Giáo trình Những nền văn minh thế giới
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Những nền văn minh thế giới", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
giao_trinh_nhung_nen_van_minh_the_gioi.doc
Nội dung text: Giáo trình Những nền văn minh thế giới
- GIÁO TRÌNH NHỮNG NỀN VĂN MINH THẾ GIỚI 1
- GIÁO TRÌNH 1 NHẠNG NẠN VĂN MINH THẠ GIẠI LẠI DẠN 1 LẠI DẠN 5 VĂN MINH AI CẠP CẠ ĐẠI 7 I- ĐẠa lý và dân cư: 7 II- Các thẠi kẠ lẠch sẠ cẠa Ai CẠp cẠ đẠi: 7 5. Ai CẠp tẠ thẠ kẠ X - I TCN 8 III- NhẠng thành tẠu: 8 2. Tôn giáo 8 3. KiẠn trúc điêu khẠc 9 4. Khoa hẠc tẠ nhiên 9 VĂN MINH LƯẠNG HÀ CẠ ĐẠI 9 I- ĐẠa lý và dân cư: 9 II- Các thẠi kẠ lẠch sẠ cẠa LưẠng Hà cẠ đẠi: 10 2. Accat 10 4. CẠ Babilon 10 5. Tân Babilon và Ba Tư 11 III- NhẠng thành tẠu: 11 2. Tôn giáo 11 3. Nhà nưẠc và pháp luẠt 12 4. NghẠ thuẠt, kiẠn trúc 12 5. Khoa hẠc tẠ nhiên 12 I- ĐẠa lý và dân cư: 12 II- Các thẠi kẠ lẠch sẠ cẠa Ạn ĐẠ cẠ đẠi: 13 III- NhẠng thành tẠu: 14 2. NghẠ thuẠt 15 3. Khoa hẠc tẠ nhiên 15 Nhân đậ -Tập đậ Nguyên nhân cốa số khố là dốc tốc lòng ham muốn 15 VĂN MINH TRUNG QUẠC CẠ ĐẠI 16 I- ĐẠa lý và dân cư: 16 II- Các thẠi kẠ lẠch sẠ cẠa Trung QuẠc cẠ đẠi: 17 III- NhẠng thành tẠu: 18 2. SẠ hẠc 19 3. Khoa hẠc tẠ nhiên và kĩ thuẠt 19 4. HẠi hẠa, điêu khẠc, kiẠn trúc 19 5. Tư tưẠng, tôn giáo 19 VĂN MINH HY LẠP CẠ ĐẠI 21 I- ĐẠa lý và dân cư: 21 II- Các thẠi kẠ lẠch sẠ cẠa Hy LẠp cẠ đẠi: 22 III- NhẠng thành tẠu: 23 1. ChẠ viẠt, văn hẠc 24 2. SẠ hẠc 24 3. KiẠn trúc, điêu khẠc 24 2
- 4. Khoa hẠc tẠ nhiên 24 5. Y hẠc 24 6. TriẠt hẠc 25 7. LuẠt pháp và tẠ chẠc nhà nưẠc 25 VĂN MINH LA MÃ CẠ ĐẠI 25 I- ĐẠa lý và dân cư: 25 II- Các thẠi kẠ lẠch sẠ cẠa La Mã cẠ đẠi: 25 2. ThẠi kì quân chẠ 26 III- NhẠng thành tẠu: 27 1. ChẠ viẠt, văn hẠc 27 2. SẠ hẠc 27 3. TriẠt hẠc 27 4. LuẠt pháp 28 5. Khoa hẠc tẠ nhiên 28 6. Y hẠc 28 7. KiẠn trúc, điêu khẠc 28 8. Tôn giáo 28 VĂN MINH TÂY ÂU THẠI TRUNG ĐẠI 29 I- Hoàn cẠnh lẠch sẠ: 29 2. SẠ hình thành và phát triẠn cẠa chẠ đẠ phong kiẠn 29 3. Vai trò và thẠ lẠc cẠa giáo hẠi La Mã 30 II- Văn hoá Tây Âu tẠ thẠ kẠ V đẠn thẠ kẠ X: 31 III- Văn hoá Tây Âu tẠ thẠ kẠ XI đẠn thẠ kẠ XIV: 32 1. SẠ ra đẠi cẠa các trưẠng đẠi hẠc 32 2. Văn hẠc 32 3. TriẠt hẠc kinh viẠn 33 4. NghẠ thuẠt kiẠn trúc 33 IV- Văn hoá Tây ÂU thẠi kẠ PhẠc Hưng: 34 2. NhẠng thành tẠu tiêu biẠu 34 3. NẠi dung tư tưẠng 35 4. Ý nghĩa 36 V- SẠ tiẠn bẠ vẠ khoa hẠc kẠ thuẠt: 36 VI- SẠ ra đẠi cẠa đẠo Tin Lành: 36 2. Phong trào cẠi cách tôn giáo và sẠ ra đẠi cẠa đẠo Tin lành 37 SẠ XUẠT HIẠN NẠN VĂN MINH CÔNG NGHIẠP 38 I- ĐiẠu kiẠn ra đẠi cẠa nẠn văn minh công nghiẠp: 38 II- CuẠc cách mẠng công nghiẠp: 41 2. NhẠng thàng tẠu cẠa Cách mẠng công nghiẠp 41 3. NhẠng hẠ quẠ cẠa cách mẠng công nghiẠp 42 III- NhẠng phát minh KHKT và hẠc thuyẠt chính trẠ thẠi cẠn đẠi: 42 2. NhẠng phát minh khoa hẠc, kĩ thuẠt nẠi bẠt trong thẠ kẠ XIX 42 3. NhẠng hẠc thuyẠt chính trẠ thẠi cẠn đẠi 43 4. NhẠng thành tẠu vẠ văn hẠc nghẠ thuẠt 45 VĂN MINH THẠ GIẠI THẠ KẠ XX 46 I- Văn minh thẠ giẠi nẠa đẠu thẠ kẠ XX: 46 3
- 2. NhẠng thành tẠu chẠ yẠu trong công cuẠc xây dẠng CNXH Ạ Liên Xô 46 3. NhẠng tiẠn bẠ cẠa khoa hẠc kĩ thuẠt nẠa đẠu thẠ kẠ XX 47 II- ChiẠn tranh thẠ giẠi và sẠ phá hoẠi văn minh nhân loẠi: 47 III- Văn minh thẠ giẠi nẠa sau thẠ kẠ XX: 48 2. NhẠng thành tẠu cẠa cách mẠng khoa hẠc công nghẠ nẠa sau thẠ kẠ XX 49 4
- LỜI DẪN 1- Khái niệm văn minh: Văn minh là trạng thái tiến bộ về cả hai mặt vật chất và tinh thần của xã hội loài người, tức là trạng thái phát triển cao của nền văn hóa. Trái với văn minh là dã man. Ví dụ: văn minh Phương Đông, văn minh Hy Lạp Chữ văn minh trong tiếng Pháp là civilisation, trong tiếng Anh là civilization, còn có nghĩa là hoạt động khai hóa làm thoát khỏi trạng thái nguyên thủy. Như vậy, khi định nghĩa văn minh, người ta đã đề cập đến một khái niệm mới, đó là văn hóa. Vậy văn hóa là gì? Văn hóa là một từ tiếng Hán, do Lưu Hướng, người thời Tây Hán nêu ra đầu tiên. Nhưng lúc bấy giờ, hai chữ văn hóa có nghĩa là “dùng văn để hóa”, nói một cách khác, văn hóa tức là giáo hóa. Đến thời cận đại, nghĩa của chữ văn hóa có phần khác trước. Nguyên là, chữ văn hóa trong tiếng Anh và tiếng Pháp là culture. Chữ này có nguồn gốc từ chữ La tinh cultura nghĩa là trồng trọt, cư trú, luyện tập, lưu tâm Đến giữa thế kỉ XIX, do sự phát triển của các khoa nhân loại học, xã hội học, dân tộc học , khái niệm văn hóa đã thay đổi. Người đầu tiên đưa ra định nghĩa mới về văn hóa là Taylor, nhà nhân loại học đầu tiên của nước Anh, ông nói: “Văn hóa là một tổng thể phức tạp bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật phong tục và cả những năng lực, thói quen mà con người đạt được trong xã hội”. Sau đó, các học giả đã đua nhau đưa ra những định nghĩa về văn hóa. Trên cơ sở ấy, người Nhật Bản đã dùng hai chữ văn hóa để dịch chữ culture của phương Tây, và do đó, chữ văn hóa mới có nghĩa như ngày nay. Hiện nay, đa số học giả cho rằng, văn hóa là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. Như vậy, văn hóa cùng xuất hiện đồng thời với loài người. Khi con người biết chế tạo ra công cụ đá cũng là khi họ bắt đầu sáng tạo ra văn hóa. Dần dần, ngoài văn hóa vật chất, họ còn sáng tạo ra nghệ thuật, tôn giáo Trên cơ sở nền văn hóa nguyên thủy, đến giai đoạn nhất định, loài người mới tiến vào thời kì văn minh. Như thế, văn hóa và văn minh đều là những giá trị vật chất và tinh thần do loài người sáng tạo ra trong tiến trình lịch sử, nhưng văn hóa và văn minh khác nhau ở chỗ văn hóa là toàn bộ những giá trị mà loài người sáng tạo ra từ khi loài người ra đời đến nay, còn văn minh chỉ là những giá trị mà loài người sáng tạo ra trong giai đoạn phát triển cao của xã hội. Vậy thì giai đoạn phát triển cao đó là giai đoạn nào? Đó là giai đoạn có nhà nước. Thông thường vào thời kì thành lập nhà nước thì chữ viết cũng xuất hiện, do đó văn hóa có một bước phát triển nhảy vọt. Tuy nhiên, do hoàn cảnh cụ thể, có một số nơi, khi nhà nước ra đời vẫn chưa có chữ viết, nhưng đó là những trường hợp không điển hình. Liên quan tới khái niệm văn hóa và văn minh còn có khái niệm văn hiến. Trong bài Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi viết: “Xét như nước Đại Việt ta, thực là một nước văn hiến”. Vậy, văn hiến là gì? Khổng Tử nói: “Lễ của đời Hạ, ta có thể nói được, nhưng nước Kỉ (nước còn bảo tồn lễ của đời Hạ) không đủ chứng minh; lễ của đời Ân, ta có thể nói được nhưng nước Tống (nước còn bảo tồn lễ của đời Ân) không đủ chứng minh. Đó là vì văn hiến không đủ, nếu đủ thì ta có thể chứng minh.”. Như vậy, văn hiến là một thuật ngữ chỉ chung sử sách và các chế độ chính sách. Có sử sách tức là đã bước vào thời kì văn minh, do đó trước đây, dưới thời phong kiến, khi chưa có chữ văn minh với nghĩa như ngày nay, chữ văn hiến thực chất là văn minh. Như vậy, câu “Xét như nước Đại Việt ta thực là một nước văn hiến” có nghĩa là “Xét như nước Đại Việt ta thực là một nước văn minh”. Tóm lại, các khái niệm văn hóa, văn minh và văn hiến, ngoài những nghĩa riêng biệt không lẫn lộn được như đối với từng cá nhân, chỉ có thể nói trình độ văn hóa, không thể nói trình độ văn minh, ngược lại, đối với xã hội, chỉ có thể nói thời đại văn minh, không thể nói thời đại văn hóa, nói chung, ba thuật ngữ này có nghĩa rất gần nhau. Chỗ khác nhau là, văn minh là giai đoạn phát triển cao của văn hóa, còn 5
- văn minh và văn hiến khác nhau ở chỗ văn minh (civilisation) là một từ mới du nhập, còn văn hiến là một từ cổ ngày nay không dùng nữa. 2- Các nền văn minh lớn trên thế giới: Loài người ra đời cách đây hàng triệu năm, và từ đó loài người đã sáng tạo ra những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần. Nhưng mãi đến cuối thiên kỉ IV TCN, xã hội nguyên thủy bắt đầu tan rã ở Ai Cập, nhà nước bắt đầu ra đời, từ đó loài người mới bắt đầu bước vào thời kì văn minh. Trong thời cổ đại, tức là từ cuối thiên kỉ IV, đầu thiên kỉ III TCN, đến những thế kỉ trước sau CN, ở phương Đông tức là ở châu Á và ở Đông Bắc châu Phi có bốn trung tâm văn minh lớn, đó là Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ và Trung Quốc. Có một tình hình chung nổi bật là cả bốn trung tâm văn minh này đều nằm trên những vùng chảy qua của những con sông lớn. Đó là sông Nin ở Ai Cập, sông Ơphrat và sông Tigrơ ở Tây Á, sông Ấn (Indus) và sông Hằng (Gange) ở Ấn Độ, Hoàng Hà và Trường Giang ở Trung Quốc. Chính nhờ sự bồi đắp của những dòng sông lớn ấy nên đất đai ở những nơi này trở nên màu mỡ, nông nghiệp có điều kiện phát triển trong hoàn cảnh nông cụ còn thô sơ, dẫn đến sự xuất hiện sớm của nhà nước, do đó cư dân ở đây sớm bước vào xã hội văn minh, và hơn thế nữa đã sáng tạo nên những nền văn minh vô cùng rực rỡ. Muộn hơn một ít, ở phương Tây đã xuất hiện nền văn minh của Hy Lạp cổ đại. Nền văn minh Hy Lạp có cơ sở đầu tiên từ thiên kỉ III TCN, nhưng tiêu biểu cho nền văn minh Hy Lạp là những thành tựu từ khoảng thế kỉ VII TCN trở về sau. Đến thế kỉ VI TCN, nhà nước La Mã bắt đầu thành lập. Kế thừa và phát triển văn minh Hy Lạp, La Mã trở thành trung tâm văn minh thứ hai ở phương Tây. Đến thế kỉ II TCN, La Mã chinh phục Hy Lạp và tiếp đó chinh phục các nước chịu ảnh hưởng văn hóa Hy Lạp ở phương Đông, trở thành đế quốc rộng lớn, hùng mạnh, duy nhất ở phương Tây. Văn minh La Mã vốn chịu ảnh hưởng của văn minh Hy Lạp, vốn có cùng một phong cách, giờ đây lại hòa đồng làm một, nên hai nền văn minh này được gọi chung là văn minh Hy-La. Văn minh Hy-La vô cùng xán lạn, là cơ sở của văn minh châu Âu sau này. Nhưng sau khi đế quốc Tây La Mã diệt vong, nền văn minh đó bị lụi tàn, mãi đến thế kỉ VI, văn minh phương Tây mới bắt đầu được phục hưng và từ đó mới phát triển mạnh mẽ và liên tục cho đến ngày nay. Như vậy, trên thế giới có hai khu vực văn minh lớn: phương Đông và phương Tây. Thời cổ đại, phương Đông có bốn trung tâm văn minh là Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ và Trung Quốc. Thời trung đại, cả Tây Á và Ai Cập đều nằm trong bản đồ đế quốc Arập nên ở phương Đông chỉ còn lại ba trung tâm văn minh lớn ở Arập, Ấn Độ và Trung Quốc. Trong các nền văn minh ấy, văn minh Ấn Độ và Trung Quốc được phát triển liên tục trong tiến trình lịch sử. Ngoài những trung tâm văn minh lớn còn có những nền văn minh của các quốc gia nhỏ và của từng thời kì lịch sử như nền văn minh sông Hồng, nền văn minh Đại Việt Ở phương Tây, thời cổ đại chỉ có nền văn minh Hy-La, đến thời trung đại cũng chỉ có một trung tâm văn minh mà chủ yếu là Tây Âu. Ngoài những nền văn minh ở lục địa Á, Âu, Phi, ở châu Mỹ, trước khi bị người da trắng chinh phục, tại Mêhicô và Pêru ngày nay đã từng tồn tại nền văn minh của người Maya (Mayas), Adơtec (Aztèque) và Inca (Incas). Đến thời cận đại, do sự tiến bộ nhanh chóng về khoa học kĩ thuật, nhiều nước phương Tây đã trở thành những quốc gia phát triển về kinh tế và hùng mạnh về quân sự. Dựa vào ưu thế đó, các nước này đua nhau chinh phục thế giới. Cùng với việc biến hầu hết các nước ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ La tinh thành thuộc địa của các cường quốc châu Âu, văn minh phương Tây đã truyền bá khắp thế giới. Tuy trong lịch sử, trên thế giới đã tồn tại những nền văn minh như vậy, nhưng những nền văn minh ấy không phải hoàn toàn biệt lập với nhau. Thông qua các hoạt động như chiến tranh, buôn bán, truyền giáo , các nền văn minh ấy đã được tiếp xúc với nhau, do đó đã học tập lẫn nhau. Nhiều thành tựu 6
