thích Ca sơ sinh. Hai bên là tượng Phạm Thiên và Đế thích - Lớp thứ 6 là tượng Tứ thiên vương, mỗi bên ba vị. Cũng có thể đây là tượng Ái Bồ Tát (chưa xác định được rõ). Lớp tượng này có thể được làm thêm, thời gian sau khi đã có 5 lớp tượng chính, từ Thích ca sơ sinh trở lên. 1.2. Hai bên tòa thượng điện: - Phía trong, bên phải là tượng Quan Âm Nam Hải, phía trong bên trái là tượng Quan Âm Tống Tử. 80
- Khương Duy Anh - Hai bên sườn dọc theo tường nhà thiêu hương là tượng Thập Điện Diêm Vương và một số tượng khác. 1.3. Hai bên phía ngoài bái đường: - Hai bên trước Phật điện là 2 pho Hộ Pháp, còn gọi là ông Thiện và ông Ác. - Gian đầu hồi bên trái là nhóm tượng Đức Ông và hai tượng Kim cương ngồi. - Gian đầu hồi bên phải là nhóm tượng Thánh Tăng và hai tượng Kim cương ngồi. 2. Di vật Chùa Bảo Quang 2.1.Bi Ký Chùa Bảo Quang còn lưu giữ được 3 tấm bia cổ, còn nguyên vẹn, tất cả đều là bia hậu. Rât tiếc là các bia có ghi năm dựng bia, nhưng không ghi rõ vào triều vua nào, nên khó xác định được thời gian dựng bia cụ thể. Dưới đây là bài phiên âm và dịch nghĩa các bia nói trên: a. Bia 1: Hậu Phật bi ký, thường gọi là Bia Đại dựng ở sát tường bên phải bái đường. Phiên âm: Phật tại thiên địa tiên hạt vi hồ, nãi dĩ hậu Phật nhan kỳ bi. Bản thôn tự cổ lai tương truyền 81
- Di sản văn hóa làng Yên viết Bảo quang hữu Thích tử giả, Bồ tát tự tịch bình Thạch Thất. Phú Ổ nhân dã. Sinh bình hiếu từ kiệm thục đức, vô thiết, phân minh, thị trung phiệt môn hiện xuất nhất cá hiền phụ nhân. Ngũ thập ngũ xuất gia vân thủy chi vãn. Thời vãng lai vu Bối am hoa đăng (quý) gian tức quy y vu bản tự, đầu kỳ thiên chân (thạc kỳ thiện chân). Nhĩ lai ước thập hữu dư nhẫm vu tư hĩ, du quảng đại từ bi chi môn. Nhật dĩ quảng đại từ bi vi niệm, kính lão tôn hiền, tế bần chu cấp. Thời mỗi hữu công thiền giáo bất quản, quyên xuất tư tài vi chi. Chủng chủng âm đức, đại đô bình bát trung nhân xuất cách. Sự quý sửu xuân mưu cập thôn trung liệt kì sắc đồng thời tu hội phúc. Nhân trì tiên bả tự gia tiền tài tố xuất dĩ vi hằng tâm hằng sản chi xướng. Ký nhi công phu. Thứ đệ pháp tượng hồng chung kiều lương viện các sự hữu khoáng. Ức thiên vạn cổ nhi cận kiến giả. Bất tam niên thành chi. Hà đẳng khí phách hà đẳng dụng tâm tuân. Sở vị Kim cang, Di đà hậu thân tự hữu bất khả đắc nhi hình dung chi giả dã. Bản thôn kì sắc xã thôn trưởng đồng thôn thượng hạ đẳng thả kính thả mộ, nhưng cộng hiệp bảo vi bản tự hậu Phật. Từ chi nhi bất dung, dĩ nhân kỳ tử Phan Tuấn Nghiệp tái tam khổ thỉnh, tầm thủ quá phì điền nhất mẫu, thanh phù nhất bách mãn tấn vi tuế thời 82
