Luận văn Vai trò của tín dụng trung và dài hạn với nền kinh tế và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam

pdf 89 trang hapham 2220
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Vai trò của tín dụng trung và dài hạn với nền kinh tế và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_van_vai_tro_cua_tin_dung_trung_va_dai_han_voi_nen_kinh.pdf

Nội dung text: Luận văn Vai trò của tín dụng trung và dài hạn với nền kinh tế và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam

  1. Luận văn: Thực tiễn ra đời các gói tín dụng hiện nay và thực tiễn áp dụng tại ngân hàng ngoại thương 
  2. Lời mở đầu Sau hơn 10 năm đổi mới kinh tế, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế như: tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao, lạm phát được kiểm soát, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên trong năm 1997, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ xảy ra và ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế nước ta. Là một trong những nghiệp vụ quan trọng nhất của ngân hàng, không thể phủ nhận vai trò to lớn của hoạt động tín dụng trung dài hạn trong việc phục hồi và thúc đẩy nền kinh tế sau ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng phát triển theo hướng CNH - HĐH. Hoạt động tín dụng trung dài hạn có hiệu quả hay không không chỉ có ý nghĩa đối với mỗi ngân hàng mà còn là vấn đề quan tâm của cả nền kinh tế. Hiệu quả hay nói cách khác chất lượng tín dụng trung dài hạn phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó có yếu tố thuộc về ngân hàng nhưng cũng có yếu tố thuộc về khách hàng, chất lượng tín dụng trung dài hạn còn bị ảnh hưởng bởi các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô như các yếu tố: chính trị, tình hình phát triển kinh tế Qua một thời gian thực tập tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, em nhận thấy mặc dù Ngân hàng Ngoại thương đã có những biện pháp nhất định nhưng hoạt động tín dụng trung dài hạn còn có nhiều khó khăn và tồn tại, ngân hàng cũng chưa phát huy hết hiệu quả và vai trò của nghiệp vụ này trong việc đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế, cũng như chất lượng tín dụng trung dài hạn cũng còn nhiều bức xúc mà ngân hàng phải giải quyết. Sau khi tìm hiểu sâu vấn đề, em đã chọn đề tài: “Vai trò của tín dụng trung và dài hạn với nền kinh tế và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam”.
  3. Nội dung bài viết của em được chia thành ba chương: Chương i: Vai trò của đầu tư tín dụng và vấn đề nâng cao chất lượng trung và dài hạn trong nền kinh tế thị trường. Trong chương này em xin trình bày về một nét khái quát về tín dụng trong nền KTTT và hoạt động tín dụng trung dài hạn của NHTM. Chương ii: Thực trạng tín dụng trung dài hạn của Ngân hàng Ngoại thương tại Hội sở chính và những vấn đề đặt ra về chất lượng tín dụng trung và dài hạn. Trong chương này em trình bày về thực trạng tín dụng trung dài hạn thông qua các con số của Ngân hàng Ngoại thương thống kê từ đó đưa ra những thành tựu mà ngân hàng đã thực hiện được và các tồn tại cần phải giải quyết cùng các nguyên nhân của tồn tại đó. Chương iii: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng Ngoại thương trong thời gian sắp tới. Trong chương này, xuất phát từ những tồn tại đã nêu ở chương ii, em đưa ra một số giải pháp có thể áp dụng vào thực tế hoạt động của Ngân hàng Ngoại thương trong những năm tới. Cuối cùng, em xin chân thành cám ơn Thầy giáo Lục Diệu Toán( nguyên Vụ trưởng Vụ Tài chính – Kế toán, thuộc Bộ Khoa Học Công Nghệ Môi trường cùng toàn thể cán bộ tín dụng phòng dự án của Ngân hàng Ngoại thương đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành bài viết của mình.