- của văn minh Trung Quốc, Ấn Độ và Arập không những đã truyền bá cho nhau mà còn truyền sang Tây Âu. Ngược lại, Ấn Độ và Tây Á cũng đã tiếp thu nhiều yếu tố của văn minh Hy Lạp. Đến thời trung đại, trước thế kỉ XVI, phương Tây vẫn lạc hậu hơn phương Đông, do đó phương Tây đã học tập rất nhiều phát minh quan trọng của phương Đông như chữ số, toán học, y học, kĩ thuật làm giấy, nghề in, thuốc súng, la bàn, thậm chí cả phong cách giao tiếp và nếp sống văn minh. Chính những thành tựu đó đã góp phần rất quan trọng vào việc thúc đẩy sự phát triển rất nhanh chóng của nền văn minh phương Tây. Nội dung của lịch sử văn minh bao gồm trình độ phát triển kinh tế, quan hệ xã hội, hôn nhân, gia đình, phong tục, y phục, nhà cửa cư trú cho đến thể chế chính trị và các thành tựu về văn hóa tinh thần như chữ viết, văn học, sử học, tư tưởng, nghệ thuật, luật pháp, khoa học, kĩ thuật, giáo dục, tôn giáo song ở đây chỉ giới thiệu những thành tựu chủ yếu về văn hóa tinh thần, chứ không trình bày dàn trải tất cả mọi vấn đề của văn minh. VĂN MINH AI CẬP CỔ ĐẠI I- Địa lý và dân cư: Ai Cập ở vùng Đông Bắc châu Phi, nằm dọc theo vùng hạ lưu của lưu vực sông Nin, sông Nin bắt nguồn từ vùng xích đạo của châu Phi, dài 6700 km, nhưng phần chảy qua Ai Cập chỉ dài 700 km. Miền đất đai do sông Nin bồi đắp chỉ rộng 15-25 km, ở phía Bắc có nơi rộng đến 50 km vì ở đây sông Nin chia thành nhiều nhánh trước khi đổ ra biển. Hàng năm, từ tháng 6 đến tháng 11, nước sông Nin dâng cao đem theo một lượng phù sa rất phong phú bồi đắp cho vùng đồng bằng hai bên bờ ngày càng thêm màu mỡ. Chính vì vậy, nên kinh tế ở đây phát triển sớm tạo điều kiện cho Ai Cập có thể bước vào xã hội văn minh sớm nhất thế giới. Cũng chính vì vậy, nhà sử học Hy Lạp Hêrôđôt nói rằng: “Ai Cập là tặng phẩm của sông Nin”. Tuy vậy, về mặt địa hình, Ai Cập là một nước tương đối bị đóng kín, phía Bắc, là Địa Trung Hải, phía Đông giáp Biển Đỏ, phía Tây giáp sa mạc Xahara, phía Nam giáp Nubi, nơi giáp giới ấy là một vùng núi hiểm trở khó qua lại. Chỉ có ở Đông Bắc, vùng kênh đào Xuyê sau này, người Ai Cập cổ đại mới có thể qua lại với vùng Tây Á. Ai Cập chia làm hai miền rõ rệt theo dòng chảy của sông Nin từ Nam lên Bắc: miền Thượng Ai Cập (miền Nam) là một dải lưu vực hẹp, miền Hạ Ai Cập (miền Bắc) là một đồng bằng hình tam giác. Về tài nguyên thiên nhiên, Ai Cập có rất nhiêu loại đá quý như đá vôi, đá badan, đá hoa cương, đá mã não Kim loại thì có đồng, vàng, còn sắt thì phải đưa từ bên ngoài vào. Cư dân chủ yếu của Ai Cập ngày nay là người Arập, nhưng thời cổ đại, cư dân ở đây là người Libi, người da đen và có thể có cả người Xêmit di cư từ châu Á tới nữa. II- Các thời kỳ lịch sử của Ai Cập cổ đại: Nhà nước Ai Cập cổ đại ra đời từ cuối thiên niên kỉ IV TCN. Từ đó cho đến năm 525 TCN, theo cách phân chia của Manêtông, tác giả sách Lịch sử Ai Cập, sống vào thế kỉ III TCN, lịch sử Ai Cập cổ đại được chia thành 5 thời kì là Tảo vương quốc, Cổ vương quốc, Trung vương quốc, Tân vương quốc và Hậu kì vương quốc gồm tất cả 31 vương triều. 1. Thời kì Tảo vương quốc (khoảng 3200 - 3000 TCN) Vào khoảng nửa sau thiên niên kỉ IV TCN, do sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự phân hóa giàu nghèo, các công xã nông thôn đã liên hiệp lại thành những nhà nước nhỏ đầu tiên gọi là châu. Dần dần, những châu ấy hợp lại thành hai miền Thượng và Hạ Ai Cập. Tiếp đó, qua đấu tranh, hai miền Thượng và Hạ Ai Cập mới thống nhất thành nước Ai Cập. Từ khi nhà nước Ai Cập thống nhất ra đời cho đến khoảng năm 3000 TCN, ở Ai Cập đã trải qua hai vương triều là vương triều I và vương triều II và được gọi chung là thời Tảo vương quốc. Ngay từ thời kì này, người cổ Ai Cập đã biết sử dụng công cụ bằng đồng đỏ, biết dùng cày và dùng súc vật để kéo cày. Người đứng đầu nhà nước là một ông vua chuyên chế gọi là Pharaông. 7
- 2. Thời kì Cổ vương quốc (khoảng 3000 - 2200 TCN) Thời kì Cổ vương quốc bao gồm 8 vương triều, từ vương triều III đến vương triều X. Đầu thời Cổ vương quốc, chế độ tập quyền trung ương càng được củng cố, kinh tế cũng phát triển hơn trước. Trên cơ sở ấy, các Pharaông đã huy động sức người sức của để xây dựng cho mình những Kim tự tháp rất đồ sộ. Nhưng từ vương triều V, thế lực của chính quyền trung ương bắt đầu suy giảm, đến vương triều VII, nền thống nhất không duy trì được nữa. 3. Thời kì Trung vương quốc (khoảng 2200 - 1570 TCN) Thời kì Trung vương quốc bao gồm 7 vương triều, từ vương triều XI đến vương triều XVII, trong đó, thời kì thống trị của vương triều XI và vương triều XII là thời kì ổn định nhất. Nhưng đến năm 1750 TCN, ở Ai Cập đã nổ ra một cuộc khởi nghĩa của dân nghèo. Từ đó Ai Cập bị suy yếu. Đến năm 1710 TCN, miền Bắc Ai Cập bị người Híchxốt ở Palextin chinh phục và thống trị 140 năm. Trong thời gian ấy, miền Nam Ai Cập cũng phải thần phục vương triều ngoại tộc ấy. 4. Thời kì Tân vương quốc (1570 - khoảng 1100 TCN) Năm 1570 TCN, người Híchxốt bị đánh đuổi khỏi Ai Cập, đất nước lại được thống nhất, thời Tân vương quốc bắt đầu. Thời kì này gồm 3 vương triều, từ vương triều XVIII đến vương triều XX. Các vua đầu vương triều XVIII tích cực thi hành chính sách xâm lược bên ngoài đã chinh phục được Xyri, Phênixi, Palextin ở châu Á và Libi, Nubi ở châu Phi. Cuối vương triều XVIII, do thế lực của tầng lớp tăng lữ thờ thần Mặt trời Amôn phát triển quá mạnh, lấn át cả uy quyền của vua, vì vậy, để làm suy yếu thế lực của tầng lớp tăng lữ, vua Ichnatôn đã tiến hành một cuộc cải cách tôn giáo, nhưng chính sách cải cách này chỉ được thi hành một thời gian ngắn mà thôi. Về công cụ sản xuất, từ thời Trung vương quốc, đồng thau đã ra đời nhưng chất lượng còn kém và còn ít. Đến thời Tân vương quốc, đồng thau mới được sử dụng rộng rãi, đồng thời sắt đã bắt đầu xuất hiện nhưng còn rất hiếm. Sau vương triều XVIII, Ai Cập ngày càng suy yếu. 5. Ai Cập từ thế kỉ X - I TCN Từ thế kỉ X TCN, Ai Cập hết bị chia cắt lại bị ngoại tộc thống trị. Đặc biệt, từ năm 525 TCN, Ai Cập bị nhập vào đế quốc Ba Tư ở Tây Á. Năm 332 TCN, Ai Cập bị Alếchxăngđrơ ở Makêđônia chinh phục. Sau khi đế quốc Makêđônia tan rã, Ai Cập thuộc quyền thống trị của một vương triều Hy Lạp gọi là vương triều Ptôlêmê (305-30 TCN). Đến năm 30 TCN, Ai Cập thành một tỉnh của đế quốc La Mã. III- Những thành tựu: 1. Chữ viết, văn học Chữ viết Khoảng hơn 3000 nămTCN, người Ai Cập cổ đại đã sáng tạo ra chữ tượng hình. Muốn chỉ một vật gì thì họ vẽ những nét tiêu biểu của sự vật đó. Để diễn tả những khái niệm trừu tượng thì họ mượn ý. Thí dụ để diễn tả trạng thái khát thì họ vẽ ba làn sóng nước và cái đầu bò đang cúi xuống; để nói lên sự công bằng thì họ vẽ lông chim đà điểu (vì lông đà điểu hầu như dài bằng nhau). Từ chữ tượng hình, sau này người Ai Cập cổ đại đã hình thành ra hệ thống 24 chữ cái. Vào thiên niên kỉ II TCN, người Híchxốt đã học cách viết của người Ai Cập để ghi lại các ngôn ngữ của mình. Về sau này, loại chữ viết ấy lại ít nhiều ảnh hưởng tới người Phênixi và người Phênixi đã sáng tạo ra vần chữ cái A, B Những chữ tượng hình của người Ai Cập được khắc trên đá, viết trên da, nhưng nhiều nhất là được viết trên vỏ cây sậy papyrus. Đây là một loại “giấy” cổ xưa nhất, do vậy ngôn ngữ nhiều nước trên thế giới, giấy được gọi là papes, papier Năm 1822, một nhà ngôn ngữ học người Pháp là Sampôliông ( Champollion ) đã tìm cách đọc được thứ chữ này. Văn học Những tác phẩm tiêu biểu còn lại như Truyện hai anh em, Nói Thật và Nói Láo, Đối thoại của một người thất vọng với linh hồn của mình, Người nông phu biết nói những điều hay 2. Tôn giáo 8
- Người Ai Cập cổ đại theo đa thần giáo, họ thờ rất nhiều thần. Ban đầu, mỗi vùng thờ mỗi vị thần riêng của mình, chủ yếu là những vị thần tự nhiên. Đến thời kì thống nhất quốc gia, bên cạnh những vị thần riêng của mỗi địa phương còn có các vị thần chung như thần Mặt trời (Ra), thần sông Nin (Osiris). Người Ai Cập cổ tin rằng con người có hai phần: hồn và xác. Khi con người chết đi, linh hồn thoát ra ngoài nhưng có thể một lúc nào đó lại tìm về nơi xác (Họ tin rằng như khi bị ngất , hồn thoát ra ngoài tạm thời). Vì vậy những người giàu có tìm mọi cách để giữ gìn thể xác. Kĩ thuật ướp xác vì vậy cũng rất phát triển. 3. Kiến trúc điêu khắc Người Ai Cập cổ đại đã xây dựng rất nhiều đền đài, cung điện, nhưng nổi bật nhất phải kể đến là các kim tự tháp hùng vĩ, vĩnh cửu. Người thiết kế ra Kim tự tháp đầu tiên để làm nơi yên nghỉ cho các pharaon là Imhotép. Người ta đã phát hiện ra khoảng 70 Kim tự tháp lớn nhỏ khác nhau trong đó có 3 Kim tự tháp nổi tiếng nằm ở gần thủ đô Cairo. Lớn nhất là Kim tự tháp Kêôp (Kheops) cao tới 146m, đáy hinh vuông, mỗi cạnh tới 230m. Đã mấy ngàn năm qua các Kim tự tháp vẫn sừng sững với thời gian. Vì vậy người Ai Cập có câu “Tất cả mọi vật đều sợ thời gian, nhưng riêng thời gian phải nghiêng mình trước Kim tự tháp”. Ngoài việc xây dựng các lăng mộ, người Ai Cập cổ còn để lại ấn tượng cho đời sau qua các công trình điêu khắc. Đặc biệt nhất là tượng Nhân Sư (Sphinx) hùng vĩ ở gần Kim tự tháp Khephren. Bức tượng mình sư tử với gương mặt Khephren cao hơn 20m này có lẽ muốn thể hiện Khephren là chúa tể với trí khôn của con người và sức mạnh của sư tử. 4. Khoa học tự nhiên Thiên văn học Người Ai Cập cổ đã vẽ được bản đồ sao, họ đã xác định 12 cung hoàng đạo và sao Thuỷ,Kim, Hoả, Mộc, Thổ. Người Ai Cập cổ làm ra lịch dựa vào sự quan sát sao Lang (Sirius). Một năm của họ có 365 ngày, đó là khoảng cách giữa hai lần họ thấy sao Lang xuất hiện đúng đường chân trời. Họ chia một năm làm 3 mùa, mỗi mùa có 4 tháng, mỗi tháng có 30 ngày. Năm ngày còn lại được xếp vào cuối năm làm ngày lễ. Để chia thời gian trong ngày, họ đã chế ra đồng hồ mặt trời và đồng hồ nước. Toán học Do yêu cầu làm thủy lợi và xây dựng nên kiến thức toán học của người Ai Cập cổ cũng sớm được chú ý phát triển. Họ dùng hệ đếm cơ số 10. Họ rất thành thạo các phép tính cộng trừ, còn khi cần nhân và chia thì thực hiện bằng cách cộng trừ nhiều lần. Về hình học, họ đã tính được diện tích của các hình hình học đơn giản; đã biết trong một tam giác vuông thì bình phương cạnh huyền bằng tổng bình phương hai cạnh góc vuông. Pi của họ tính là 3,14 Y học Người Ai Cập cổ đã chia ra các chuyên khoa như khoa nội, ngoại , mắt, răng, dạ dày Họ đã biết giải phẫu và chữa bệnh bằng thảo mộc. VĂN MINH LƯỠNG HÀ CỔ ĐẠI I- Địa lý và dân cư: Lưỡng Hà (Mésopotamie) nghĩa là miền giữa hai sông, bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp mêđốt là ở giữa và pôtamốt là sông. Hai sông đó là sông Tigrơ ở phía Đông và Ơphrát ở phía Tây. Cả hai sông này đều bắt nguồn từ miền rừng núi Acmênia chảy qua lãnh thổ nước Irắc ngày nay rồi đổ ra vịnh Ba Tư (Pécxích). Về mùa xuân, tuyết ở cao nguyên Acmênia tan làm nước ở hai sông Tigrơ và Ơphrát dâng cao gây nên lũ lụt làm ngập cả một vùng rộng lớn. Nhưng chính nhờ nước lụt, đất đai ở đây không ngừng được bồi đắp và trở nên mầu mỡ. Lượng phù sa ở đây nhiều đến nỗi, qua mấy nghìn năm, cả một vùng biển rộng lớn ở cửa sông này đã trở thành đồng bằng, bờ biển của vịnh Ba Tư phải lùi xa gấn 200km. Cũng vì vậy, hai dòng sông Tigrơ và Ơphrát vốn đổ ra biển bằng hai cửa sông khác nhau đã nhập lại thành một dòng trước khi ra biển. Chính nhờ có đất đai phì nhiêu như vậy nên cũng như Ai Cập cổ đại, khi công cụ sản xuất còn tương đối thô sơ, kinh tế ở đây vẫn có điều kiện phát triển; do đó đã sớm bước vào xã hội văn minh. 9
- Trong khi Lưỡng Hà là một vùng màu mỡ thuận lợi cho cuộc sống của con người như vậy thì về địa hình, Lưỡng Hà là một vùng hoàn toàn để ngỏ ở mọi phía, không có những biên giới hiểm trở bảo vệ, vì vậy trong mấy ngàn năm lịch sử, vùng này đã trở thành nơi tranh giành của nhiều tộc người khác nhau, dẫn đến sự hưng vong của nhiều quốc gia hùng mạnh một thời. Về tài nguyên, Lưỡng Hà hiếm đá quý và kim loại, nhưng lại có một loại đất sét rất tốt, vì vậy, đất sét đã trở thành vật liệu chủ yếu của ngành kiến trúc, chất liệu để viết, thậm chí đất sét còn được đưa vào các truyện huyền thoại. Cư dân xưa nhất ở Lưỡng Hà là người Xume. Họ từ Trung Á di cư đến miền Nam Lưỡng Hà vào khoảng thiên kỉ IV TCN. Tại đây, họ đã lập nên nhiều thành bang như Ua, Êriđu, Lagát, Urúc Đến thiên kỉ III TCN, người Accát thuộc tộc Xêmit từ vùng thảo nguyên Xyri đến định cư ở miền Trung Lưỡng Hà. Tại đây họ đã lập nên quốc gia Accát nổi tiếng một thời. Cuối thiên kỉ III TCN, người Amôrít, một chi nhánh của người Xêmít cũng từ phía Tây tràn vào Lưỡng Hà. Chính họ đã thành lập quốc gia cổ Babilon nổi tiếng nhất trong lịch sử Lưỡng Hà cổ đại. Ngoài ra còn có nhiều tộc người khác ở vùng lân cận cũng tràn vào Lưỡng Hà. Các tộc người trước sau tới Lưỡng Hã lại đồng hóa với nhau làm cho thành phần cư dân ở đây hết sức phức tạp. II- Các thời kỳ lịch sử của Lưỡng Hà cổ đại: 1. Những nhà nước của người Xume Vào khoảng đầu thiên kỉ III TCN, ở miền Nam Lưỡng Hà, nơi cư trú của người Xume, do sự phát triển của lực lượng sản xuất, do sự phân hóa giàu nghèo, đã xuất hiện nhiều nhà nước nhỏ lấy một thành thị làm trung tâm gọi là những thành bang. Giữa các thành bang ấy thường diễn ra những cuộc đấu tranh để tranh giành đất đai và nguồn nước. Đến giữa thiên kỉ III, trong số các thành bang ở miền Nam Lưỡng Hà, nổi bật nhất là Lagát, nhưng sau đó không lâu, thành bang Umma ở phía Bắc đã đánh bại Lagát. Tiếp đó, Umma còn chinh phục được nhiều thành bang khác và thống nhất miền Nam Lưỡng Hà (cũng gọi là vùng Xume). 2. Accat Thành bang Accat do một chi nhánh người Xêmit thành lập ở phía Bắc vùng Xume. Đến thời vua Xacgôn (2369-2314 TCN), Accat trở thành một quốc gia hùng mạnh. Xacgôn đã tấn công và chinh phục được toàn bộ vùng Xume và như vậy lần đầu tiên đã thống nhất cả vùng Lưỡng Hà. Tiếp đó, Accat còn chiếm được các khu vực xung quanh thành lập một quốc gia lớn mạnh ở Tây Á. Xacgôn tự xưng là “vua của bốn phương”. Tuy vậy, sự hùng mạnh của Accat cũng không duy trì được lâu. Đến cuối thế kỉ XXIII TCN, Accat bị người Guti ở Đông Bắc chinh phục và thống trị trong một thời gian khá dài. 3. Vương triều III của Ua (2132-2024 TCN) Sau khi người Guti bị đánh đuổi, quyền thống trị ở Lưỡng Hà chuyển sang tay vương triều III của Ua, một thành bang cổ xưa của Xume. Phạm vi thống trị của vương triều này cũng rất rộng. Ua đã ban bố một bộ luật mà ngày nay đã phát hiện được một số đoạn. Đó là bộ luật cổ nhất trong lịch sử thế giới. Như vậy, dưới thời vương triều III, Ua đã trở thành một nước lớn mạnh ở Lưỡng Hà, nhưng đến cuối thế kỉ XXI TCN thì bị suy yếu và bị liên quân của Elam (một bộ tộc ở phía Đông) và Mari (một thành bang ở phía Bắc) đánh bại. 4. Cổ Babilon Babilon là một thành phố do người Amôrit thành lập ở trung tâm Lưỡng Hà. Trong thời kì đầu, Babilon còn tương đối yếu, nhưng đến nửa đầu thế kỉ XVIII TCN, dưới thời vua Hammurabi (1792-1750 TCN), Babilon trở thành quốc gia hùng mạnh nổi tiếng nhất trong lịch sử Lưỡng Hà cổ đại. Hammurabi đã lần lượt đánh bại các thành bang xung quanh, thống nhất được hầu hết vùng Lưỡng Hà. Trên cơ sở đó, ông đã xây dựng bộ máy nhà nước chuyên chế tập quyền trung ương. Đặc bìệt, ông đã ban hành một bộ luật gọi là bộ luật Hammurabi. Đây là một bộ luật cổ được giữ lại tương đối nguyên vẹn. 10