- Khương Duy Anh hương hỏa chi dụng. Phù, Phật tức tâm dã tâm tức Phật dã, nhi đầu sáp báo Lý diệc thiên lý nhân tình chi tự nhiên. Bi vân bi vân vĩ quán vân hồ tai chí kỳ hoàng dĩ vi tu đức hành thiện chi khuyến vân tái kỳ minh vân. Thiền lâm nhất thốc Cổ thụ đình đình Phù Tứ thời tại trí Nguyệt bạch phong thanh Lạc tại kỳ trung Tiêu dao tính tình Thử tâm công đức Bồ tát tái sinh Nãi thạch dĩ ký Nãi văn dĩ minh Thiên tải nhi hạ Bỉnh như nhật tinh Hoàng triều vạn vạn niên tuế tại Canh thân trọng đông nguyệt cát nhật. Hữu song thanh đường 83
- Di sản văn hóa làng Yên phát sinh Ngô Phi Hiển túc soạn. Thường phúc Vũ Công Trung tả. Chú thích: Cả bài văn chỉ có 1 dấu chấm sau chữ “Phật tại” ở đầu bài, các dấu chấm còn lại là của dịch giả. Dịch nghĩa: Bia Hậu Phật (Bia đại) Phật là hiện tại. Trước lúc có trời đất thì có gì đâu, về sau này muốn nói về Phật thì phải lập bia. Tương truyền rằng từ xa xưa thôn ta đã có chùa Bảo Quang, đã có sư, do Bồ tát chọn được người ở Phú Ổ, Thạch Thất. Ngài sinh thời là người hiếu kính, nhân từ, cần kiệm, hiền lành trong sạch, tính không cứng nhắc ăn ở rạch ròi, là một người hiền sinh ra trong gia đình khá giả. Vào năm 55 tuổi Ngài xuất gia, du ngoạn vui vầy với mây với nước. Khi vãng lai tới hội hoa ở Bối Am, bèn quy y ngay ở đó, ấy là sự thuận theo lẽ thiên chân (ấy là một sự thiên thành lớn lao). Khoảng hơn mười năm ở đây ngài thường đến với các chốn từ bi quảng đại, ngày ngày tâm niệm việc mở rộng lòng từ bi. Ngài kính người già, tôn trọng người hiền, giúp đỡ kẻ nghèo. Khi giáo thiền ngài không ngần ngại xuất tiền của gia tư, để lại ân đức vô vàn. Bình nước uống, bát ăn của ngài luôn đầy thức ăn thức uống của người đời. 84
- Khương Duy Anh Chuyện xảy ra vào mùa xuân năm Qúy sửu: Ngài có ý cùng các vị cao tuổi trong thôn cùng gây dựng Hội phúc. Nhân đó Ngài thủ xướng đóng góp tiền của gia tư, thật là một tấm gương lớn. Tiếp theo đó là việc làm tượng, đúc chuông lớn, xây nhà làm sân, công việc to lớn lắm, tự cổ đến nay ngàn năm ít thấy. Việc không đến ba năm thì xong. Biết bao nhiêu là công sức, bao nhiêu là tâm huyết Ngài đã đổ ra. Việc làm những pho tượng Kim cương, Di đà người đời sau không thể hình dung nổi. Việc làm của Ngài khiến các vị cao tuổi, trưởng lão và mọi người trên dưới trong thôn càng thêm mến mộ. Do đó tất cả cùng chọn lưu tên Ngài ở bia hậu Phật, nhưng Ngài chối từ không nhận. Sau nhân có một người là Phan Tuấn Nghiệp chịu khổ ba lần đi tìm mời, ngài lấy một mẫu ruộng tốt, trăm quan tiền Thanh phủ đưa đến dùng cho việc hương hỏa hàng năm. Than ôi, Phật tức là tâm, tâm tức là Phật, nên đã nhập vào Lý, ấy là cái tự nhiên của lẽ trời của tình người vậy. Bia nói, lẽ phải nhìn nhận vậy đấy. 85