  4. Chương một: Vai trò của đầu tư tín dụng và vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn trong nền kinh tế thị trường i.tổng quan về tín dụng trong nền Kttt. 1. Nhân tố và sự cần thiết của tín dụng trung và dài hạn. 1.1. Khái niệm và bản chất của tín dụng ngân hàng. Tín dụng ngân hàng là quan hệ bằng tiền tệ giữa một bên là ngân hàng, một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với một bên là các tổ chức, cá nhân trong xã hội, trong đó ngân hàng đóng vai trò vừa là người đi vay vừa la người cho vay. Ngân hàng với tư cách là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, ra đời do sự phát triển của nền sản xuất xã hội mà ở đó nhu cầu về vốn trong mọi lĩnh vực đều rất lớn cũng như lượng tiền nhàn rỗi không ngừng tăng lên. Cùng với sự phát triển của ngân hàngvà nhu cầu nội tại của nền kinh tế mà tín dụng ngân hàng đã ra đời nhằm cải thiện những vấn đề về khối lượng cho vay, thời hạn cho vay và phạm vi cho vay. Với tư cách là người đi vay, ngân hàng huy động mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội bằng các hình thức như nhận tiền gửi của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy động trong xã hội. Với tư cách là người cho vay, ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn cho các đơn vị, tổ chức, cá nhân khi có nhu cầu thiếu vốn cần được bổ xung trong hoạt động sản xuất. kinh doanh và tiêu dùng. Tín dụng thương mại đã không thể giải quyết được mọi hiện tượng thừa thiếu vốn phát sinh do chênh lệch về thời gian, số lượng giữa các khoản thu nhập và chi tiêu của tất cả các tổ chức, cá nhân trong quá trình tái sản xuất đòi hỏi phải dược tiến hành một cách liên
  5. tục. Chỉ có ngân hàng là một tổ chức chuyên kinh doanh tiền tệ mới có khả năng giải quyết mâu thuẫn đó khi nó giữ vai trò vừa là người đi vay vừa là người cho vay. Trong quan hệ tín dụng ngân hàng có ba loại quan hệ chủ yếu: - Quan hệ tín dụng ngân hàng với doanh nghiệp. - Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với dân cư. - Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với các ngân hàng khác trong và ngoài nước. Có thể nói tín dụng ngân hàng ngày nay đã và đang là nhân tố thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, điều tiết và di chuyển vốn, tăng thêm tính hiệu quả của vốn tiền tệ trong nền kinh tế thị trường. 1.2. Sự phát triển của tín dụng. 1.3. Phân loại tín dụng Nói về các hình thức tín dụng, sẽ có một số tiêu thức đưa ra và dựa vào đó tín dụng sẽ được phân chia: - Căn cứ vào thời hạn tín dụng có: Tín dụng ngắn hạn Tín dụng trung hạn Tín dụng dài hạn - Căn cứ vào đối tượng tín dụng có: Tín dụng vốn lưu động Tín dụng vốn cố định - Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn tín dụng có: Tín dụng sản xuất và lưu thông hang hoá
  6. Tín dụng tiêu dùng - Căn cứ vào chủ thể của tín dụng có: Tín dụng nhà nước Tín dụng thương mại Tín dụng ngân hàng 1.3.1 Khái niệm tín dụng trung dài hạn Tín dụng trung dài hạn: “là hoạt động tài chính tín dụng cho khách hàng vay vốn trung dài hạn nhằm thực hiện các dự án phát triển sản xuất kinh doanh, phục vụ đời sống”. Tuỳ theo từng quốc gia, từng thời kỳ mà có những quy định cụ thể của hoạt động tín dụng trung dài hạn. ở Việt Nam, về thời hạn cho vay được xác định phù hợp với thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và tính chất nguồn vốn vay của tổ chức tín dụng. Hiện nay thời hạn của tín dụng trung dài hạn được xác định như sau: Thời hạn cho vay trung hạn từ 12 tháng đến 5 năm. Thời hạn cho vay dài hạn từ 5 năm trở lên nhưng không quá thời hạn hoạt động còn lại theo quyết định thành lập hoặc giấy phép thành lập đối với pháp nhân và không quá 15 năm đối với các dự án phục vụ đời sống. Như vậy nhìn chung các khoản tín dụng trung dài hạn có các đặc trưng cơ bản sau: Chúng có thời hạn trên một năm. Chúng được trả bằng những khoản trả vay theo thời gian (có thể theo quý, tháng, năm hoặc nửa năm) trong kỳ hạn của khoản vay. Chúng thường được đảm bảo bằng những tài sản lưu động đem ra thế chấp hoặc văn tự cầm cố tài sản cố định.
  7. Mục đích của hoạt động tín dụng trung dài hạn là để đầu tư dự án, xây dựng mới, mua sắm tài sản cố định, mở rộng sản xuất kinh doanh, đổi mới cải tiến thiết bị công nghệ, ứng dụng khoa học kỹ thuật nhằm mục tiêu lợi nhuận phù hợp với chính sách phát triển kinh tế xã hội và pháp luật quy định. 1.3.2. Nguồn vốn để cho vay trung dài hạn Có thể nói rằng nguồn vốn cho hoạt động tín dụng trung dài hạn ở Việt Nam hiện nay là rất nhỏ bé được hình thành từ các nguồn sau: Nguồn vốn tự có: nguồn vốn này rất hạn chế vì nó chỉ chiếm từ 5 đến 10% tổng nguồn vốn hoạt động của ngân hàng. Nguồn vốn huy động từ hình thức phát hành trái phiếu trung dài hạn hoặc huy động tiền gửi trung dài hạn. Nguồn huy động ngắn hạn