- Đến thời Babilon, kinh tế Lưỡng Hà có những tiến bộ rất đáng kể. Công cụ đồng thau được dùng phổ biến, sắt cũng đã xuất hiện nhưng còn tương đối hiếm. Cư dân Lưỡng Hà đă biết sử dụng cày có lưỡi đồng thau do bò kéo. Hơn nữa, họ còn biết sử dụng loại cày có lắp bộ phận gieo hạt. Như vậy dưới thời Hammurabi, Babilon không những được ổn định vê chính trị mà kinh tế và văn hóa cũng rất phát triển. Nhưng sau khi Hammurabi chết, Babilon bị suy yếu dần. Trong vòng 1000 năm, tình hình Babilon rất rối ren, đồng thời nhiều lần bị ngoại tộc tấn công và thống trị. Đến năm 732 TCN, Babilon bị một quốc gia hùng mạnh ở phía Bắc là Atxiri xâm chiếm, đến năm 729 TCN thì trở thành một bộ phận của Atxiri. 5. Tân Babilon và Ba Tư Từ giữa thế kỉ VII TCN, Atxiri bắt đấu suy yếu. Nhân tình hình ấy, năm 626 TCN, một viên tướng người Canđê, một chi nhánh của tộc Xêmit tên là Nabôpôlaxa, người được cử làm Tổng đốc của Atxiri ở miền Nam Lưỡng Hà đã tuyên bố Babilon độc lập. Để phân biệt với Cổ Babilon, quốc gia này được gọi là Tân Babilon. Ngay sau đó, Tân Babilon liên minh với nước Mêđi ở phía Đông Bắc cùng tấn công Atxiri. Năm 605, Atxiri diệt vong. Đất đai của Atxiri bị chia làm hai phần: nửa phía Bắc thuộc về Mêđi, nửa phía Nam thuộc về Babilon. Để tăng thêm tình hữu nghị giữa hai nước đồng minh, Nabôpôlaxa đã hỏi công chúa Mêđi cho con trai của mình là Nabusôđênôxo. Năm 604 TCN, Nabôpôlaxa chết, Nabuxôđônôxo lên nối ngôi. Đây là thời ki cường thịnh nhất của Tân Babilon. Chính Nabusôđônôxo đã ra lệnh xây vườn hoa trên không nổi tiếng. Năm 562 TCN, Nabusôđônôxo chết. Từ đó tình hình nội bộ Tân Babilon không được ổn định. Trong khi đó, ở Iran bắt đầu xuất hiện nước Ba Tư hùng mạnh. Năm 550 TCN, Ba Tư đánh bại Mêđi, Babilon cũng trở thành mục tiêu chinh phục của Ba Tư. Năm 538 TCN, quân Ba Tư tấn công và chiếm được thành Babilon. Tân Babilon cũng trở thành một bộ phận của đế quốc Ba Tư. Năm 328 TCN, đế quốc Ba Tư bị Alêchxăngđrơ Makêđônia tiêu diệt. Cả Tây Á bị nhập vào đế quốc Makêđônia. Sau khi Alêchxăngđrơ chết, đế quốc Makêđônia bị phân chia, Babilon nằm trong vương quốc của Xêlơcut, một tướng của Alêchxăngđrơ. III- Những thành tựu: 1. Chữ viết, văn học Chữ viết Từ cuối thiên niên kỉ IV đầu thiên niên kỉ III TCN, người Lưỡng Hà đã sáng tạo ra chữ tượng hình. Đầu tiên chữ viết của họ là những hình vẽ, về sau họ đơn giản thành những nét vạch có ý nghĩa tượng trưng cho một hình vẽ nào đó. Họ thường dùng đầu cây sậy vót nhọn vạch lên những tấm đất sét còn mềm để lại dấu vết như hình những chiếc đinh. Vì vậy người ta hay gọi là chữ hình đinh, chữ hình góc, hay chữ tiết hình. Ngày nay, người ta còn lưu giữ được khoảng 2200 tấm sách bằng đất sét ở nhà bảo tàng của thành phố Ninivơ (kinh đô của đế quốc Atxiri xưa kia). Chữ tiết hình do người Sumer phát minh ra đầu tiên, về sau nhiều dân tộc ở Lưỡng Hà đều sử dụng và có biến đổi. Chữ tiết hình trở thành thứ chữ để giao tiếp giữa các dân tộc ở Tây Á thời cổ đại. Về sau, người Phênixi, một dân tộc chuyên buôn bán quanh Địa Trung Hải thời đó đã dựa vào chữ hình góc của người Lưỡng Hà, một phần chữ tượng hình của người Ai Cập cổ đã đặt ra hệ thống chữ cái A, B Từ chữ Phênixi đã hình thành ra chữ Hy Lạp cổ. Từ chữ Hy Lạp cổ đã hình thành ra chữ Latinh và chữ Slavơ và từ đó hình thành nên chữ viết của nhiều dân tộc trên thế giới ngày nay. Văn học Các thể loại văn học chính ở Lưỡng Hà thời cổ thường là các thần thoại, anh hùng ca. Tiêu biểu là các truyện Khai thiên lập địa, Nạn hồng thuỷ, Gingamet. 2. Tôn giáo Thời kì đầu người Lưỡng Hà theo đa thần giáo, mỗi nơi có một vị thần riêng. Có nơi cùng một lúc thời nhiều thần. Họ thời các lực lượng tự nhiên như thần Trời (Anu), thần Mặt Trời (Samat), thần Đất (Enlin), thần Biển (Ea), thần Ái Tình (Istaro) Về sau, cùng với sự xác lập quyền lực tối cao của hoàng 11
- đế, thần Macđúc (Mardouk) đã trở thành vị thần chung cho toàn đế quốc. Thần Samat được coi là con của thần Mặt Trăng (vì người Sumer cho rằng ngày là do đêm sinh ra), Samat chuyên chịu trách nhiệm về tư pháp (Trên cột đá ghi bộ luật của Hammurabi có khắc hình thần Samat đang trao bộ luật cho Hamurabi để vua thay thần trị dân). 3. Nhà nước và pháp luật Nhà nước ban đầu của người Sumer được tổ chức theo chế độ quân chủ chuyên chế, đứng đầu là nhà vua được gọi là Patêsi nắm tất cả các quyền lực tối cao, lời nói của vua là luật pháp. Đến thời vương quốc Hammurabi thì tổ chức bộ máy nhà nước tương đối hoàn thiện. Thế kỉ XVIII TCN, dưới thời Hammrabi ông cũng cho ra đời một bộ luật, bộ luật này gồm 282 điều khoản, được khắc trên một tấm đá cao 2m25, rộng 2m. Đây là bộ luật cổ nhất thế giới mà con người ngày nay biết được. 4. Nghệ thuật, kiến trúc Ở Lưỡng Hà ít gỗ đã, các công trình kiến trúc ở đây phần lớn được xây dựng bằng gạch nhưng cũng rất nguy nga, hùng vĩ. Nổi bật nhất trong nghệ thuật kiến trúc Lưỡng Hà là thành cổ Babilon và vườn treo Babilon được xây dựng vào khoảng thế kỉ VII TCN. Thành Babilon (ở phía nam Batđa ngày nay)được xây bằng gạch có chu vi 16km, cao 30m, dày từ 6m đến 8,5m và có 7 cửa. Cổng thành Isơta được bọc đồng và trang trí bằng những bức phù điêu rất sinh động. Vườn treo Babilon được người Hy Lạp cổ đại xếp vào một trong bảy kì quan thế giới. Đây là một khu vườn được xây vươn lên trời xanh, cao 77m và gồm có 4 tầng. Trên mỗi tầng có trồng những loại hoa thơm cỏ lạ sưu tầm từ Ai Cập tới Ấn Độ. Nước chảy róc rách, cây xanh mát mắt, chim hót véo von. Tây Á cảnh quan phần lớn là núi và sa mạc, những đoàn lái buôn trên “con đường tơ lụa” khi đi đến đây thì thật là gặp cảnh thiên đường dưới hạ giới. 5. Khoa học tự nhiên Toán học Ban đầu người Sumer sử dụng hệ đếm cơ số 5, về sau nhiều tộc người ở Lưỡng Hà sử dụng đồng thời cả cơ số 10 và cơ số 60. Ngày nay, chúng ta còn chịu ảnh hưởng của họ qua việc chia độ trên vòng tròn và chia thời gian. Hình học Người Lưỡng Hà cổ đã biết tính diện tích các hình hình học đơn giản, đã biết về quan hệ giữa 3 cạnh trong một tam giác vuông. Họ đã biết tính phân số, lũy thừa, khai căn bậc 2 và căn bậc 3; đặc biệt là họ đã giải được phương trình 3 ẩn số. Thiên văn học Người Lưỡng Hà cổ lập ra khá nhiều đài để quan sát thiên văn, các nhà thiên văn hồi đó còn là các nhà chiêm tinh học. Họ cũng chia bầu trời làm 12 cung hoàng đạo, đã tính trước được nhật thực và nguyệt thực. Họ làm ra lịch dựa vào Mặt Trăng, một năm của họ cứ một tháng 29 ngày lại một tháng 30 ngày. Như vậy sau 12 tháng chỉ có 354 ngày, còn thiếu so với năm dương lịch. Để khắc phục hạn chế này, người ta đã biết thêm vào tháng nhuận. Y học Người Lưỡng Hà đã biết cách chữa trị các bệnh khác nhau về tiêu hóa, thần kinh, hô hấp và đặc biệt là bệnh về mắt. Y học đã chia thành nội khoa, ngoại khoa, họ cũng đã biết giải phẫu. Thần bảo trợ cho Y học là thần Ninghizita với hình tượng con rắn quấn quanh cây gậy mà ngày nay ngành y ở một số nước vẫn lấy làm biểu tượng. VĂN MINH ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI I- Địa lý và dân cư: Ấn Độ là một bán đảo ở Nam Á, từ Đông Bắc đến Tây Bắc có núi chắn ngang, trong đó có dãy Himalaya nổi tiếng. Ấn Độ chia làm hai miền Nam, Bắc lấy dãy núi Vinđya làm ranh giới. Miền Bắc Ấn Độ có hai con sông lớn là sông Ấn (Indus) và sông Hằng (Gange). Sông Ấn chia làm 5 nhánh, nên đồng bằng lưu vực sông Ấn được gọi là vùng Pungiáp (vùng Năm sông). Tên nước Ấn Độ là gọi theo tên con sông này. Sông Hằng ở phía Đông được coi là một dòng sông thiêng. Từ xưa nhân dân Ấn Độ thường đến khúc sông ở thành phố Varanadi (Bênarét) để cử hành lễ tắm 12
- mang tính chất tôn giáo. Cả hai dòng sông này đã bồi đắp thành hai đồng bằng màu mỡ ở miền Bắc Ấn Độ vì vậy nơi đây đã trở thành cái nôi của nền văn minh của đất nước này. Cư dân Ấn Độ, về thành phần chủng tộc, gồm hai loại chính: người Đraviđa chủ yếu cư trú ở miền Nam và người Arya chủ yếu cư trú ở miền Bắc. Ngoài ra còn có nhiều tộc khác như người Hy Lạp, người Hung Nô, người Arập Họ dần dần đồng hóa với các thành phần cư dân khác, do đó vấn đề bộ tộc ở Ấn Độ là một vấn đề hết sức phức tạp. Thời cổ trung đại, phạm vi địa lí của nước Ấn Độ bao gồm cả các nước Pakixtan, Bănglađét và Nêpan ngày nay. II- Các thời kỳ lịch sử của Ấn Độ cổ đại: 1. Thời kì văn minh khu vực sông Ấn (từ đầu thiên kỉ III đến giữa thiên kỉ II TCN). Từ khoảng đầu thiên kỉ III TCN, nhà nước Ấn Độ đã ra đời, nhưng cả giai đoạn từ đó cho đến khoảng giữa thiên kỉ lI TCN, trước đây chưa được biết đến. Mãi đến năm 1920 và 1921, nhờ việc phát hiện ra hai thành phố Harappa và Môhenjô Đarô cũng rất nhiều hiện vật bị chôn vùi dưới đất ở vùng lưu vực sông Ấn, người ta mới biết được thời kì lịch sử này. Những hiện vật khảo cổ học chỉ giúp người ta biết được tình hình phát triển của các ngành kinh tế và văn hóa, qua đó có thể suy ra đây là thời kì đã có nhà nước, chứ chưa biết được lịch sử cụ thể, vì vậy người ta gọi thời kì này là thời kì văn hóa Harappa hoặc thời kì văn minh lưu vực sông Ấn. 2. Thời kì Vêda (từ giữa thiên kỉ II đến giữa thiên kỉ I TCN). Thời kì này, lịch sử Ấn Độ được phản ánh trong các tập Vêđa nên gọi là thời Vêđa. Vêđa vốn là những tác phẩm văn học, gồm có 4 tập là: Rich Vêđa, Xama Vêđa, Atácva Vêđa và Yagiva Vêđa, trong đó Rich Vêđa được sáng tác vào khoảng giữa thiên kỉ II đến cuối thiên kỉ II TCN, còn 3 tập Vêđa khác thì được sáng tác vào khoảng đầu thiên kỉ I TCN. Chủ nhân của thời kì Vêđa là người Arya (nghĩa là “Người cao quý”) mới di cư từ Trung Á vào Ấn Độ. Địa bàn sinh sống của họ trong thời kì này chủ yếu là vùng lưu vực sông Hằng. Trong giai đoạn đầu của thời Vêđa, người Arya đang sống trong giai đoạn tan rã của xã hội nguyên thủy đến khoảng cuối thiên kỉ II TCN, họ mới tiến vào xã hội có nhà nước. Chính trong thời kì này, ở Ấn Độ đã xuất hiện hai vấn đề có ảnh hưởng rất quan trọng và lâu dài trong xã hội nước này, đó là chế độ đẳng cấp (varna) và đạo Bàlamôn. 3. Ấn Độ từ thế kỉ VI TCN đến thế kỉ XII. - Các quốc gia ở miền Bắc Ấn Độ và sự xâm lược của Alếchxăngđrơ Makêđônia. Bắt đầu từ thế kỉ VI TCN, Ấn Độ mới có sử sách ghi chép về tình hình chính trị của đất nước mình. Lúc bấy giờ ở miền Bắc Ấn Độ có 16 nước, trong đó mạnh nhất là nước Magađa hạ lưu sông Hằng. Trong số các nước như ở Tây Bắc Ấn Độ, chỉ có nước Po là tương đối lớn. Năm 327 TCN, sau khi tiêu diệt Ba Tư, quân đội Makêđônia do Alếchxăngđrơ chỉ huy đã tấn công Ấn Độ. Quân đội của nước họ chiến đấu rất dũng cảm nhưng cuối cùng bị thất bại. Alếchxăngđrơ định tiến sang phía Đông tấn công nước Magađa nhưng quân sĩ đã quá mệt mỏi sau một cuộc trường chinh nhiều năm nên phải rút lui, chỉ để lại một lực lượng như chiếm đóng ở hai cứ điểm đã chiếm được mà thôi. - Vương triều Môrya (321-187 TCN). Ngay sau khi Alêchxăngđrơ rút lui, ở Ấn Độ đã dấy lên phong trào đấu tranh giải phóng chống lại sự chiếm đóng của quân Makêđônia. Thủ lĩnh của phong trào này là Sanđragupta, biệt hiệu là Môrya (chim công). Quân Makêđônia bị đuổi khỏi Ấn Độ, Sanđragupta làm chủ được cả vùng Pungiáp. Tiếp đó, ông tiến quân về phía Đông giành được ngôi vua ở Magađa; lập nên một triều đại mới gọi là vương triều Môrya, triều đại huy hoàng nhất trong lịch sử Ấn Độ cổ đại. Đến thời Axôca (273-236 TCN), vương triều Môrya đạt đến giai đoạn cường thịnh nhất. Đạo Phật ra đời từ khoảng thế kỉ V TCN, đến thời kì này được phát triển nhanh chóng và trở thành quốc giáo. Sau 13