- Di sản văn hóa làng Yên Ghi chép việc trên bằng lời vàng nhằm để khuyến khích việc tu đức, hành thiện. Lại có thơ rằng: Một khoảng rừng thiền, Cổ thụ rậm dày, Chà! Bốn mùa ở đấy, Có trăng thanh gió mát, Vui ở trong đó, Ngày tháng tiêu dao, Tấm lòng công đức này, Là của Bồ tát tái sinh, Lấy đá mà tạc, Lấy văn mà ghi, Đề ngàn năm sau, Vẫn sáng như trời như sao. Ngày lành tháng tốt giữa mùa đông năm Canh thân, vạn niên đưới triều Vua. Ngô Phi Hiển học trò Hữu song thanh đường kính soạn, Vũ Công Trung hiệu Thường Phúc viết chữ. 86
- Khương Duy Anh b. Bia 2 Hậu Phật bi ký, thường gọi là Bia Nguyễn Thế Thịnh, dựng ở cạnh bia Đại. Phiên âm: Phật chi hữu hậu tự, tự ổi doanh. Duy ngã thôn Bảo Quang tự cổ tích danh lam kỷ kinh yên, lai nhi bảo vi hậu giả. Nhĩ lai duy nhất nhân thành dĩ Phật đạo đương tôn. Nhi hậu chi giả diệc nan kì nhân dã. Bản thôn nhân Nguyễn Thế Thịnh hiệu PHúc thiện gia thế sung Phật, tảo ngộ Thiền cơ. Niên tứ thập tằng quy y vu Thăng Long thành. Linh sơn tự. Niên ngũ thập bản thôn tức bảo vi thủ từ, khái kiến kỳ đốc ư kính cẩn dã. Lê Trịnh mạt tạo Phật hóa ư Vương tự, hám phong sương chung tùy thiết đột công dã. Hưng công tập phúc Qúy sửu chi trọng xuân nhi quý thu tố thành. Thiên vạn niên lưỡng đại phúc quả kiêm chi: Đình trung Xuân tế cổ vị hữu tự điền dã, tắc hiến phì điền tam cao, tự miếu Thường tân cổ vị hữu củng điền dã, tắc hiến phì điền ngũ cao. Dĩ chí bản thôn tương tu cựu đình tắc hựu hiến cổ tiền ngũ thập quán dĩ tư công dụng. Chủng chủng thiện duyên tuy vị tất kỳ mại chí nguyên chi dật giá, nhi kỳ tâm địa thành bất khả vong giả. Nhưng cộng hiệp bảo vi bản tự hậu Phật nhi mệnh chi vu thạch vân kỳ thôi bảo các lệ củng điền các sở 87
- Di sản văn hóa làng Yên kỳ trần vu tả kế. Nhất thôi bảo các lệ hệ đệ niên thường tân lệ nhật bản thôn chỉnh tinh mễ thập đẩu hương đăng hoa quả giá cổ tiền nhất quan, thiết vị tại bi tiền truy tế kính dĩ công chính thất Phạm thị hiệu Từ Vi phối Nhất mẫu Thường tân điền; nhất sở đồng Trạo (Điệu) xứ nhất cao, nhị sở tương liên Cửa núi xứ tứ cao thập tam xích. Nhất hiến Xuân tế điền nhất sở Mả Dương xứ tam cao. Hoàng triều vạn vạn niên tuế tai Mậu ngọ trọng đông nguyệt cát nhật. Hữu Từ Liêm huyện Ỷ La xã Tri huyện Nguyễn Dực soạn. Dịch nghĩa: Có Phật rồi sau mới có chùa, có chùa bèn có đầy đủ tượng Phật. Chùa Bảo Quang của thôn ta là một trong những danh lam cổ tích để lại cho đời sau. Xưa đến nay chỉ có một người với lòng thành mà gây dựng cho đạo Phật trở nên tôn quý, về sau này cũng khó có người làm được như vậy. Con người ấy của thôn nhà là ngài Nguyễn Thế Thịnh, ngài có tên hiệu là Phúc Thiện. Vốn nhà nhiều đời sùng đạo Phật, sớm ngộ Thiền cơ, năm bốn mươi tuổi Ngài đã quy y ở chùa Linh Sơn thành Thăng Long. Năm năm mươi tuổi Ngài được dân thôn ta cử làm thủ tự. Ngài là người nhìn xa trông rộng làm việc tận tâm, được mọi người kính nể. Cuối 88