- khi Axôca chết, vương triều Môrya suy sụp nhanh chóng, nước Magađa thống nhất dần dần tan rã, đến năm 28 TCN thì diệt vong. - Nước Cusan. Trong khi tình hình chia cắt ở Ấn Độ đang diễn ra trầm trọng thì vào thế kỉ I, tộc Cusan (cùng một huyết thống với người Tuốc) từ Trung Á tràn vào chiếm được miền Tây Bắc Ấn Độ lập thành một nước tương đối lớn. Vua nước Cusan lúc bấy giờ là Canixca (78-123) cũng là một người rất tôn sùng đạo Phật nên thời kì này Phật giáo cũng rất hưng thịnh. Sau khi Canixca chết, nước Cusan ngày càng suy yếu, lãnh thổ chỉ còn lại vùng Pungiáp và tồn tại đến thế kỉ V thì diệt vong. - Vương triều Gupta và vương triều Hácsa. Trong thế kỉ III, Ấn Độ lại bị chia cắt trầm trọng. Năm 320, vương triều Gupta được thành lập, miền Bắc và một phần miền Trung Ấn Độ tạm thời thống nhất một thời gian. Từ năm 500-528, phần lớn miền Bắc Ấn Độ bị người Eptalil xâm chiếm và thống trị, đến năm 535, triều Gupta diệt vong. Năm 606, vua Hácsa lại dựng lên một vương triều tương đối hùng mạnh ở miền Bắc Ấn Độ. Chính trong thời kì này, nhà sư Huyền Trang của Trung Quốc đã sang Ấn Độ để tìm kinh Phật. Năm 648, Hácsa chết, quốc gia hùng mạnh do ông dựng lên cũng tan rã. Từ đó cho đến thế kỉ XII, Ấn Độ bị chia cắt càng trầm trọng và nhiều lần bị ngoại tộc xâm nhập. Đặc biệt từ đầu thế kỉ XI, Ấn Độ thường bị các vương triều Hồi giáo ở Ápganixtan tấn công và đến năm 1200, toàn bộ miền Bắc Ấn Độ bị nhập vào Ápganixtan. 4. Ấn Độ từ thế kỉ XIII - XIX. - Thời kì Xuntan Đêli (1206-1526). Năm 1206, viên Tổng đốc của Ápganixtan ở miền Bắc Ấn Độ đã tách miền Bắc Ấn Độ thành một nước riêng tự mình làm Xuntan (vua), đóng đô ở Đêli, gọi là nước Xuntan Đêli (vương quốc Hồi giáo Đêli). Từ đó đến năm 1526, ở miền Bắc Ấn Độ đã thay đổi đến 5 vương triều, nhưng đều do người ngoại tộc theo Hồi giáo thành lập, đồng thời đều đóng đô ở Đêli nên thời kì này gọi là thời kì Xuntan Đêli. - Thời kì Môgôn (1526-1857). Nước Mông Cổ do Thành Cát Tư Hãn thành lập năm 1206. Sau khi Thành Cát Tư Hãn chết (1227), đế quốc Mông Cổ chia thành nhiều nước. Dòng dõi của người Mông Cổ ở Trung Á đều Tuốc hóa và đều theo đạo Hồi. Từ thế kỉ XIII, người Mông Cổ ở Trung Á nhiều lần tấn công Ấn Độ. Năm 1526, họ chiếm được Đêli thành lập vương triều mới gọi là vương triều Môgôn (Mông Cổ). Từ giữa thế kỉ XVIII, thực dân Anh bắt đầu chinh phục Ấn Độ, đến năm 1849, Ấn Độ hoàn toàn biến thành thuộc địa của Anh, vương triều Môgôn đến năm 1857 bị diệt vong. III- Những thành tựu: 1. Chữ viết, văn học Chữ viết Thời đại Harappa-Môhenjô Đarô, ở miền Bắc Ấn đã xuất hiện một loại chữ cổ mà ngày nay người ta còn lưu giữ được khoảng 3000 con dấu có khắc những kí hiệu đồ họa. Thế kỉ VII TCN, ở đây đã xuất hiện chữ Brami, ngày nay còn khoảng 30 bảng đá có khắc loại chữ này. Trên cơ sở chữ Brami, thế kỉ V TCN ở Ấn Độ lại xuất hiện chữ Sanscrit, đây là cơ sở của nhiều loại chữ viết ở Ấn Độ và Đông Nam Á sau này. Văn học Hai tác phẩm văn học nổi bật thời cổ đại là Mahabharata và Ramayana. Mahabharata là bản trường ca gồm 220 000 câu thơ. Bản trường ca này nói về một cuộc chiến tranh giữa các con cháu Bharata. Bản trường ca này có thể coi là một bộ “bách khoa toàn thư” phản ánh mọi mặt về đời sống xã hội Ấn Độ thời đó. Ramayana là một bộ sử thi dài 48 000 câu thơ, mô tả một cuộc tình giữa chàng hoàng tử Rama và công chúa Sita. Thiên tình sử này ảnh hưởng tới văn học dân gian một số nước Đông Nam Á. Riêmkê ở Campuchia, Riêmkhiêm ở Thái Lan chắc chắn có ảnh hưởng từ Ramayana. Thời cổ đại ở Ấn Độ còn có tâp ngụ ngôn “Năm phương pháp” chứa đựng rất nhiều tư tưởng được gặp lại trong ngụ ngôn của một số dân tộc Á - Âu. 14
- 2. Nghệ thuật Ấn Độ là nơi có nền nghệ thuật tạo hình phát triển rực rỡ, ảnh hưởng tới nhiều nước Đông Nam Á. Nghệ thuật Ấn Độ cổ đại hầu hết đều phục vụ một tôn giáo nhất định, do yêu cầu của tôn giáo đó mà thể hiện. Có thể chia ra ba dòng nghệ thuật: Ấn Độ giáo, Phật giáo, Hồi giáo. Có rất nhiều chùa tháp Phật giáo, nhưng đáng kể đầu tiên là dãy chùa hang Ajanta ở miền trung Ấn Độ. Đây là dãy chùa được đục vào vách núi, có tới 29 gian chùa, các gian chùa thường hình vuông và nhiều gian mỗi cạnh tới 20m. Trên vách hang có những bức tượng Phật và nhiều bích họa rất đẹp. Các công trình kiến trúc Ấn Độ giáo được xây dựng nhiều nơi trên đất Ấn Độ và được xây dựng nhiều vào khoảng thế kỉ VII - XI. Tiêu biểu cho các công trình Ấn Độ giáo là cụm đền tháp Khajuraho ở Trung Ấn, gồm tất cả 85 đền xen giữa những hồ nước và những cánh đồng. Những công trình kiến trúc Hồi giáo nổi bật ở Ấn Độ là tháp Mina, được xây dựng vào khoảng thế kỉ XIII và lăng Taj Mahan được xây dựng vào khoảng thế kỉ XVII. 3. Khoa học tự nhiên Thiên văn Người Ấn Độ cổ đại đã làm ra lịch, họ chia một năm ra làm 12 tháng, mỗi tháng có 30 ngày. (Như vậy năm bình thường có 360 ngày). Cứ sau 5 năm thì họ lại thêm vào một tháng nhuận. Toán học Người Ấn Độ thời cổ đại chính là chủ nhân của hệ thống chữ số mà ngày nay ta quen gọi là số Arập. Đóng góp lớn nhất của họ là đặt ra số không, nhờ vậy mọi biến đổi toán học trở thành đơn giản, ngắn gọn hẳn lên. (Người Tây Âu vì vậy mà từ bỏ số La Mã mà sử dụng số Arập trong toán học). Họ đã tính được căn bậc 2 và căn bậc 3; đã có hiểu biết về cấp số, đã biết về quan hệ giữa 3 cạnh trong một tam giác, Pi = 3,1416. Vật lí Người Ấn Độ cổ đại cũng đã có thuyết nguyên tử. Thế kỉ V TCN, có một nhà thông thái ở Ấn Độ đã viết “Trái đất do trọng lực của bản thân đã hút tất cả các vật về phía nó”. Y học Y học cũng khá phát triển. Người Ấn Độ cổ đại đã mô tả các dây gân, cách chắp ghép xương sọ, cắt màng mắt, theo dõi quá trình phát triển của thai nhi. Họ để lại hai quyển sách là “Y học toát yếu” và “Luận khảo về trị liệu”. 4. Tư tưởng, tôn giáo: Ấn Độ là nơi sản sinh ra nhiều tôn giáo như đạo Balamôn, đạo Phật, đạo Jain và đạo Xích. - Đạo Balamôn Đạo Balamôn ra đời vào khoảng thế kỉ XV TCN, trong hoàn cảnh đang có sự bất bình đẳng rất sâu sắc về đẳng cấp và đạo này chứng minh cho sự hợp lí của tình trạng bất bình đẳng đó. Đạo Balamôn không có người sáng lập, không có giáo chủ. Đạo Balamôn thờ thần Brama (thần Sáng tạo), Visnu(thần Bảo vệ), Siva (thần Hủy diệt, có hủy diệt cái cũ thì mới có thể sáng tạo cái mới) Về mặt xã hội, đạo Balamôn là công cụ để bảo vệ chế độ đẳng cấp. Giáo lí quan trọng nhất của đạo Balamôn là thuyết luân hồi mà sau này nhiều tôn giáo khác chịu ảnh hưởng. Trong quá trình phát triển, đạo Balamôn có thể chia làm 3 giai đoạn: giai đoạn Vêđa (thế kỉ XV TCN - thế kỉ V TCN), giai đoạn Balamôn (thế kỉ V TCN - đầu CN), giai đoạn Ấn Độ giáo (đầu CN - nay) - Đạo Phật Đạo Phật ra đời vào khoảng giữa thiên niên kỉ I TCN do thái tử Xitđacta Gôtama, hiệu là Sakya Muni (Thích Ca Mâu Ni) khởi xướng. Các tín đồ Phật giáo lấy năm 544 TCN là năm thứ nhất theo Lịch Phật, họ cho là đây là năm Đức Phật nhập niết bàn. Giáo lí cơ bản của đạo Phật là Tứ diệu đế (bốn điền suy xét kì diệu): Khổ đế Suy xét về sự khổ cực, luân hồi, nghiệp báo. Nhân đế -Tập đế Nguyên nhân của sự khổ là dục tức lòng ham muốn Diệt đế Con đường tiết dục, diệt dục để trừ nghiệp báo Đạo đế Con đường để giải thoát khỏi sự luân hồi, nghiệp báo Đức Phật còn đề ra tám con đường chính trực để tu hành-Bát chánh: 15
- Chánh kiến Phải có tín ngưỡng đúng đắn. Chánh tư duy Phải có suy nghĩ đúng đắn. Chánh ngữ Phải có lời nói đúng. Chánh nghiệp Phải có hành động đúng. Chánh mệnh Phải có cuộc sống đúng đắn. Chánh tinh tiến Phải có những ước mơ đúng đắn. Chánh niệm Phải có những điều tưởng nhớ đúng đắn. Chánh định Phải tập trung tư tưởng mà suy nghĩ. Đạo Phật còn đề ra Ngũ giới: Bất sát sinh Không giết hại các động vật. Bất đạo tặc Không trộm cướp. Bất vọng ngữ Không nói dối. Bất tà dâm Không tham vợ hay chồng của người khác. Bất ẩm tửu Không uống rượu. Về mặt thế giới quan, nội dung cơ bản của đạo Phật là thuyết duyên khởi. Do quan niệm duyên khởi sinh ra vạn vật nên đạo Phật chủ trương Vô tạo giả, Vô ngã, Vô thường: Vô tạo giả Quan niệm thế giới này không do một đấng tối cao nào tạo ra, tự nhiên mà có và vô cùng vô tận. Như vậy là đạo Phật không dựa vào một đấng tối cao nào để giải thích về sự xuất hiện thế giới như các tôn giáo khác. Vô ngã Không có những thực thể vật chất tồn tại một cách cố định. Con người cũng chỉ là tập hợp của Ngũ uẩn (sắc, thụ, tưởng, hành, thức) chứ không phải là một thực thể tồn tại lâu dài. Vô thường Vạn vật trong thế giới này biến đổi không ngừng, không có gì là vĩnh cửu cả. Qua những giáo lí ban đầu của đạo Phật như vậy, ta thấy lúc đầu đạo Phật chỉ là một triết lí về nhân sinh quan. Đạo Phật sơ khai lúc đầu không thời bất cứ một vị thần thánh nào. Ngay cả Phật tổ Thích Ca Mâu Ni cũng không tự coi mình là thần thánh. Tuy Phật tổ Thích Ca Mâu Ni có tổ chức các tăng đoàn Tỳ Kheo (đoàn thể những tăng lữ khất thực) để đi truyền bá đạo Phật ở khắp nơi nhưng đó không phải là một tổ chức tôn giáo có hệ thống chùa tháp như ngày nay. Trong hoàn cảnh xã hội đầy rẫy bất công do chế độ đẳng cấp gây ra, thì đạo Phật lại chủ trương không phân biệt đẳng cấp, kêu gọi lòng thương người (từ bi hỉ xả), tránh điều ác, làm điều thiện. Những lời kêu gọi sự công bằng, lòng nhân đức đó đã được đông đảo người dân hưởng ứng. - Đạo Jain Đạo Jain cũng xuất hiện vào khoảng thế kỉ VI TCN. Đạo này chủ trương bất sát sinh một cách cực đoan và nhấn mạnh sự tu hành khổ hạnh. - Đạo Xích (Sikh) Đạo Xích xuất hiện ở Ấn Độ vào khoảng thế kỉ XV. Giáo lí của đạo Xích có sự kết hợp giáo lí của Ấn Độ giáo và giáo lí của đạo Hồi. Tín đồ đạo Xích tập trung rất đông ở bang Punjap và ngôi đền thiêng liêng của họ là ngôi đền Vàng ở Punjap. VĂN MINH TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI Trung Quốc là một trong những nơi xuất hiện nền văn minh sớm thời cổ -trung đại. Văn minh Trung Hoa thời cổ - trung đại có ảnh hưởng rất lớn tới các nước phương Đông. I- Địa lý và dân cư: Trung Quốc trong suốt chiều dài lịch sử là một nước lớn ở Đông Á. Trên lãnh thổ Trung Quốc có hai con sông lớn chảy qua, đó là Hoàng Hà (dài 5.464 km) ở phía Bắc và Trường Giang (dài 6.300 km) ở phía Nam. Hoàng Hà từ xưa thường gây ra lũ lụt, nhưng do đó đã bồi đắp cho đất đai thêm màu mỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp khi công cụ sản xuất còn tương đối thô sơ. Chính vì vậy nơi đây trở thành cái nôi của nền văn minh Trung Quốc. 16
- Khi mới thành lập nước (vào khoảng thế kỉ XXI TCN) địa bàn Trung Quốc chỉ mới là một vùng nhỏ ở trung lưu lưu vực Hoàng Hà. Từ đó lãnh thổ Trung Quốc được mở rộng dần, nhưng cho đến thế kỉ III TCN, tức là đến cuối thời cổ đại, phía Bắc của biên giới Trung Quốc chưa vượt quá dãy Vạn lí trường thành ngày nay, phía Tây mới đến Đông Nam tỉnh Cam Túc và phía Nam chỉ bao gồm một dải đất nằm dọc theo hữu ngạn Trường Giang mà thôi. Từ cuối thế kỉ III TCN Trung Quốc trở thành một nước phong kiến thống nhất. Từ đó nhiều triều đại của Trung Quốc đã chinh phục các nước xung quanh, do đó có những thời kì biên giới của Trung Quốc được mở ra rất rộng. Đến thế kỉ XVIII lãnh thổ Trung Quốc về cơ bản được xác định như hiện nay. Trung Quốc là một trong những nơi từ rất sớm đã có loài người cư trú. Năm 1929, ở Chu Khẩu Điếm (ở Tây Nam Bắc Kinh) giới khảo cổ học Trung Quốc đã phát hiện được xương hóa thạch của một loại người vượn sống cách đây khoảng 400.000 năm. Những xương hóa thạch của người vượn được phát hiện sau đó trên lãnh thổ Trung Quốc đã cung cấp những niên đại xưa hơn, đặc biệt người vượn Nguyên Mưu (Vân Nam) phát hiện năm 1977 có niên đại đến 1.700.000 năm. Về mặt chủng tộc, cư dân ở lưu vực Hoàng Hà thuộc giống Mông Cổ, đến thời Xuân Thu được gọi là Hoa Hạ, nói tắt là Hoa hoặc Hạ. Đó là tiền thân của Hán tộc sau này. Còn cư dân ở phía Nam Trường Giang thì khác hẳn cư dân vùng Hoàng Hà về ngôn ngữ và phong tục tập quán, tục cắt tóc, xăm mình, đi chân đất. Đến thời Xuân Thu các tộc này cũng bị Hoa Hạ đồng hóa. Dưới thời quân chủ, ở Trung Quốc, tên nước được gọi theo tên triều đại. Đồng thời, từ thời cổ đại, người Trung Quốc cho rằng nước họ là một quốc gia văn minh ở giữa, xung quanh là các tộc lạc hậu gọi là Man, Di, Nhung, Địch, vì vậy đất nước của họ còn được gọi là Trung Hoa hoặc Trung Quốc. Tuy vậy các danh từ này chỉ dùng để phân biệt với các vùng xung quanh chứ chưa phải là tên nước chính thức. Mãi đến năm 1912 khi triều Thanh bị lật đổ, quốc hiệu Đại Thanh bị xóa bỏ, cái tên Trung Hoa mới trở thành tên nước chính thức nhưng thông thường người ta quen gọi là Trung Quốc. II- Các thời kỳ lịch sử của Trung Quốc cổ đại: 1. Thời kì cổ đại Trung Quốc đã trải qua xã hội nguyên thủy. Theo truyền thuyết, thời viễn cổ ở Trung Quốc có một thủ lĩnh mà đời sau thường nhắc đến gọi là Phục Hy. Đến nửa đầu thiên kỉ III TCN, ở vùng Hoàng Hà xuất hiện một thủ lĩnh bộ lạc gọi là Hoàng Đế. Hoàng Đế họ Cơ, hiệu là Hiên Viên, được coi là thủy tổ người Trung Quốc. Đến cuối thiên kỉ III TCN, Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, Hạ Vũ đều là dòng dõi của Hoàng Đế. Nghiêu và Thuấn tuy chỉ là những thủ lĩnh liên minh bộ lạc nhưng đời sau cho họ là những ông vua tốt nhất trong lịch sử Trung Quốc. Tương truyền rằng, năm Nghiêu 72 tuổi, Nghiêu nhường ngôi cho Thuấn, đến khi Thuấn già, Thuấn lại nhường ngôi cho Vũ. Nhưng sau khi Vũ chết con của Vũ là Khải được tôn lên làm vua, Trung Quốc bắt đầu bước vào xã hội có nhà nước. Thời cổ đại ở Trung Quốc có ba vương triều nối tiếp nhau là Hạ, Thương, Chu. - Hạ (khoảng thế kỉ XXI đến XVI TCN) Tuy Vũ chưa xưng vương nhưng ông được coi là người đặt cơ sở cho triều Hạ. Thời Hạ, người Trung Quốc chỉ mới biết đồng đỏ, chữ viết cũng chưa có. Sau 4 thế kỉ, đến thời vua Kiệt, bạo chúa nổi tiếng đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc, triều Hạ diệt vong. - Thương (còn gọi là Ân, thế kỉ XVI-XII TCN) Người thành lập nước Thương là Thang. Nhân khi vua Kiệt tàn bạo, nhân dân oán ghét, Thang đem quân diệt Hạ. Thời Thương, người Trung Quốc đã biết sử dụng đồng thau, chữ viết cũng đã ra đời. Đến thời vua Trụ (cũng là môt bạo chúa nổi tiếng), Thương bị Chu tiêu diệt. - Chu (thế kỉ XI đến III TCN). Người thành lập triều Chu là Văn Vương. Trong hơn 8 thế kỉ tồn tại, triều Chu chia làm hai thời kì là Tây Chu và Đông Chu. Từ khi thành lập đến năm 771 TCN, triều Chu đóng đô ở Cảo Kinh ở phía Tây 17