- Khương Duy Anh thời Lê Trịnh dựng Phật khiến chùa thành Vương tự. Ngài gắn bó với chùa khác nào vòng đai sắt treo chuông để tránh bị gió lay sương gội. Vào giữa mùa xuân năm Qúy sửu, Ngài đã đóng góp xây dựng tích phúc. Đến mùa thu, hai phúc quả lớn lao ngàn năm đều thành: đó là ở Đình chưa có ruộng thờ, Ngài hiến ba sào ruộng tốt, chùa miếu cũng chưa có ruộng cúng dành cho lễ Thường tân, Ngài bèn hiến năm sào ruộng tốt. Ngay cả việc làng ta định sửa chữa Đình, Ngài lai đem hiến năm mươi quan tiền để dùng vào việc chung nơi ấy. Việc thiện duyên to lớn ấy về sau này chưa chắc đã có ai bằng. Cho nên tấm lòng thành này không thể quên được. Đương nhiên mọi người thấy cần lưu lại công đức đó mà khắc bia đá ghi lại những việc kể trên, ghi ra các lệ và các thửa ruộng cúng ở bên trái bia đây. Về các lệ lần lượt những ngày lễ Thường tân trong năm thôn ta sắp gạo ngon mười đấu, hoa quả đèn nhang khoảng mười quan tiền cổ bày biện trước bia cúng lễ. Kèm theo là ghi những ruộng mà bà Phạm thị hiệu Từ vi chính thất của Ngài hiến gồm: Một mẫu ruộng Thường tân một thửa một sào xứ Đồng Điệu 89
- Di sản văn hóa làng Yên (hay Trạo), hai thửa bốn sào mười ba thước liền kề xứ Cửa núi. Một mẫu ruộng tế mùa Xuân ba sào xứ đồng Mả giang. Ngày lành tháng tốt giữa mùa đông năm Mậu ngọ. Vạn niên triều vua ta. Bia do Tri huyện Nguyễn Dực người xã Ỷ La, huyện Từ Liêm soạn c. Bia 3 Hậu Phật bi ký Dựng ở sát tường bên trái bái đường, thường gọi là bia Họ Khương Phật thánh nhân dã, nhân hồ nhi dĩ hậu Phật danh? Cái đức thích cập nhân nhân truy tư nhi tự chi, dữ phật đồng kỳ cửu viễn thử hậu Phật chi sở dĩ thanh dã. Bản thôn tiền nho sinh Khương Qúy công tự Thời vọng hiệu Đôn Nghị gia truyền nhân hậu thế tập thi thư, sinh bình tố vi hương lí sở kính trọng. Đãi Qúy dậu niên Công chi á thất Phạm Thị Tín kiến bản thôn công dịch hạo phồn quản quỹ gia tư cổ tiền lục thập quán tư bản thôn dĩ vi công dụng, kế hưu mãi phì điền nhất mẫu vi bản thôn công dụng chi điền. Thử hằng sản thử hằng tâm thành hựu bất khả vong. Nãi thử bản thông cộng hiệp truy bản thôn vi bản thôn tự Phật, nãi minh vu 90
- Khương Duy Anh thạch dĩ thọ kỳ điền, vân, kỳ thôi hệ bảo các thức lệ tịnh điền các sở cụ liệt vu. Thứ hệ đệ niên tứ nguyệt nhị thập bát nhật cung ngộ Công kỵ nhật bản thôn chính nhu mễ nhị thập đấu trư nhất khẩu tịnh kim ngân hoa quả các hạng giá cộng tổ tiền nhất quán nhị bách, tiên cụ sớ văn nhất đạo Củng Phật, thứ thiết vị tại bị tiền kính tế Tế tất biểu bản tộc nhân, thức thập oản ba tiêu thập quả. Nhất sở điền đồng Bả xứ ngũ cao ngũ xích, nhất sở điền đồng Trạo xứ tam cao thập nhất xích, nhất sở điền Cầu Liêu xứ nhất cao nhất xích. Hoàng triều vạn vạn niên chi Ất Hợi niên quý hạ cốc nhật. Bản thôn sinh đồ Khương Bá Tằng soạn thư. Dịch nghĩa Phật là từ thánh nhân mà ra, người làm sao lại được ghi tên vào bia hậu Phật? Đức lớn bao trùm lan tỏa đến mọi người, suy nghĩ lại mà thờ, để được lâu dài như thờ Phật, từ đó có tên trong bia hậu Phật ấy. Thôn ta trước đây có nhà Nho là cụ họ Khương, tên chữ là Thời Vọng, tên hiệu là Đôn Nghị đời đời có nếp đôn hậu, cha truyền con nối theo nghiệp sách đèn. Cụ sinh thời là Lý trưởng của làng rất được kính trọng. Năm Qúy Dậu cụ bà Phạm Thị Tín vợ hai của cụ thấy cảnh đóng góp 91
- Di sản văn hóa làng Yên công dịch trong làng nặng nề, cụ rộng long lo toan, lấy sáu mươi quan tiền của nhà cho làng dùng vào việc công, tiếp đó lại mua một mẫu ruộng tốt làm rộng công cho làng. Lòng thành ấy, hằng sản ấy, thật không thể quên. Cho nên làng đồng tâm truy lưu cụ vào bia hậu Phật, để lưu truyền lâu dài. Về việc này còn ghi giữ lại các lệ và kê ra đây những thửa ruộng đã cung tiến. Việc tiếp theo, là lần lượt các năm, vào 28 tháng 4 là ngày giỗ của cụ, thì trước một hôm, làng sắp lễ gồm hai mươi đấu gạo nếp, một đầu lợn, tiền bạc hoa quản cùng tiền cổ các thứ trị giá một quan hai trăm. Trước tiên phải có một đạo sớ cúng Phật rồi sau kính cẩn bày lễ trước bia mà tế. Sau khi tế xong thì biếu họ ấy mười phẩm oản mười quả chuối. Một thửa ruộng năm sào năm thước tại xứ Đồng Bá, một thửa ruộng ba sào mười một thước ở xứ Đồng Trạo (Điệu), một thửa một sào hai thước ở xứ đồng Cầu Liêu. Ngày lành mùa hạ năm Ất hợi. Vạn niên triều vua ta. Người soạn văn, viết chữ là sinh đồ Khương Bá Tăng thôn nhà. Phiên âm và dịch nghĩa: Nguyễn Văn Thế và Nguyễn Huy Lung 92
- Khương Duy Anh 2.2.Chuông Bảo Quang hồng chung Chuông Bảo Quang hồng chung treo ở gác chuông. Chuông được đúc năm Quý Sửu. Quả chuông cao 70,5 cm, miệng rộng 52.5 cm, có 4 múi. Trong các múi có bài minh và ghi tên các Phật tử cung tiến tiền vàng đúc chuông. Hiện nay, chữ trên chuông mờ, rất khó nhận dạng. Dưới đây là bài minh: Bảo Quang Hồng Chung Phiên âm: Bảo quang giả, Nguyễn Xá chi Yên thôn tự dã. Quý Sửu thu tự chung thành, thôn trung thiện tín kỳ dịch dĩ văn khấu ư dư, dư khải độc năng kim ngọc kì âm tai ngưỡng thưởng văn chi hình nhi thượng giả, vị chi đạo hình nhi hạ giả, vị chi khí đạo phi khí bất hy hình, chung chi vi khí kì chất tắc ngũ hành chi kim thanh, tắc bát âm chi cung tịch nhiên bất động cảm nhi toại thông tâm chi thần dã. Nhi chung thực tự chi khí nhi khả dĩ tượng thiên hạ chi chí thần áo vật sát lý. Chung thành hữu túc bảo yên giả khải trực khanh oanh thần đán phát dương tượng giáo nhi kỉ da, toại mệnh bút nhi thư chi vân hồ tai, liêu gia kì thiện nhi dữ chi cộng lạc kì thành nhĩ vi kí. 93
- Di sản văn hóa làng Yên Kì minh vân: Thiên địa hy cát, Nhật nguyệt trinh minh, Đạo tâm vân hội, Thiện quả viên thành, Huyền chi bảo các, Tuyên duyên nghĩa thanh, Dạ thâm phong nhiễu, Cảnh tỉnh chân minh, Thiện niệm cảm xúc, Tễ nhân thọ thành. Hội chủ Quảng Nam xứ Quy Nhơn phủ Phù Ly huyện Sơn Quả xã Phúc Lâm phường Tường An đội Quán quân sứ An vũ hầu Nguyễn Văn An thê Trịnh Thị. Nhân an xứ Thuận chính châu Đại đan xã Cồn mã (vị?) thôn chỉ huy xứ Chương ngọc hầu Nguyễn Đình Chương, Trần Thị Thiết, Đỗ Thị Cừu. Chỉ huy sứ Thảo luận hầu Nguyễn Duy Đắc. Dịch nghĩa: Chùa Bảo Quang thuộc làng Triền xã Nguyễn Xá, vào mùa thu năm Quý Sửu đúc xong chuông, các vị thiện tín kỳ dịch trong thôn gửi thư nhờ tôi viết bài (cho chuông), tôi há dám một mình có thể đủ lời vàng ngọc sao, cung kính ngước lên, được 94
- Khương Duy Anh nghe tả hình dáng là kẻ trên, nhưng viết mà nói về hình là kẻ kém, được nghe về nhạc khí của chuông mà viết không thấy nhạc khí thì còn yêu thích gì cái hình. Cái chất làm nên nhạc khí của chuông là tiếng của vàng trong ngũ hành, là cung bậc âm thanh trong bát âm, là thần âm mặc nhiên không gây ra sự cảm động nhưng cứ thấm vào cõi lòng, nên chuông chính thực là một nhạc khí đó. Mà như thế do vị Thần áo là tượng của trời nơi trần gian, đến xem xét lý giải cho. Chuông quả thực là vật rất quý, há đâu dám mạnh tay khua ầm ĩ lúc sớm hôm để phát dương tượng giáo. Xin vâng lời mà viết, mừng vì việc tốt lành niềm vui được nhân lên, nên có lời rằng: Niềm vui mừng và điềm lành trời đất ban cho, Có ánh sáng trong lành của vầng nhật vầng nguyệt soi, Đạo tâm ùn ùn như mây đùn, Thiện quả đã viên thành, Chuông treo trên lầu quý, Để chuông ngân lên những âm thanh mang đến cho con người đạo nghĩa, Đêm khuya gió vờn, Thức tỉnh những cõi tối tăm, 95
- Di sản văn hóa làng Yên Lòng lành nói lên cảm xúc, Mong đạt tới điều nhân lâu dài, Hội chủ Quảng Nam xứ, Quy Nhơn phủ, Phù Ly huyện, Sơn Quả xã, Phúc Lâm phường, Tường An đội, Quán Quận sứ, Vũ An hầu, Nguyễn Văn An cùng vợ Trịnh Thị. Nhân An xứ, Thuận Chính châu, Đại Đan xã, Cồn Mã thôn, Chỉ huy sứ Chương Ngọc Hầu, Nguyễn Đình Chương, Trần thị Thiết, Đỗ thị Cửu. Chỉ huy sứ Thảo Luận hầu, Nguyễn Duy Đắc. Bài phiên âm và dịch nghĩa: Nguyễn Huy Lung 2.3.Hoành phi câu đối cổ chùa Bảo Quang a. Hoành phi câu đối trước chính điện: Hoành phi: Từ bi quảng đại Dịch nghĩa: Lòng nhân từ rộng lớn Thành la hán nhi đăng niết bàn vô thượng diệu giác Quảng từ bi nhi khai pháp hỉ đệ nhất chân thuyên Dịch nghĩa: Được quả la hán lên niết bàn không gì tốt đẹp hơn 96