- nên gọi là Tây Chu. Nói chung, Tây Chu là thời kì xã hội Trung Quốc tương đối ổn định. Từ năm 770 TCN, vua Chu dời đô sang Lạc Ấp ở phía Đông từ đó gọi là Đông Chu. Thời Đông Chu tương đương với hai thời kì Xuân Thu (722-481 TCN) và Chiến Quốc (403-221 TCN). Đây là thời kì nhà Chu ngày càng sụy yếu. Trong khi đó, giữa các nước chư hầu diễn ra cuộc nội chiến triền miên để giành quyền bá chủ, tiến tới tiêu diệt lẫn nhau để thống nhất Trung Quốc, thời Xuân Thu đồ sắt bắt đầu xuất hiện, đến thời Chiến Quốc thì được sử dụng rộng rãi trong đời sống xã hội. 2. Thời kì trung đại. Thời ki trung đại nói chung là thời kì thống trị của các vương triều phong kiến trên đất nước Trung Quốc thống nhất. Thời kì này bắt đầu từ năm 221 TCN tức là từ khi Tần Thủy Hoàng thành lập triều Tấn cho đến năm 1840 tức là năm xảy ra cuộc chiến tranh Thuốc phiện giữa Trung Quốc và Anh làm cho Trung Quốc từ một nước phong kiến trở thành một nước nửa phong kiến nửa thuộc địa. Trong thời gian hơn 2.000 năm đó, Trung Quốc đã trải qua các triều đại sau đây: - Tấn (221-206 TCN) - Tây Hán (206 TCN - 8 TCN) - Tân (9-23) - Đông Hán (25-220) - Thời kì Tam quốc: Nguy, Thục, Ngô (220-280) - Tấn (265-420) - Thời kì Nam Bắc triều (420-581) - Tùy (581-618) - Đường (618-907) - Thời kì Ngũ đại Thập quốc (907-960) - Tống (960-1279) chia thành 2 thời kì Bắc Tống (960-1127) Nam Tống (1127-1279) - Nguyên (1271-1368) - Minh (1368-1644) - Thanh (1644-1911) Trong thời trung đại, Hán, Đường, Tống, Minh là những vương triều lớn, đó cũng là những thời kì Trung Quốc rất cường thịnh và phát triển về mọi mặt, Nguyên và Thanh cũng là hai triều đại lớn, nhưng triều Nguyên do người Mông Cổ thành lập, triều Thanh do tộc Mãn Châu lập nên, trong xã hội tồn tại mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp rất gay gắt do đó đã hạn chế sự phát triển về văn hóa, triều Thanh tuy tồn tại đến năm 1911, nhưng từ năm 1840, tính chất của xã hội Trung Quốc đã thay đổi nên đã chuyển sang thời kì lịch sử cận đại. III- Những thành tựu: 1. Chữ viết, văn học, sử học Chữ viết Từ đời nhà Thương, người Trung Hoa đã có chữ Giáp cốt được viết trên mai rùa, xương thú, được gọi là Giáp cốt văn. Qua quá trình biến đổi, từ Giáp cốt văn hình thành nên Thạch cổ văn, Kim văn. Tới thời Tần, sau khi thống nhất Trung Quốc, chữ viết cũng được thống nhất trong khuôn hình vuông được gọi là chữ Tiểu triện. Văn học Kinh thi là tập thơ cổ nhất ở Trung Quốc do nhiều tác giả sáng tác thời Xuân - Thu, được Khổng tử sưu tập và chỉnh lí. Kinh thi gồm có 3 phần: Phong, Nhã, Tụng. Thơ Đường là thời kì đỉnh cao của nền thơ ca Trung Quốc. Trong hàng ngàn tác giả nổi bật lên ba nhà thơ lớn đó là Lí Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị. Tới thời Minh-Thanh, tiểu thuyết lại rất phát triển với các tác phẩm tiêu biểu như: “Tam quốc chí diễn nghĩa” của La Quán Trung, “Thủy hử” của Thi Nại Am, “Tây du kí” của Ngô Thừa Ân, “Nho lâm ngoại sử” của Ngô Kính Tử, “Hồng Lâu Mộng” của Tào Tuyết Cần trong đó “Hồng lâu mộng” được đánh giá là tiểu thuyết có giá trị nhất. 18
- 2. Sử học Người Trung Hoa thời cổ rất có ý thức về biên soạn sử. Nhiều nước thời Xuân-Thu đã đặt các quan chép sử. Trên cơ sở quyển sử nước Lỗ, Khổng Tử đã biên soạn ra sách Xuân Thu. Thời Hán, Tư Mã Thiên là một nhà viết sử lớn đã để lại tác phẩm “Sử kí Tư Mã Thiên” chép lại lịch sử Trung Quốc gần 3000 năm, từ thời Hoàng Đế đến thời Hán Vũ Đế. Thời Đông Hán, có các tác phẩm “Hán thư” của Ban Cố, “Tam quốc chí” của Trần Thọ, “Hậu Hán thư” của Phạm Diệp. Thời Minh-Thanh, các bộ sử như “Minh sử”, “Tứ khố toàn thư” là những di sản văn hóa đồ sộ của Trung Quốc. 3. Khoa học tự nhiên và kĩ thuật Toán học Người Trung Hoa đã sử dụng hệ đếm thập phân từ rất sớm. Thời Tây Hán đã xuất hiện cuốn “Chu bễ toán kinh”, trong sách đã có nói đến quan niệm về phân số, về quan hệ giữa 3 cạnh trong một tam giác vuông. Thời Đông Hán, đã có cuốn “Cửu chương toán thuật”, trong sách này đã nói đến khai căn bậc 2, căn bậc 3, phương trình bậc1, đã có cả khái niệm số âm, số dương. Thời Nam-Bắc triều có một nhà toán học nổi tiếng là Tổ Xung Chi, ông đã tìm ra số Pi xấp xỉ 3,14159265, đây là một con số cực kì chính xác so với thế giới hồi đó. Thiên văn học Từ đời nhà Thương, người Trung Hoa đã vẽ được bản đồ sao có tới 800 vì sao. Họ đã xác định được chu kì chuyển động gần đúng của 120 vì sao. Từ đó họ đặt ra lịch Can-Chi. Thế kỉ IV TCN, Can Đức đã ghi chép về hiện tượng vết đen trên Mặt trời. Thế kỉ II, Trương Hành đã chế ra dụng cụ để dự báo động đất. Năm 1230, Quách Thủ Kính (đời Nguyên) đã soạn ra cuốn “Thụ thời lịch” xác định một năm có 365,2425 ngày. Đây là một con số rất chính xác so với các nhà thiên văn Châu Âu thế kỉ XIII. Y dược học Thời Chiến Quốc đã có sách “Hoàng đế nội kinh” được coi là bộ sách kinh điển của y học cổ truyền Trung Hoa. Thời Minh có cuốn “Bản thảo cương mục” của Lí Thời Trân. Cuốn sách này được dịch ra chữ Latinh và được Darwin coi đây là bộ bách khoa về sinh vật của người Trung Quốc thời đó. Đặc biệt là khoa châm cứu là một thành tựu độc đáo của y học Trung Quốc. Kĩ thuật Có 4 phát minh quan trọng về mặt kĩ thuật mà người Trung Hoa đã đóng góp cho nhân loại, đó là giấy, thuốc súng, la bàn và nghề in. Giấy được chế ra vào khoảng năm 105 do Thái Luân. Nghề in bằng những chữ rời đã được Tất Thăng sáng tạo vào đời Tuỳ. Đồ sứ cũng có nguồn gốc từ Trung Hoa. Từ thế kỉ VI, họ đã chế ra diêm quẹt để tạo ra lửa cho tiện dụng. 4. Hội họa, điêu khắc, kiến trúc Hội họa Hội họa Trung Quốc có lịch sử 5000-6000 năm với các loại hình: bạch họa, bản họa, bích họa. Đặc biệt là nghệ thuật vẽ tranh thủy mạc, có ảnh hưởng nhiều tới các nước ở Châu Á. Cuốn “Lục pháp luận” của Tạ Hách đã tổng kết những kinh nghiệm hội họa từ đời Hán đến đời Tuỳ. Điêu khắc Ở Trung Quốc cũng phân thành các ngành riêng như: Ngọc điêu, thạch điêu, mộc điêu. Những tác phẩm nổi tiếng như cặp tượng Tần ngẫu đời Tần, tượng Lạc sơn đại Phật đời Tây Hán (pho tượng cao nhất thế giới), tượng Phật nghìn mắt nghìn tay. Kiến trúc Cũng có những công trình rất nổi tiếng như Vạn lí trường thành (6700 km), Thành Tràng An, Cố cung, Tử cấm thành ở Bắc Kinh. 5. Tư tưởng, tôn giáo - Thuyết Âm dương, Bát quái, Ngũ hành Âm dương tức lưỡng nghi là 2 yếu tố cơ bản có tính chất đối lập và chế ngự lẫn nhau, chúng tác động lẫn nhau tạo thành tất cả mọi vật trong vũ trụ. Dương có các tính chất như: giống đực, ánh sáng, nóng, chủ động, rắn rỏi Âm có các tính chất như: giống cái, bóng tối, lạnh, thụ động, mềm mỏng Mọi tai dị trong thiên nhiên sở dĩ xảy ra là do không điều hòa được 2 lực lượng ấy. 19
- Bát quái là 8 yếu tố vật chất tạo thành thế giới: Càn (trời), Khôn (đất), Chấn (sấm), Tốn (gió), Khảm (nước), Ly (lửa), Cấn (núi), Đoài (hồ). Trong Bát quái, hai quẻ Càn, Khôn là quan trọng nhất. Thuyết Bát quái mang tính duy vật và biện chứng nhưng những yếu tố tích cực rất hạn chế. Sự gán ghép nội dung cho các quẻ (như Li là lửa, là con gái đầu lòng) là hoàn toàn không có cơ sở khoa học nên thuyết này đã trở thành cơ sở tốt cho việc bói toán. Ngũ hành là 5 tác động tạo thành sự vật: Mộc (gỗ có tính chất động, khởi đầu), Hỏa (lửa có tính chất nhiệt, phát triển), Thổ (đất có tính chất nuôi dưỡng, sinh sản), Kim (kim loại có tính chất thu lại), Thủy (nước có tính chất tàng chứa). Quy luật biến đổi của vạn vật là do mối quan hệ “tương sinh” và “tương khắc”. Tương sinh là sinh ra nhau; cụ thể là: Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc. Tương khắc là chống lại nhau; cụ thể là: Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc. Có tương sinh mà không tương khắc thì không thăng bằng, không phát triển bình thường được. Có tương khắc mà không tương sinh thì không thể có sự sinh trưởng biến hóa. Như vậy, qui luật tương sinh tương khắc của Ngũ hành, về bản chất, chính là sự cụ thể hóa thuyết Âm dương. Thuyết Âm dương Ngũ hành ra đời vào thời Chiến Quốc là cơ sở để giải thích biến hóa và phát triển của tự nhiên cũng như của xã hội. - Nho giáo Nho gia là trường phái tư tưởng quan trọng nhất ở Trung Quốc do Khổng Tử (551-479 TCN) sáng lập. Nho gia chủ trương Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ Đức để làm chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội. Tam Cương là ba mối quan hệ: Quân thần (vua tôi), Phụ tử (cha con), Phu thê (chồng vợ). Ngũ Thường là năm điều phải hằng có trong khi ở đời: Nhân (lòng yêu thương), Nghĩa (cư xử theo lẽ phải), Lễ (sự tôn trọng, hòa nhã), Trí (sự hiểu biết), Tín (giữ lời hứa). Tam tòng là ba điều người phụ nữ phải theo “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” (ở nhà theo cha, lấy chồng theo chồng, chồng chết theo con). Tứ Đức là bốn tính nết tốt người phụ nữ phải có: Công (khéo léo trong việc làm), Dung (hòa nhã trong sắc diện), Ngôn (mềm mại trong lời nói), Hạnh (đức hạnh trong lối sống). Nho gia đề cao tư tưởng Chính danh định phận và Thiên mệnh, trọng “Lễ trị” hơn “Pháp trị”. Giá trị quan trọng nhất trong tư tưởng của Khổng Tử là về giáo dục. Ông chủ trương dạy học cho tất cả mọi người. Mạnh Tử (371-289 TCN) là người thừa kế và phát triển học thuyết Nho giáo thêm một bước. Mặc dù tin vào mệnh trời nhưng nếu con người biết tu dưỡng có thể thay đổi được ngoại giới. Mạnh Tử cho rằng đạo đức bẩm sinh được giáo dục tốt sẽ đạt đến cực thiện còn không sẽ mai một. Về chính trị Mạnh Tử chủ trương đường nhân chính và thống nhất. Nhân chính là dùng đạo đức để trị nước, quí dân hơn quí vua. Thống nhất là chấm dứt chiến tranh giữa các nước bằng con đường nhân chính chứ không bằng biện pháp chiến tranh. Tới thời Hán Vũ Đế (140-87 TCN), chấp nhận đề nghị của Đổng Trọng Thư, Hán Vũ Đế đã ra lệnh “bãi truất bách gia, độc tôn Nho thuật”, Nho gia đã được đề cao một cách tuyệt đối và nâng lên thành Nho giáo. - Đạo gia Người đề xuất học thuyết Đạo gia là Lão Tử và người phát triển học thuyết này là Trang Tử. Hai ông đã thể hiện tư tưởng của mình qua hai tác phẩm Đạo đức kinh và Nam Hoa kinh. Theo Lão Tử, “Đạo” là cơ sở đầu tiên của vũ trụ, có trước cả trời đất, nằm trong trời đất. Qui luật biến hóa tự thân của mỗi sự vật ông gọi là “Đức”. Lão Tử cho rằng mọi vật sinh thành, phát triển và suy vong đều có mối liên hệ với nhau. Đạo đức trong Đạo gia là một phạm trù triết học khác với Nho gia là thuộc phạm trù lí luận. 20
- Tới thời Trang Tử, tư tưởng của phái Đạo gia mang nặng tính buông xuôi, xa lánh cuộc đời. Họ cho rằng mọi hoạt động của con người đều không thể cưỡng lại “đạo trời”, từ đó sinh tư tưởng an phận, lánh đời. - Đạo giáo Đạo giáo sinh ra sau này khác hẳn Đạo gia, mặc dù có phái trong Đạo giáo tôn Lão Tử làm “Thái thượng lão quân”. Hạt nhân cơ bản của Đạo giáo là tư tưởng thần tiên. Đạo giáo cho rằng sống là một việc sung sướng nên họ trọng sinh, lạc sinh. - Pháp gia Ngược hẳn với phái Nho gia, phái Pháp gia chủ trương “pháp trị”, coi nhẹ “lễ trị”. Tiêu biểu cho phái Pháp gia là Hàn Phi Tử, một kẻ sĩ thời Tần Thủy Hoàng. Theo Hàn Phi Tử, trị nước chỉ cần pháp luật nghiêm minh, rõ ràng, dễ hiểu với mọi người, không cần lễ nghĩa. Ông cho rằng trị nước cần nhất 3 điều: Pháp Phải định ra được pháp luật nghiêm minh, rõ ràng, dễ hiểu, công bằng với mọi người, không phân biệt đó là quí tộc hay dân đen. Thế Muốn thực thi pháp luật thì các bậc quân vương phải nắm vững quyền thế, không chia xẻ cho kẻ khác. Thuật Thuật dùng người có 3 mặt: bổ nhiệm, khảo hạch và thưởng phạt. Thuật bổ nhiệm là khi chọn quan lại chỉ căn cứ vào tài năng và lòng trung thành, không cần dòng dõi, đức hạnh. Khảo hạch là phải kiểm tra công việc thường xuyên. Thưởng phạt thì chủ trương “ai có công thì thưởng, ai có tội thì trừng phạt thật nặng, bất kể là quí tộc hay dân đen”, trọng thưởng, trọng phạt. - Mặc gia Người đề xướng là Mặc Tử (Khoảng giữa thế kỉ V TCN đến giữa thế kỉ IV TCN). Hạt nhân tư tưởng triết học của Mặc gia là thuyết “kiêm ái” (thương yêu mọi người không phân biệt thân sơ). Mặc Tử chủ trương đề cao người có tài đức bất kể nguồn gốc xuất thân để giữ những chức vị cao. Tư tưởng của phái Mặc gia đầy thiện chí nhưng cũng không ít ảo tưởng. Từ đời Tần, Hán trở về sau, ảnh hưởng của phái Mặc gia hầu như không còn đáng kể. VĂN MINH HY LẠP CỔ ĐẠI I- Địa lý và dân cư: Ngày xưa, các bộ lạc Hy Lạp gọi bộ lạc của mình bằng những tên riêng. Đến khoảng thế kỉ thứ VIII-VII TCN, người Hy Lạp mới gọi mình là Helen (Hellenes) và gọi đất nước mình là Hêla (Hellas) tức Hy Lạp. Lãnh thổ của Hy Lạp cổ đại rộng hơn nước Hy Lạp ngày nay rất nhiều, bao gồm: miền Nam bán đảo Ban Căng, các đảo trên biển Êgiê và miền ven biển phía Tây Tiểu Á, trong đó quan trọng nhất là miền Nam bán đảo Ban Căng tức là vùng lục địa Hy Lạp. Miền lục địa Hy Lạp về mặt địa hình chia làm 3 khu vực: Bắc bộ, Trung bộ và Nam bộ. Từ Bắc bộ xuống Trung bộ phải qua một cái đèo hẹp nằm gần sát bờ biển phía Đông gọi là đèo Técmôpin. Trung bộ tuy là vùng có nhiều dãy núi ngang dọc nhưng cũng có những đồng bằng trù phú như đồng bằng Áttích và đồng bằng Bêôxi. Đồng thời ở đây còn có nhiều thành phố quan trọng mà nổi tiếng nhất là Aten. Ranh giới giữa Trung bộ và Nam bộ là eo đất Coranh. Nam bộ là một bán đảo hình bàn tay 4 ngón gọi là bán đảo Pêlôpônedơ. Ở đây có nhiều đồng bằng rộng và phì nhiêu, rất thuận lợi cho việc trồng trọt. Vùng bờ biển phía Đông của bán đảo Ban Căng khúc khuỷu tạo nên nhiều vịnh và nhiều hải cảng, rất thuận lợi cho việc phát triển hàng hải. Các đảo trên bờ biển Êgiê trở thành những trạm nghỉ chân cho các thuyền đi lại từ Hy Lạp đến Tiểu Á và Bắc Phi, trong đó lớn nhất là đảo Crét ở phía Nam bán đảo Trong khi đó, biển Êgiê lại như một cái hồ lớn êm ả sóng im gió nhẹ nên càng tạo điều kiện thuận lợi cho nghề đi biển trong điều kiện kĩ thuật chế tạo tàu thuyền còn thô sơ. 21
- Còn Tiểu Á là một vùng giàu có và là chiếc cầu nối liền Hy Lạp với các nước phương Đông cổ đại có nền văn minh phát triển sớm. Điều kiện địa lí đó đã giúp cho Hy Lạp cổ đại trở thành nước có nền công thương nghiệp phát triển, đồng thời có thể tiếp thu ảnh hưởng của nền văn minh cổ đại của phương Đông. Cư dân Hy Lạp cổ đại bao gồm nhiều tộc người: người Êôliêng chủ yếu cư trú ở bắc bán đảo Ban Căng và một phần Trung bộ (đồng bằng Bêôxi); người Iôniêng ở đồng bằng Áttích, vùng ven biển phía Tây Tiểu Á; người Akêăng ở vùng Bắc bán đảo Pêlôpônedơ và người Đôniêng ở Bắc bán đảo Pêlôpônedơ, đảo Crét và các đảo khác ở phía Nam biển Êgiê II- Các thời kỳ lịch sử của Hy Lạp cổ đại: 1. Thời kì văn hóa Crét – Myxen (thiên kỉ III - thế kỉ XII TCN) Từ sớm, vùng biển Êgiê mà trung tâm là đảo Crét và vùng Myxen ở bán đảo Pêlônênedơ đã từng tồn tại những nền văn minh rực rỡ. Những mãi đến thập kỉ 70 của thế kỉ XIX về sau, nhờ các cuộc khai quật khảo cổ học, người ta mới biết được tương đối cụ thể các nền văn minh đó. Tại Crét và Myxen người ta đã tìm thấy những cung điện, thành quách và nhiều hiện vật khác trong đó có cả chữ viết. Nền văn minh Crét tồn tại trong khoảng 18 thế kỉ, từ đầu thiên kỉ III đến thế kỉ XII TCN. Chủ nhân của nền văn hóa Myxen là người Akêăng. Thời kì huy hoàng nhất của văn hóa Myxen là từ thế kỉ XVI-XII TCN. Trên cơ sở công cụ đồng thau, ở Crét và Myxen đã xây dựng những nhà nước tương đối hùng mạnh. Từ năm 1194-1184 TCN, Myxen đã tấn công thành Tơroa ở Tiểu Á và đã tiêu điệt quốc gia này. Sau cuộc chiến tranh này 80 năm tức là đến cuối thế kỉ XII TCN, người Đôriêng với vũ khí bằng sắt từ phía Bắc tràn xuống đã tiêu diệt các quốc gia ở Myxen và Crét. Thời kì Crét- Myxen kết thúc. 2. Thời kì Hôme (thế kỉ XI - IX TCN) Sở dĩ gọi như vậy là vì lịch sử Hy Lạp trong giai đoạn này được phản ánh trong hai tập sử thi Iliát và Ôđixê của Hôme. Nội dung của Iliát và Ôđixê nói về cuộc chiến tranh giữa Hy Lạp và thành Tơroa xẩy ra cuối thời Myxen, nhưng chất liệu của cuộc sống hiện thực mà tác giả sử dụng để xây dựng tác phẩm như tình hình sinh hoạt, phong tục tập quán, quan hệ xã hội thì thuộc thời kì từ thế kỉ XI-IX TCN. Xã hội Hy Lạp thời Hôme không phải là sự phát triển tiếp tục xã hội có nhà nước thời Crét-Myxen mà là giai đoạn cuối của xã hội nguyên thủy. Lúc bấy giờ, sự phân hóa giàu nghèo tuy đã diễn ra rõ rệt, nhưng nhà nước chưa ra đời. 3. Thời kì thành bang (thế kỉ VIII - IV TCN) Đây là thời kì quan trọng nhất trong lịch sử Hy Lạp cổ đại. Do sự phát triển của các ngành kinh tế và sự phân hóa giai cấp, đến thế kỉ VIII TCN, ở Hy Lạp một lần nữa lại xuất hiện nhiều nhà nước nhỏ. Nhưng nhà nước này đều có một thành phố làm trung tâm nền gọi là những thành bang. Trong số các thành bang ở Hy Lạp, quan trọng nhất là thành bang Xpác và thành bang Aten, vì đây là hai lực lượng hùng mạnh nhất làm nòng cốt cho lịch sử Hy Lạp cổ đại. Thành bang Xpác ở phía Nam bán đảo Pêlôpônedơ, là một thành bang bảo thủ về chính trị, lạc hậu về kinh tế và văn hóa nhưng lại là một thành bang hùng mạnh về quân sự. Với ưu thế ấy, Xpác bắt các thành bang lân cận trở thành chư hầu của mình và đến 530 TCN thì lập thành một đồng minh do Xpác cầm đầu gọi là đồng minh Pêlôpônedơ nhằm mục đích giành quyền bá chủ ở Hy Lạp. Thành bang Aten ở miền Trung Hy Lạp. Đây chủ yếu là một vùng đồi núi, không thuận tiện đối với việc sản xuất nông nghiệp, nhưng lại có nhiều khoáng sản và hải cảng tốt nên công thương nghiệp có điều kiện phát triển. Thành bang Aten thành lập vào thế kỉ VIII TCN Khi mới ra đời, tính chất dân chủ của nhà nước Aten còn hạn chế, nhưng do sự đấu tranh không ngừng của quần chúng, trải qua nhiều lần cải cách, Aten 22
- trở thành thành bang có chế độ chính trị dân chủ nhất ở Hy Lạp cổ đại. Tuy vậy đó chỉ là chế độ dân chủ chủ nô, vì khoảng 4/5 dân cư Aten là nô lệ và ngoại kiều không được hưởng quyền dân chủ. Trên cơ sở nên kinh tế công thương nghiệp và chế độ dân chủ, Văn hóa Aten phát triển rất rực rỡ. Các thành tựu về mọi mặt của văn hóa Aten là bộ phận quan trọng nhất trong nền văn hóa Hy Lạp cổ đại. Trong khi Aten đang bước vào thời kì phát triển thuận lợi thì đến thế kỉ V TCN, Hy Lạp phải tiến hành một cuộc chiến tranh chống lại sự xâm lược của Ba Tư. Năm 490 TCN, quân. Ba Tư đổ bộ lên cánh đồng Maratông, một địa điểm cách Aten hơn 42km về phía Đông. Tuy lực lượng so sánh rất chênh lệch, nhưng quân Hy Lạp mà chủ yếu là quân Aten đã giành được thắng lợi rất oanh liệt. (Một chiến sĩ Aten là Philipit đã chạy một mạch từ Maratông về Alen chỉ kịp báo tin chiến thắng rồi ngã lăn ra chết. Từ đây xuất hiện môn chạy Maratông cự ly 42km). Đến năm 479 TCN quân Ba Tư hoàn toàn thất bại phải rút về nước. Sau khi đánh thắng Ba Tư, Aten bước vào thời kì cường thịnh nhất trong lịch sử của mình. Năm 478 TCN, Aten lôi kéo được gần 200 thành bang, thành lập một đồng minh gọi là đồng minh Đêlốt. Do đường lối chính trị và kinh tế khác nhau, năm 431 TCN, giữa hai đồng minh Pêlôpônedơ và đồng minh Đêlốt đã xảy ra một cuộc chiến tranh gọi là chiến tranh Pêlôpônedơ. Sau 27 năm, đến năm 404 TCN, Aten hoàn toàn thất bại phải kí hiệp ước đầu hàng. 4. Thời kì Makêđônia (thế kỉ IV - II TCN) Sau chiến tranh Pêlôpônedơ, ở Hy Lạp lại diễn ra một cuộc đấu tranh mới để giành quyền bá chủ nhưng không có thành bang nào đủ mạnh để thống nhất Hy Lạp dưới quyền của mình. Trong khi đó, ở phía Bắc Hy Lạp, nước Makêđônia đang phát triển nhanh chóng. Năm 337 TCN, nhờ giành được một chiến thắng có tính chất quyết định, vua Makêđônia là Philip II triệu tập một hội nghị toàn Hy Lạp. Trong hội nghị này, Makêđônia được giao quyền chỉ huy quân đội toàn Hy Lạp để tấn công Ba Tư. Như vậy về hình thức, các thành bang Hy Lạp vẫn được độc lập nhưng thực chất đã biến thành chư hầu của Makêđônia. Trong khi Makêđônia đang gấp rút chuẩn bị tấn công Ba Tư thì năm 336 TCN, Philip II bị giết chết. Con trai ông là Alếchxăngđrơ mới 20 tuổi lên ngôi. Năm 334 TCN, Alếchxăngđrơ bắt đầu đem quân sang tấn công Ba Tư, đến năm 328 TCN thì hoàn toàn tiêu diệt đế quốc rộng lớn này. Năm 327 TCN, quân Makêđônia đánh chiếm vùng Punjáp của Ấn Độ nhưng tiếp đó gặp nhiều khó khăn nên phải rút lui. Năm 325 TCN, quân Makêđônia về đến Babilon, thành phố này được chọn làm kinh đô của đế quốc do Alếchxăngđrơ thành lập. Năm 323 TCN, Alếchxăngđrơ bị chết đột ngột. Sau đó các tướng lĩnh không ngừng đánh nhau để tranh giành quyền bính. Do vậy sang thế kỉ III TCN, đế quốc Makêđônia chia thành 3 nước lớn: - Makêđônia và Hy Lạp do dòng dõi của tướng Antigôn thống trị - Xini do tướng Xêlơcút thống trị. - Ai Cập do dòng dõi của tướng Ptôlêmê thống trị. Ngoài ra còn có một số nước nhỏ khác như Pécgam, Rôđốt, Pacti, Bắctơria. Trong thời kì ấy, ở phía Tây, La Mã đang trở thành một đế quốc hùng mạnh và đang có mưu đồ chinh phục khu vực phía Đông Địa Trung Hải. Năm 168 TCN, Makêđônia bị La Mã tiêu diệt. Năm 146 TCN, Hy Lạp bị nhập vào đế quốc La Mã Sau đó, các vương quốc khác do người Makêđônia lập nên ở phương Đông lần lượt cũng bị La Mã thôn tính. Những quốc gia này đến thời cận đại được gọi là những nước Hy Lạp hóa và thời kì tồn tại của những quốc gia đó được gọi là “thời kì Hy Lạp hóa”. III- Những thành tựu: Tuy xuất hiện muộn hơn nền văn minh Ai Cập nhưng nhờ tiếp thu được nhiều giá trị từ Ai Cập và Lưỡng Hà cổ đại và phát triển lên, nâng lên tầm khái quát, nên nền văn minh Hy Lạp cổ đại đã có rất nhiều đóng góp giá trị. 23
- 1. Chữ viết, văn học Chữ viết Người Hy Lạp cổ đại đã dựa trên hệ thống chữ viết của người Phênixi (Phoenicia) rồi cải tiến, bổ xung thành một hệ thống chữ cái mới gồm 24 chữ cái. Từ chữ Hy Lạp cổ sau này đã hình thành nên chữ Latinh và chữ Slavơ. Đó là cơ sở chữ viết mà nhiều dân tộc trên thế giới ngày nay đang sử dụng. Văn học Có thể chia Văn học Hy Lạp cổ đại ra làm ba bộ phận chủ yếu có liên quan với nhau, đó là thần thoại, kịch, thơ. Thần thoại Hy Lạp rất phong phú và có hệ thống để mô tả thế giới tự nhiên, nói lên kinh nghiệm cuộc sống và cả tâm tư sâu kín của con người. Hầu như trong cuộc sống thời đó có việc gì thì đều có thần bảo trợ, lo về công việc đó. Kho tàng thần thoại Hy Lạp mãi tới ngày nay còn được nhiều môn nghệ thuật ở các nước trên thế giới khai thác. Đây là một dân tộc có một kho tàng thần thoại mà nhiều dân tộc lớn trên thế giới phải ghen tị. Về sau, khi có chữ viết, kho tàng thần thoại này được Hêdiốt (nhà thơ Hy Lạp sống vào thế kỉ VIII TCN) hệ thống lại trong tác phẩm Gia phả các thần. Thơ ca là thể loại văn học rất phát triển, đặc biệt nó có thế mạnh khi chưa có chữ viết. Tiêu biểu nhất phải kể đến tác phẩm Iliat và Ôđixê của Homer (thế kỉ IX TCN). Tới thế kỉ VII-VI TCN xuất hiện nhiều nhà thơ được công chúng ưa thích như Acsilôcút, Xôlông, Xaphô, Anacrêông Kịch nói Hy Lạp bắt nguồn từ các hình thức hóa trang trong các ngày lễ hội, lúc đầu chỉ có múa hát, sau có thêm đối đáp. Kịch Hy Lạp có 2 loại bi kịch và hài kịch. Hy Lạp là quê hương của kịch nói phương Tây. Những nhà viết kịch tiêu biểu thời đó là Etsin, Sôphôclơ, Ơripit 2. Sử học Từ thế kỉ VIII-VI TCN, lịch sử Hy Lạp chỉ được truyền lại bằng truyền thuyết và sử thi. Đến thế kỉ V TCN lịch sử ở Hy Lạp mới trở thành một bộ môn riêng biệt. Các nhà viết sử tiêu biểu của Hy Lạp thời đó là Hêrôđôt (Herodotus) với cuốn Lịch sử chiến tranh Hy-Ba, Tuyxiđit (Thuycudides) cuốn Lịch sử chiến tranh Plôpônedơ. 3. Kiến trúc, điêu khắc Những công trình kiến trúc của Hy Lạp cổ đại không hùng vĩ như của Ai Cập cổ đại nhưng nó lại nổi bật ở sự thanh thoát, hài hoà. Các công trình kiến trúc ở Hy Lạp cổ đại thường được xây dựng trên những nền móng hình chữ nhật với những dãy cột đá tròn ở bốn mặt. Qua nhiều thế kỉ, người Hy Lạp cổ đại đã hình thành ra ba kiểu cột mà ngày nay người ta vẫn thể hiện trong trường phái “cổ điển”. Kiểu Đôric (thế kỉ VII TCN), trên cùng là những phiến đá vuông giản dị không có trang trí; kiểu Lônic (thế kỉ V TCN) cột đá tròn thon hơn, có đường cong ở bốn góc phiến đá hình vuông như hai lọn tọc uốn; kiểu Côranh (thế kỉ IV TCN) có những cành lá dưới những đường cong, thường cao hơn và bệ đỡ cầu kì hơn. Các công trình kiến trúc tiêu biểu thời bấy giờ là đền Pactơnông (Parthenon) ở Aten, đền thờ thần Dớt (Zeus) ở núi Olympia, đền thờ nữ thần Atena (Athena). Các nhà điêu khắc ở Hy Lạp cổ đại cũng để lại nhiều tác phẩm tới bây giờ vẫn xứng đáng là mẫu mực cho điêu khắc như các pho tượng Vệ nữ ở Milô, tượng Lực sĩ ném đĩa, tượng nữ thần Atena, tượng thần Hecmet Những nhà điêu khắc tiêu biểu thời đó như Phiđat (Phidias), Mirông (Miron), Pêliklêt (Polykleitos) 4. Khoa học tự nhiên Thế giới Hy Lạp cổ đại còn cống hiến cho nhân loại nhiều nhà bác học mà đóng góp của họ tới nay vẫn còn giá trị như: Ơclit (Euclide), người đưa ra các tiên đề hình học đặt cơ sở cho môn hình học sơ cấp. Pitago (Pythagoras), ông đã chứng minh định lí mang tên ông và ngay từ thế kỉ V TCN ông đã đưa ra giả thuyết trái đất hình cầu. Talét (Thales), người đã đưa ra Tỉ lệ thức (Định lí Talét). Đặc biệt là Acsimet (Archimede), người đã đề ra nguyên lí đòn bẩy, chế ra gương cầu lõm, máy bắn đá và phát hiện ra lực đẩy tác động lên một vật nếu vật đó trong lòng chất lỏng (lực đẩy Acsimet). 5. Y học 24