- Khương Duy Anh Rộng lòng nhân từ, khai mở được pháp hỉ không niềm vui nào bằng b. Hoành phi câu đối trước ban thờ Đức Ông Hoành phi: Chiếu lâm tư thổ Dịch nghĩa: Ánh sáng đức Phật chiếu tới đất này Câu đối: Quát lai phúc địa quy chân tể Phòng chứ hào quang khánh thiện nhân Dịch nghĩa: Đến mảnh đất lành theo đức Phật (Người đứng đầu đạo Phật) Như có được ánh sáng, niềm vui cho người làm việc thiện Phiên âm và dịch nghĩa: Nguyễn Huy Lung 3. Ruộng đất chùa Bảo Quang xưa: Ngày xưa, chùa Bảo Quang có một số ruộng đất, phần lớn do số người có tâm hậu vào chùa. Trong hương ước làng Yên thôn thời Nguyễn ở điều 89 ghi rõ: “Chùa Bảo Quang có một mẫu tám sào ruộng, hai sào 12 thước đất và 4 thước ao, giao 97
- Di sản văn hóa làng Yên người giữ chùa cấy để đèn nhang cúng Phật quanh năm”. Ruộng chùa ngày nay không còn. Kinh phí duy trì đèn nhang các ngày tuần tiết và hoạt động của nhà chùa trông vào tiền công đức của Phật tử trong làng và thập phương. Khu chùa Bảo Quang hiện nay có diện tích 3.586 m2. 4. Những ngày tiệc chính ở chùa Bảo Quang Chùa Bảo Quang có các tiệc chính như sau: - Ngày 4 tháng giêng là ngày hội chùa làng. Không phải năm nào cũng mở hội nhưng trước đây thành lệ đến ngày 4 tháng giêng các vãi và bà con dân làng ra chùa vừa thành tâm lễ Phật vừa vãn cảnh chùa, cũng là dịp để giao lưu gặp gỡ đầu xuân. Năm làng mở hội thì ở phía ngoài Tam quan có đấu vật và đánh gậy là hai môn thể thao truyền thống có tiếng ở làng Yên và nhiều trò chơi khác. - Ngày 26 tháng giêng là ngày cúng Phật, cầu yên cho làng - Ngày 7 tháng tám là ngày giỗ cụ Chí Nguyên – Thích Thanh Tầm. Cụ đã có công tạc tượng, đúc chuông, mua ruộng cho chùa. 5. Thời gian làm chùa Hiện nay chưa tìm được chứng tích cụ thể về thời gian làm chùa và những lần trùng tu sửa chữa. Các niên đại ghi trên bia và chuông chỉ ghi năm 98
- Khương Duy Anh can - chi, không ghi rõ ở thời vua nào rất khó tra cứu. Hiện nay mới chỉ biết một số thông tin qua tấm bia nói về cụ Khương Thời Vọng cung tiến ruộng cho chùa. Lần theo tộc phả họ Khương, biết cụ Khương Thời Vọng sống ở thế kỉ 18. Như vậy, ngôi chùa này phải được xây dựng từ thế kỉ 18 trở về trước. Hiện diện ngôi chùa, chắc chắn không phải hoàn toàn là ngôi chùa ban đầu, mà đã qua những lần sửa chữa tôn tạo, tạc thêm tượng Phật, nhưng vẫn giữ được dáng dấp ngôi chùa rất cổ kính. Rất tiếc là chưa tìm được chứng tích để biết cụ thể. 6. Những lần sửa chữa, trung tu gần đây. 6.1 Trùng tu sửa chữa lớn năm Qúy Dậu 1993 Sau hai cuộc chiến tranh kéo dài chống Pháp, chống Mỹ cùng với sự tàn phá của thiên nhiên khắc nhiệt, ngôi chùa bị xuống cấp nghiêm trọng. Năm 1993, làng tổ chức chữa chùa. Ban kiến thiết do ông Đỗ Văn Kim làm trưởng ban, ông Nguyễn Văn Thế, ông Nguyễn Văn Phụ làm phó ban, ông Lê Văn Thiệm làm thư kí, ông Nguyễn Văn Lịch làm thủ quĩ. Các ông Nguyễn Văn Thấn, Nguyễn Văn Chúc, Đỗ Văn Ngữ làm ủy viên. Khởi công trùng tu, chữa chùa từ 15/3/1993 đến 16/09/1993 thì hoàn thành. Phần mộc do ông 99