- Ông tổ của y học phương Tây là Hipôcrat (Hippocrates). Ông giải phóng y học ra khỏi mê tín dị đoan, cho rằng bệnh tật do ngoại cảnh gây nên vì vậy phải dùng các biện pháp như uống thuốc hoặc mổ xẻ để chữa trị. Ông đặc biệt được đời sau luôn nhớ tới bởi lời thề Hypôcrat khi nhắc những người bước chân vào ngành y. 6. Triết học Hy Lạp cổ đại là quê hương của triết học phương Tây, ở đây có cả hai trường phái triết học duy vật và duy tâm. Đại diện cho trường phái duy vật là các nhà triết học nổi tiếng như: Talét (Thales), Hêraclit (Heracleitus), Đêmôcrit (Democritus) Đại diện cho trường phái duy tâm là các nhà triết học: Platôn, Arixtôt. 7. Luật pháp và tổ chức nhà nước Các quốc gia ở phương Tây chịu ảnh hưởng nhiều về hệ thống pháp luật và cách tổ chức nhà nước từ Hy Lạp cổ đại. Nhà nước ở Hy Lạp cổ đại hình thành trên cơ sở sự tan rã của xã hội thị tộc. Nhà nước dân chủ chủ nô ở Hy Lạp ngày càng được hoàn thiện qua những cải cách của Xôlông (Solon), Clisten (Clisthenes) và Pêliclêt (Pericles). Về luật pháp, bộ luật cổ nhất của Hy Lạp là bộ luật Đracông (Dracon), bộ luật này có những hình phạt rất khắc nghiệt, có khi chỉ ăn cắp cũng bị xử tử. Sau này, nhờ những cải cách của Xôlông, Clisten, luật pháp Hy Lạp ngày càng mang tính dân chủ hơn (nhưng cũng chỉ công dân tự do mới được hưởng, nô lệ thì không). VĂN MINH LA MÃ CỔ ĐẠI I- Địa lý và dân cư: La Mã (Rôma) là tên của một quốc gia cổ đại mà nơi phát nguyên là ở bán đảo Italia. Đây là một bán đảo dài và hẹp ở Nam Âu hình chiếc ủng vươn ra Địa Trung Hải, diện tích khoảng 300.000 km2, phía Bắc có dãy núi Anpơ ngăn cách Italia với châu Âu, phía Nam có đảo Xixin, phía Tây có đảo Coócxơ và đảo Xacđenhơ. Italia có nhiều đồng bằng màu mỡ và nhiều đồng cỏ thuận tiện cho việc chăn nuôi gia súc. Italia có nhiều kim loại như đồng, chì, sắt để chế tạo công cụ sản xuất và vũ khí. Bờ biển phía Đông không thuận tiện cho thuyền bè đi lại nhưng bờ biển phía Nam có nhiều vịnh và cảng tốt, do đó có quan hệ sớm với Hy Lạp. Bán đảo Italia lớn gấp 5 lần bán đảo Hy Lạp nhưng nó không bị chia cắt thành những vùng biệt lập như Hy Lạp mà là một đơn vị địa lí thuận lợi cho sự thống nhất về lãnh thổ và chính trị. Sau khi làm chủ bán đảo Ý, La Mã còn xâm chiếm bên ngoài lập thành một đế quốc rộng lớn bao gồm đất đai của ba châu Âu, Á, Phi nằm bao quanh Địa Trung Hải. Cư dân chủ yếu và cũng là thành phần cư dân có mặt sớm nhất ở bán đảo Italia gọi là người Italia. Trong đó, bộ phận sống ở vùng Latium goi là người Latinh. Về sau, một nhánh của người Latinh đã dựng lên thành La Mã ở trên bờ sông Tibrơ, từ đó họ được gọi là người La Mã. Ngoài ra, còn có người Gôloa, người Êtơruxcơ, người Hy Lạp. Người Gôloa cư trú ở miền Bắc cực bán đảo, người Êtơrucơ ở miền Bắc và miền Trung, còn người Hy Lạp thì ở các thành phố ven biển phía Nam và đảo Xixin. II- Các thời kỳ lịch sử của La Mã cổ đại: 1. Thời kì cộng hòa - Sự thành lập chế độ cộng hòa. Theo truyền thuyết, thành La Mã (Rôma) do vua Romulus xây dựng năm 753 TCN, do đó tên của ông được dùng để đặt tên cho thành này. Sự thực nhà nước La Mã ra đời vào giữa thế kỉ VI TCN, do cuộc cải cách của vua Xecviut Tuliut. Khi mới thành lập, nhà nước La Mã gồm có vua, Viện Nguyên lão và Đại hội nhân dân. Vào khoảng năm 510 TCN, người La Mã nổi dậy khởi nghĩa lật đổ vua Táccanh kiêu 25
- ngạo. Từ đó chính quyền thành việc của dân (res publica), do vậy chế độ nhà nước mới gọi là Respublica tức là chế độ cộng hòa. Bộ máy nhà nước thời kì này bên cạnh Viện Nguyên lão và Đại hội nhân dân là hai cơ quan chấp chính có quyền ngang nhau, nhiệm kì là một năm. Tuy chế độ cộng hòa đã được thiết lập nhưng sự cách biệt giữa quý tộc và bình dân vẫn rất lớn. Vì vậy bình dân đã đấu tranh với quý tộc trong hai trăm năm để đòi giải quyết các yêu cầu của họ. Kết quả, bình dân đã được thỏa mãn các yêu cầu như bình dân được cử quan Bảo dân để bênh vực quyền lợi cho mình, được chia ruộng đất, được kết hôn với quý tộc, được làm quan chấp chính, bình dân nếu phá sản cũng không biến thành nô lệ Thắng lợi của bình dân đã làm cho chế độ cộng hòa quý tộc của La Mã được dân chủ hóa thêm một bước so với trước. - Sự thành lập đế quốc La Mã. Khi mới thành lập, La Mã chỉ là một thành bang nhỏ ở miền Trung bán đảo Italia. Từ thế kỉ VI TCN, La Mã không ngừng xâm lược ra bên ngoài, và hơn một thế kỉ sau, La Mã đã chinh phục được toàn bộ bán đảo Italia. Tiếp đó La Mã muốn phát triển thế lực sang phía Tây Địa Trung Hải, nhưng ở đây La Mã đã gặp phải một đối thủ hùng mạnh, đó là Cáctagiơ. Cáctagiơ là một đế quốc rộng lớn bao gồm vùng bờ biển Bắc Phi, miền Đông Tây Ban Nha, miền Nam xứ Gôlơ, bán đảo Xácđenhơ, đảo Coócxơ (ở gần Tuyrít, thủ đô nước Tuynidi ngày nay). Do mâu thuẫn với nhau trong mưu đồ bành chướng thế lực mà đầu tiên là cuộc đụng độ ở đảo Xixin, từ năm 264-146 TCN, trong vòng gần 120 năm, giữa La Mã và Cactagiơ đã xẩy ra ba lần chiến tranh rất ác liệt, người La Mã gọi là cuộc chiến tranh Puních, kết quả, đến năm 146 TCN, La Mã đã giành được thắng lợi hoàn toàn. Toàn bộ đất đai của Cáctagiơ trở thành lãnh thổ của La Mã. Trong quá trình ấy, để giành quyên bá chủ ở khu vực phía Đông Địa Trung Hải, La Mã đã nhiều lần tấn công Makêđônia, Xiri. Kết quả, đến giữa thế kỉ II TCN, Makêđônia bị biến thành một tỉnh của La Mã. Sang thế kỉ I TCN, cả vùng đất đai ở bờ Đông Địa Trung Hải cũng bị La Mã chiếm. Cuối cùng, đến năm 30 TCN, Ai Cập cũng bị nhập vào bản đồ La Mã. Thế là La Mã đã trở thành đế quốc rộng mênh mông, Địa Trung Hải thành một cái hồ nằm gọn trong lãnh thổ của đế quốc. Do chiến tranh không ngừng giành được thắng lợi, số tù binh bắt được rất nhiều. Tình hình đó làm cho chế độ nô lệ phát triển mạnh mẽ, dân số nô lệ nhiều hơn dân số nông dân và lao động của nô lệ giữ vai trò quan trọng nhất trong các ngành kinh tế. Tuy vậy nô lệ lại là giai cấp bị áp bức bóc lột vô cùng tàn bạo, nên họ không ngừng nổi dậy đấu tranh, trong đó tiêu biểu nhất là cuộc khởi nghĩa Xpactacút, nổ ra từ năm 73-71 TCN. Chính sự đấu tranh của giai cấp nô lệ là một nguyên nhân rất quan trọng làm cho La Mã càng lún sâu vào cuộc khủng hoảng về mọi mặt. 2. Thời kì quân chủ - Quá trình chuyển biến chế độ cộng hòa sang chế độ quân chủ. Từ thế kỉ I TCN, chế độ cộng hòa ở La Mã dần dần bị chế độ độc tài thay thế. Do bất đồng với nhau trong việc giải quyết những vấn đề của đất nước, các phe phái trong giai cấp chủ nô La Mã đã tạo điều kiện cho các tướng lĩnh nhảy lên vũ đài chính trị. Người giành được quyền độc tài đầu tiên là Xila. Năm 82 TCN, Xila tuyên bố làm độc tài suốt đời nhưng đến năm 79 TCN vì ốm nặng phải từ chức và đến năm 78 TCN thì chết. Sau khi đàn áp cuộc khởi nghĩa Xpactacút, ở La Mã xuất hiện chính quyền tay ba lần thứ nhất. Đó là Cratxút, Pompê và Xêda. Năm 54 TCN Crátxút bị tử trận trong khi đánh nhau ở phương Đông, Pompê tìm cách trừ khử Xêda để độc chiếm chính quyền nhưng bị thất bại phải chạy sang phía Đông. Ngay năm đó (48 TCN), Xêda truy kích Pompê tận Ai Cập. Tại đây, ông giúp công chúa Clêôpát giành được ngôi vua, do đó ông ở lại trong cung đình Ai Cập hơn nửa năm. Năm 45 TCN, sau khi đánh bại mọi thế lực chống đối ở phương Đông, Xêda kéo đoàn quân chiến thắng trở về và trở thành người đứng đầu nhà nước La Mã, nhưng đến năm 44 TCN thì bị ám sát. 26
- Sau khi Xêda chết ít lâu, năm 43 TCN, ở La Mã lại xuất hiện chính quyền tay ba lần thứ hai. Đó là Antôniút, Lêpiđút và Ốctavianút. Chẳng bao lâu Lêpiđút bị tước quyền lực, Antôniút kết hôn với nữ hoàng Clêôpát, do vậy toàn bộ quyền hành ở La Mã thuộc về Ôctavianút. Năm 30 TCN, Ôctavianut tuyên chiến với Clêôpát. Bị thất bại, Antôniút và Clêôpát phải tự tử. Năm 29 TCN, Ôctavianút trở về La Mã và trở thành kẻ thống trị duy nhất của toàn đế quốc. Mặc dầu chưa xưng hoàng đế nhưng ông được tôn làm nguyên thủ, được dâng danh hiệu Ôgút (Auguste) nghĩa là đấng chí tôn và được tặng nhiều danh hiệu cao quý khác. Như vậy, Ôctavianút thực chất đã trở thành một hoàng đế và La Mã tuy vẫn khoác cái áo ngoài của chế độ cộng hòa nhưng thực chất đã chuyển sang chế độ quân chủ chuyên chế. - Sự suy vong của đế quốc La Mã. Đến thời quân chủ, chế độ nô lệ La Mã ngày càng khủng hoảng trầm trọng. Để khắc phục tình trạng đó, giai cấp địa chủ chủ nô phải thay đổi cách bóc lột: họ đem ruộng đất chia cho người lao động nông nghiệp để thu địa tô. Việc đó dẫn tới sự ra đời của một tầng lớp xã hội mới gọi là lệ nông - tiền thân của nông nô thời trung đại sau này. Đến thế kỉ III, công thương nghiệp phát triển một thời cũng nhanh chóng suy sụp, cư dân thành thị giảm sút, thành thị trở nên điêu tàn, mối liên hệ kinh tế giữa các nơi của đế quốc không còn chặt chẽ nữa. Trong hoàn cảnh đó, do miền Đông nhờ sự liên hệ với các nước phương Đông, kinh tế còn có thể phát triển thuận lợi hơn ở miền Tây, nên, năm 330, hoàng đế Cônxtantinút đã rời đô sang Cônxtantinốplơ ở phía Đông. Năm 395, hoàng đế Têôđôdiút chia đế quốc thành hai nước: đế quốc Đông La Mã đóng đô ở Cônxtantinốplơ và đế quốc Tây La Mã đóng đô ở La Mã. Trong khi La Mã đang suy yếu nhanh chóng như vậy thì đến thế kỉ IV, người Giécmanh bao gồm các tộc Tây gốt, Đông gốt, Văngđan, Phrăng, Ănglô - Xắcxông, Buốcgôngđơ, đã di cư ồ ạt vào lãnh thổ của đế quốc La Mã. Lúc bấy giờ, họ đang sống trong xã hội nguyên thủy nên người La Mã gọi họ là “Man tộc”. Sang thế kỉ V, một số bộ lạc Giécmanh đã thành lập các vương quốc của mình trên đất đai của Tây La Mã. Đến thập kỉ 70 của thế kỉ V, đế quốc Tây La Mã chỉ còn lại một vùng nhỏ bé mà ở đó, chính quyền thực tế đã nằm trong tay các tướng lĩnh người Giécmanh. Năm 476, thủ lĩnh quân đánh thuê người Giécmanh là Ôđôacrơ (Odoacre) đã lật đổ hoàng đế cuối cùng của đế quốc Tây La Mã là Rômulút Ôguxtulơ rồi tự xưng làm hoàng đế. Sự kiện đó đánh dấu sự diệt vong của đế quốc Tây La Mã, đồng thời đánh dấu sự chấm dứt chế độ chiếm hữu nô lệ. Còn đế quốc Đông La Mã thì vẫn tiếp tục tồn tại và đi dần vào con đường phong kiến hóa và thường được gọi là đế quốc Bidantium (Byzantine). Đến năm 1453, Đông La Mã bị Thổ Nhĩ Kì tiêu diệt. III- Những thành tựu: Người La Mã không chỉ kế thừa nền văn minh của người Hy Lạp thời cổ đại mà còn có những đóng góp đáng kể, tạo thành nền văn minh Hy-La, cơ sở của văn minh Tây Âu sau này. 1. Chữ viết, văn học Từ chữ Hy Lạp cổ, người La Mã đã đặt ra một loại chữ riêng của mình mà ngày nay ta quen gọi là chữ Latinh. Đây là một thứ chữ viết đơn giản, thuận tiện nên đã được sử dụng rộng rãi trong toàn bộ đế quốc và sau này đã trở thành chữ viết của nhiều quốc gia trên thế giới. Văn học La Mã cổ đại cũng có nhiều thể loại như thơ, kịch, sử thi, dịch các tác phẩm Hy Lạp với các tác giả nổi tiếng như Anđrônicut, Viêcghiiut, Hôratiut. 2. Sử học Từ thế kỉ III TCN, người La Mã đã có viết sử nhưng họ viết bằng chữ Hy Lạp. Người đầu tiên viết sử La Mã bằng chữ Hy Lạp là Phabiut. Người viết sử La Mã bằng chữ Latinh đầu tiên là Cato (234-149 TCN). Sau đó còn nhiều người khác như Plutac, Tacitus. 3. Triết học 27
- Các nhà triết học La Mã cũng đã kế thừa truyền thống của triết học Hy Lạp, kế thừa những tư tưởng duy vật của Đêmôcrit. Những nhà triết học tiêu biểu thời kì đó như: Lucretius, Ciceron. 4. Luật pháp Bộ luật thành văn cổ nhất ở La Mã là bộ Luật 12 bảng. Nó được gọi như vậy vì được khắc vào 12 bảng đá vào năm 452 TCN. 5. Khoa học tự nhiên Nhà khoa học nổi tiếng nhất La Mã là Pliniut (23-79) với tác phẩm “Lịch sử tự nhiên” tổng hợp các tri thức nhân loại thời bấy giờ và được coi là “Bách khoa toàn thư La Mã cở đại”. Các nhà khoa học người La Mã cũng có công sưu tập, tổng hợp những kiến thức khoa học khắp vùng Địa Trung Hải. 6. Y học Tiêu biểu là Claođiut Galênut (131 - đầu T.K. III) trên cơ sở tiếp thu các thành tựu y học trước đó nhất là của Hipôcrat (Hippocrates) để viết nhiều tác phẩm có giá trị làm nền tảng cho y học thời bấy giờ. Cuốn “Phương pháp chữa bệnh” của ông để lại đã được dùng làm sách giáo khoa cho nhiều trường đại học ở châu Âu mãi tới thời cận đại và được dịch ra tiếng Arập, Do Thái, Latinh. 7. Kiến trúc, điêu khắc Một trong những giá trị kiến trúc của người La Mã thể hiện qua các cầu vòm bằng đá. Nhờ những chiếc cầu này mà hệ thống giao thông nối liền các vùng của đế chế La Mã trở nên thuận lợi. Công trình kiến trúc La Mã nổi tiếng hay được nhắc đến là đấu trường Côlidê và Khải hoàn môn. Kiến trúc sư La Mã nổi tiếng thời đó là Vitorius. Điêu khắc La Mã có cùng phong cách với điêu khắc Hy Lạp. Những bức tượng còn lại ở thành Rôma và những phù điêu trên Khải hoàn môn là hiện vật tiêu biểu cho điêu khắc La Mã. 8. Tôn giáo Nói đến tôn giáo ở đế quốc La Mã phải nói đến đạo Cơ Đốc, mặc dù đạo Cơ Đốc không phải ra đời tại La Mã. Theo truyền thuyết, người sáng lập ra đạo Cơ Đốc là Jesus Crit, con của Chúa Trời đầu thai vào người con gái đồng trinh Maria. Jesus Crit ra đời vào khoảng thế kỉ IV TCN tại Béthleem (Palestin ngày nay). Đến năm 30 tuổi, Jesus Crit bắt đầu đi truyền đạo. Đạo Cơ Đốc khuyên con người nhẫn nhục chịu đựng đau khổ nơi trần gian để khi chết sẽ được hưởng hạnh phúc nơi thiên đàng. Chúa Trời sáng tạo ra thế giới này. Chúa Trời, chúa Jesus, thành thần tuy ba mà là một (tam vị nhất thể). Đạo Cơ Đốc cũng có quan niệm thiên đường, địa ngục, thiên thần, ma quỉ Giáo lí của đạo Cơ Đốc gồm có Kinh cựu ước (tiếp nhận của đạo Do Thái) và Kinh tân ước (kể từ khi chúa Jesus ra đời). Luật lệ thể hiện trong 10 điều răn. Về tổ chức, lúc đầu các tín đồ đạo Kitô tổ chức thành những công xã vừa mang tính chất tôn giáo, vừa giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống. Đến thế kỉ II, các công xã Kitô dần phát triển thành Giáo hội. Khi mới ra đời, đạo Kitô bị các hoàng đế La Mã và bọn quí tộc địa phương đàn áp rất tàn bạo. Vụ đàn áp đẫm máu nhất là vụ đàn áp vào năm 64, dưới thời hoàng đế Nêrông, máu của biết bao nhiêu tín đồ đã đổ. Nhưng số người theo đạo Kitô không những không giảm mà ngày càng tăng lên. Về sau, Giáo hội đề ra nguyên tắc “vương quốc thì trả cho vua, thiên quốc thì trả cho Chúa trời” tức là tôn giáo không dính dáng đến chính trị. Thấy đàn áp mãi không có tác dụng, các hoàng đế La Mã nghĩ tới biện pháp chung sống. Năm 311, một hoàng đế La Mã đã ra lệnh ngưng đàn áp các tín đồ Kitô. Năm 313, đạo Cơ Đốc được hoàng đế La Mã công nhận là hợp pháp. Năm 337, một hoàng đế La Mã lúc đó là Cônxtantinut đã gia nhập đạo Kitô. Hoàng đế theo đạo Cơ Đốc thì đương nhiên các quan lại đua nhau theo Đạo. Ngân quĩ quốc gia cũng được chi ra để đóng góp cho Nhà thờ. Đạo Kitô được truyền bá rộng khắp trong vùng đất quanh Địa Trung Hải. Sau này, khi đế quốc La Mã tan vỡ thì đạo Cơ Đốc đã ăn sâu, lan rộng khắp châu Âu. 28
- VĂN MINH TÂY ÂU THỜI TRUNG ĐẠI I- Hoàn cảnh lịch sử: 1. Sự thành lập các quốc gia mới ở Tây Âu Trong nửa đầu thế kỉ V, các bộ lạc người Giécmanh đã thành lập trên đất đai của Tây La Mã các vương quốc Tây Gốt, Văngđan, Buốcgôngđơ. Sau khi đế quốc Tây La Mã diệt vong (năm 476), người Giécmanh tiếp tục thành lập ba vương quốc mới là Đông Gốt, Lông Ba và Phrăng. Trong số các vương quốc do người Giécmanh thành lập, chỉ có vương quốc Phrăng tồn tại lâu dài nhất và đồng thời là quốc gia có vai trò quan trọng nhất ở Tây Âu trong thời sơ kì trung đại. Địa bàn đầu tiên của vương quốc Phrăng chỉ là miền Bắc nước Pháp ngày nay. Nhưng các Vua ở vương quốc Phrăng đã không ngừng gây chiến tranh để mở rộng đất đai. Đặc biệt đến thời Saclơmanhơ (Charlemagne), bằng 50 cuộc chiến tranh, ông đã biến vương quốc Phrăng thành một đế quốc có biên giới rộng lớn từ bờ Đại Tây Dương ở phía Tây đến bờ sông Enbơ và sông Đanuýp ở phía Đông và từ Nam Italia ở phía Nam đến Bắc Hải và biển Ban Tích ở phía Bắc. Thế là, lãnh thổ của đế quốc Saclơmanhơ tương đương với lãnh thổ của đế quốc Tây La Mã trước kia. Chính vì vậy vào ngày lễ Nôen năm 800, tại nhà thờ Xanh Pie ở La Mã, Sáclơmanhơ được Giáo hoàng cử hành lễ tấn phong làm Hoàng đế La Mã. Năm 814, Sáclơmanhơ chết, nội bộ vương quốc Phrăng bắt đầu lục đục. Năm 840, ngay sau khi con của Sáclơmanhơ là Luy Mộ đạo chết, ba người con của ông là Lôte, Luy xứ Giécmanh và Sáclơ Hói đã gây nội chiến để tranh giành ngôi hoàng đế. Kết quả, đến năm 843, ba anh em phải kí với nhau hòa ước Vécđoong. Theo hòa ước này, lãnh thổ của Phrăng được chia thành ba phần: người anh cả, Lôte, được phần giữa bao gồm vùng tả ngạn sông Ranh và miền Bắc bán đảo Ý; người con thứ hai là Luy xứ Giécmanh được phần đất phía Đông sông Ranh; người em út là Sáclơ Hói được phần đất phía Tây của đế quốc. Như vậy, hòa ước Vécđoong là sự kiện quan trọng đánh dấu đế quốc Sáclơmanhơ hoàn toàn tan rã, đồng thời là cái mốc lịch sử đánh dấu sự thành lập ba nước lớn ở Tây Âu là Pháp, Đức và Italia. Ở Anh, từ thế kỉ V, đã thành lập nhiều tiểu quốc. Đến đầu thế kỉ IX, Ecbe đã thống nhất được các nước nhỏ và thành lập vương quốc Anh. Ở Tây Ban Nha, từ năm 419 đã thành lập vương quốc Tây Gốt. Năm 711 Tây Gốt bị diệt vong do sự tấn công của người Arập. Người Tây Gốt phải lùi lên phía Bắc lập thành một số nước nhỏ. Đến thế kỉ XI, trong phong trào đấu tranh chống người Arập để khôi phục đất đai, ở Tây Ban Nha đã xuất hiện bốn quốc gia là Caxtila, Aragôn, Nava và Bồ Đào Nha, trong đó quan trọng nhất là Caxtila và Aragôn. Năm 1469, hoàng tử Aragôn là Phécđinăng kết hôn với công chúa Caxtila là Ixabela. Năm 1474, Ixabela lên làm vua Caxtila, năm 1479, Phécđinăng cũng lên ngôi ở Aragôn, do đó hai nước chính thức hợp nhất thành nước Tây Ban Nha. Năm 1512 Vương quốc Nava cũng sáp nhập vào Tây Ban Nha, còn Bồ Đào Nha vẫn là một nước độc lập. 2. Sự hình thành và phát triển của chế độ phong kiến Xã hội Hy Lạp, La Mã là xã hội chiếm hữu nô lệ. Năm 476, đế quốc Tây La Mã diệt vong. Sự kiện đó đánh dấu chế độ chiếm hữu nô lệ kết thúc, từ đó, các vương quốc mới thành lập trên đất đai của Tây La Mã không tiếp tục duy trì chế độ chiếm hữu nô lệ mà đi vào con đường phong kiến hóa. Vậy chế độ phong kiến là gì? Đó là một hình thái kinh tế xã hội trong đó có hai giai cấp cơ bản là giai cấp địa chủ phong kiến và giai cấp nông dân. Giai cấp địa chủ phong kiến chiếm hầu hết ruộng đất trong xã hội, còn giai cấp nông dân thì bị mất ruộng đất nên phải cày cấy ruộng đất của địa chủ, do đó bị giai cấp địa chủ bóc lột bằng địa tô và các hình thức cưỡng bức siêu kinh tế khác. Ở Tây Âu, quá trình phong kiến hóa ở vương quốc Phrăng diễn ra tương đối tiêu biểu. Trong quá trình chinh phục, vua Phrăng đã đem những vùng đất rộng lớn phong cho những người thân cận của mình lập thành những lãnh địa. Đồng thời còn phong cho họ các tước hiệu quý tộc như Công, Hầu, Bá. Các lãnh địa và các tước hiệu quý tộc đều được truyền cho con cháu. Như vậy, chính sách 29
- phân phong ruộng đất của vương quốc Phrăng đã tạo nên một giai cấp mới là giai cấp lãnh chúa phong kiến, đồng thời cũng là giai cấp quý tộc. Đây là giai cấp ít được học văn hóa nhưng lại có tinh thần thượng võ cao. Họ lấy việc chiến đấu làm nghề nghiệp, lấy săn bắn thi võ làm trò tiêu khiển, lấy việc đấu kiếm làm biện pháp đề giải quyết xích mích và mâu thuẫn. Sau khi hình thành, giai cấp quý tộc phong kiến ở phương Tây là một giai cấp đóng kín. Họ yêu cầu phải mãi mãi giữ gìn sự thuần khiết của dòng máu quý tộc, do đó những cuộc hôn nhân giữa quý tộc và những người thuộc các giai cấp khác đều bị cấm. Xuất hiện đồng thời với giai cấp lãnh chúa phong kiến là giai cấp nông nô. Trừ một bộ phận nhỏ do nô lệ biến thành, phần lớn nông nô vốn là nông dân tự do có ruộng đất riêng. Nhưng do việc chiếm đoạt ruộng đất của chúa phong kiến, họ bị mất ruộng đất và bị lệ thuộc vào các lãnh chúa và phải nộp địa tô cho lãnh chúa và phải chịu nhiều nghĩa vụ khác. Ở Tây Âu, địa tô có ba hình thức: tô lao dịch, tô sản phẩm và tô tiền. Trong thời kì đầu, hình thức địa tô được áp dụng phổ biến là tô lao dịch. Với hình thức địa tô này, mỗi hộ nông nô đươc lãnh chúa giao cho một mảnh đất để làm ăn sinh sống. Vì nhận mảnh đất đó, họ có nghĩa vụ mỗi tuần phải đem theo súc vật và nông cụ đến làm việc trên ruộng đất của chủ từ 3 đến 4 ngày. Như vậy, cái mà lãnh chúa bóc lột nông nô chính là những ngày lao động không công trong tuần. Về sau, do sự phát triển của kinh tế hàng hóa, tô lao dịch được thay dần bằng tô sản phẩm và tô tiền. Sau khi trở thành nông nô, nông nô vĩnh viễn không được rời khỏi mảnh đất mà lãnh chúa giao cho mình, do vậy thân phận nông nô cũng cha truyền con nối cho đến khi chế độ nông nô tan rã mới chấm dứt. Sự hình thành quan hệ lãnh chúa nông nô diễn ra từ thế kỉ V đến thế kỉ X. Vì vậy thời kì này gọi là thời kì hình thành chế độ phong kiến. Trong thời kì này, nền kinh tế ở phương Tây mang nặng tính tự cấp tự túc. Kinh tế hàng hóa không tồn tại. Bắt đầu từ thế kỉ XI, thành thị công thương nghiệp ở Tây Âu ra đời. Từ đó, kinh tế hàng hóa phát triển nhanh chóng và trong xã hội xuất hiện một tầng lớp cư dân mới, đó là tầng lớp thị dân. Khi mới ra đời, thành thị được xây dựng trên đất đai của chúa phong kiến, thị dân là những nông nô từ nông thôn trốn ra thành thị, vì vậy thành thị bị lệ thuộc vào lãnh chúa phong kiến. Sang thế kỉ XII, XIII, một khi kinh tế của thành thị đã giàu, thế lực của thị dân đã mạnh, các thành thị đã dùng nhiều biện pháp để đấu tranh với lãnh chúa nhằm giành quyền tự trị cho thành thị và quyền tự do cho thị dân. Kết quả là, tất cả các thị dân đều thoát khỏi sự lệ thuộc vào lãnh chúa cũ và các thành thị giành được quyền tự trị với những mức độ khác nhau. Đặc biệt do có nền công thương nghiệp phát triến và do chính quyền phong kiến suy yếu, các thành phố Vênêxia, Phirenxê, Giênôva, Milanô, Pida ở Italia được độc lập hoàn toàn và trở thành những nước cộng hòa thành thị. Sự ra đời của thành thị vào thế kỉ XI đánh dấu chế độ phong kiến ở Tây Âu bước vào thời kì phát triển, nhưng trong đó đã tiềm ẩn những nhân tố làm tan rã chế độ phong kiến. Do có nền kinh tế hàng hóa phát tríển mạnh, ở một số thành thị Italia như Vênêxia. Phirenxê , từ thế kỉ XIV, mầm mống của chủ nghĩa tư bản đã ra đời. Đến thế kỉ XVI, chủ nghĩa tư bản đã xuất hiện phổ biến ở Tây Âu. Cũng từ đó, chế độ phong kiến bước vào thời kì tan rã. 3. Vai trò và thế lực của giáo hội La Mã Đạo Cơ Đốc ra đời vào thế kỉ I CN ở vùng Giêrudalem, thuộc đế quốc La Mã. Lúc đầu, đạo Cơ Đốc là tôn giáo của quần chúng nghèo khổ, do đó tôn giáo này đã công khai lên án sự giàu có, lên án đế quốc La Mã, do đó bị chính quyền La Mã đàn áp khốc liệt. Nhưng dần dần đạo Cơ Đốc trở thành một tôn giáo có lợi cho giai cấp chủ nô nên đến cuối thế kỉ IV được công nhận là quốc giáo của La Mã. Để quản lí việc đạo trong toàn đế quốc, đạo Cơ Đốc đã thành lập 5 trung tâm giáo hội là Côngxtăngtinôplơ, Antiốt, Giêrudalem, Alêchxăngđri và La Mã. Ở mỗi trung tâm đều do một Tổng giám mục đứng đầu. 30
- Tuy vậy, ở 4 trung tâm giáo hội phương Đông, Tổng giám mục ở Côngxtăngtinốplơ được giữ quyền lãnh đạo. Đồng thời, do Đông La Mã là một đế quốc thống nhất, ở đó chính quyền của hoàng đế rất vững mạnh nên giáo hội phải phục tùng hoàng đế. Còn ở phương Tây, từ thế kỉ V đã thành lập nhiều vương quốc của người Giécmanh. Vua và quý tộc các nước này đã nhanh chóng tiếp thu đạo Cơ Đốc làm cho thế lực của giáo hội La Mã càng thêm mạnh. Trong khi đó, Tổng giám mục La Mã tự xưng là Giáo hoàng và có mưu đồ muốn chiếm quyền lãnh đạo toàn bộ giáo hội Cơ Đốc. Để thần thánh hóa địa vị của mình, Giáo hoàng loan truyền rằng ngôi Tổng giám mục La Mã vốn do Thánh Pie, người cầm đầu các môn đồ của chúa Giêxu sáng lập. Do vậy, Giáo hoàng gọi lãnh địa của mình là “Lãnh địa kế thừa của thánh tông đồ Pie”. Do mưu đồ của Giáo hoàng muốn ngư trị trên toàn bộ giáo hội, đồng thời do sự bất đồng về cách giải thích thuyết “Tam vị nhất thể” và việc tranh giành khu vực truyền giáo nên mâu thuẫn giữa Giáo hoàng La Mã và Tổng giám mục Côngxtăngtinôplơ ngày càng sâu sắc. Sau vài lần tuyên bố khai trừ giáo tịch của nhau, năm 1054 giáo hội Cơ Đốc chính thức phân biệt thành hai giáo hội: Giáo hội phương Tây, gọi là Giáo hội La Mã hoặc Giáo hội Thiên chúa; Giáo hội phương Đông gọi là Giáo hội Hy Lạp hoặc Giáo hội chính thống. Từ đó, hai giáo hội hoàn toàn độc lập với nhau, thậm chí coi nhau như thù địch. Trong quá trình ấy, giáo lí đạo Cơ Đốc hết sức nhấn mạnh thuyết con người sinh ra ai cũng có tội. Sở dĩ như vậy là vì thủy tổ của loài người là Ađam và Evơ đã làm trái với mệnh lệnh của Chúa trời nên đã phạm tội. Vì vậy, tất cả dòng giống của họ tức là toàn thể loài người phải mang cái tội truyền kiếp. Ngoài ra, mỗi người trong cuộc đời của mình còn phạm những tội lỗi riêng. Do con người đầy tội lỗi như vậy nên sau khi chết sẽ bị đày đọa ở địa ngục. Tuy nhiên giáo hội Cơ Đốc có thể làm cho mọi người thoát khỏi sự trừng phạt sau khi chết và được hưởng hạnh phúc ở Thiên đường. Giáo hội tuyên truyền rằng tầng lớp giáo sĩ là những kẻ được ban phúc lành vì khi họ được phong những chức vụ thiêng liêng thì đờng thời họ cũng được ban những quyền lực thiêng liêng. Do vậy, bằng các nghi lễ như rửa tội, cho ăn bánh thánh các giáo sĩ được nhân danh Chúa để ban phước lành cho tín đồ. Như vậy, giáo hội không những đã làm cho các tín đồ tin tưởng mù quáng vào sự cứu vớt do giáo hội đem lại cho họ mà còn thần thánh hóa và tạo uy quyền rất lớn cho tầng lớp giáo sĩ. Ngoài ra, để được ban phước lành và đề được cứu vớt, giáo hội còn đề xướng chủ nghĩa cấm dục, thành lập các nhà tu kín, khuyên mọi người phải nhẫn nhục chịu đựng mọi khổ hạnh ở đời để sau khi chết dược hưởng hạnh phúc vĩnh viễn ở Thiên đường. Đồng thời giáo hội còn chủ trương thờ các di vật của các thánh và khuyến khích tín đồ hành hương đến các đất thánh để không những làm tăng thêm sự cuồng tín của giáo dân mà còn đề quyên tiền cho giáo hội. Như vậy, đến thời Trung đại, giáo hội La Mã là trung tâm của đạo Cơ Đốc ở phương Tây. Dựa vào uy quyền tôn giáo, giáo hội La Mã cũng có thế lực rất lớn về kinh tế, chính trị và văn hóa tư tưởng. II- Văn hoá Tây Âu từ thế kỉ V đến thế kỉ X: 1. Tình hình chung về văn hóa, giáo dục, tư tưởng Từ thế kỉ V đến thế kỉ X, cùng với sự suy sụp của nền kinh tế, văn hóa Tây Âu một thời huy hoàng cũng bị suy giảm, nghèo nàn theo. Những cuộc xâm nhập của các bộ tộc Giecman cũng đã làm hủy hoại khá nhiều những di sản của nền văn minh cổ đại ở Tây Âu. Chỉ có nhà thờ và các tu viện của đạo Cơ Đốc là không bị xâm phạm. Các vương quốc mới thành lập chưa có đủ điều kiện để chú trọng tới văn hóa, giáo dục. Hơn thế nữa, chế độ phong kiến cát cứ, tản quyền, với nền kinh tế tự cung tự cấp cũng bất lợi cho sự giao lưu văn hóa. Nông nô thì hầu hết là mù chữ. Quí tộc lãnh chúa thì nhiều kẻ cũng không thèm biết chữ. Trong các vương quốc, chỉ có mỗi trung tâm văn hóa là các trường học thuộc hệ thống nhà thờ. Nội dung giảng dạy ở các trường học tôn giáo này chủ yếu là thần học. Ngoài thần học, sinh viên còn 31