định kỳ. Nguồn này có thể được xem xét, tính trích ra một tỷ lệ phần trăm nào đó tuỳ thuộc vào sự biến động của tiền gửi. Nguồn vốn vay từ ngân hàng nhà nước. Nguồn này bị hạn chế vào chính sách tiền tệ quốc gia của NHNN. Các ngân hàng thương mại rất khó thuyết phục NHNN cho vay trung dài hạn vì nó rất dễ gây ra lạm phát, nhất là trong thời kỳ xây dựng cơ bản chưa có hàng hoá đối ứng. Nguồn nhận vốn uỷ thác và vốn tài trợ cho vay theo chương trình hoặc dự án đầu tư của nhà nước, của tổ chức kinh tế - tài chính - tín dụng trong và ngoài nước. 1.3.3. Sự cần thiết của tín dụng trung dài hạn Trong một nền kinh tế nhu cầu tín dụng trung dài hạn thường xuyên phát sinh do các doanh nghiệp luôn tìm cách phát triển mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ, Đặc biệt
  8. đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay nhu cầu về vốn xây dựng cơ bản là rất lớn, trong lúc các nhà kinh doanh chưa tích luỹ được nhiều, chưa có thời gian để tích luỹ vốn, tâm lý đầu tư trực tiếp của công chúng vào các doanh nghiệp còn hạn chế. Do vậy các doanh nghiệp khi tiến hành đầu tư chủ yếu phải dựa vào nguồn vốn tự có của mình và bộ phận chủ yếu còn lại phải dựa vào sự tài trợ của hệ thống ngân hàng. Trong hoạt động kinh doanh của mình, các doanh nghiệp ngày càng thích huy động vốn để tiến hành đầu tư thông qua hình thức đi vay trung dài hạn tại các ngân hàng hơn là việc phát hành cổ phiếu hoặc phát hành trái phiếu dài hạn vì: Việc đi vay vốn trung dài hạn ở ngân hàng sẽ làm cho doanh nghiệp có thể tự chủ và khả năng kiểm soát độc lập được hoạt động sản xuất kinh doanh của mình mà không bị pha loãng quyền kiểm soát doanh nghiệp với các cổ đông mới trong trường hợp phát hành thêm cổ phiếu mới. Trong trường hợp phát hành trái phiếu, không phải doanh nghiệp nào khi cần huy động vốn trung dài hạn chỉ cần bán trái phiếu là có người mua ngay mà còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa như uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Các nhà đầu tư chỉ tiến hành mua trái phiếu của doanh nghiệp khi họ thật sự tin tưởng vào doanh nghiệp mà yếu tố này không phải bất cứ một doanh nghiệp nào cũng có được. Khi doanh nghiệp vay vốn trung dài hạn ngân hàng, ngân hàng sẽ có thể điều chỉnh được kỳ hạn nợ, nghĩa là họ có thể trả nợ sớm hơn thời gian đến hạn trả nợ khi họ không cần phải sử dụng đến vốn vay trung dài hạn. Khi doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc trả nợ tại một thời điểm nhất định thì cũng có thể xin ngân hàng gia hạn nợ. Còn việc huy động vốn thông qua hình thức phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu thì doanh nghiệp
  9. luôn phải đối mặt với việc trả lãi trái phiếu, cổ phiếu ưu đãi khi công việc kinh doanh gặp khó khăn. Việc trả nợ vốn vay trung dài hạn cũng được ấn định theo một sự phân chia hợp lý và ổn định vì vậy các doanh nghiệp có thể chủ động tìm kiếm các khoản trả nợ một cách dễ dàng hơn. Tín dụng trung dài hạn ngày càng được các doanh nghiệp ưa thích hơn vì phù hợp với điều kiện thực tế của các doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn, các doanh nghiệp nhỏ. Các công ty cổ phần lớn cũng thích vay vốn trung dài hạn để tránh những sự phân chia quyền lợi, kiểm soát công ty do việc phát hành cổ phiếu đem lại. Trong điều kiện của Việt Nam hiện nay nhu cầu vốn tín dụng trung dài hạn cho đầu tư phát triển, mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ là rất lớn. Nhu cầu vốn này được thoả m•n một phần nhờ vốn do ngân sách nhà nước cấp phát, vay nước ngoài và một phần huy động từ dân cư. Nhưng cho dù là nguồn vốn xuất phát từ đâu, việc cung cấp vốn thông qua hệ thống ngân hàng dưới hình thức tín dụng trung dài hạn là rất quan trọng. Hệ thống ngân hàng thương mại là một hệ thống kinh doanh tiền tệ, có kinh nghiệm thẩm định các dự án, các chương trình đầu tư do vậy việc các ngân hàng thương mại cung cấp vốn trung dài hạn cho các doanh nghiệp sẽ đảm bảo lợi ích cho doanh nghiệp. Khi ngân hàng cho vay thì có thể soạn thảo hộ những doanh nghiệp các dự án đầu tư, có thể tư vấn cho các doanh nghiệp về đầu tư và giúp đỡ các doanh nghiệp trong quan hệ thanh toán với khách hàng, thông tin cho khách hàng những thông tin cần thiết. 1.3.4. Các hình thức tín dụng trung dài hạn:
  10. Hoạt động tín dụng theo dự án đầu tư: đây là hình thức tín dụng trung dài hạn chủ yếu của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay. Dự án đầu tư là tợp hợp những đề xuất dựa trên cơ sở căn cứ khoa học và thực tiễn về việc bỏ vốn để cải tạo đổi mới kỹ thuật và công nghệ những đối tượng là tài sản cố định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng hoặc nâng cao chất lượng của sản phẩm hàng hoá hay dịch vụ trong một khoảng thời gian nhất định. Dự án do doanh nghiệp đưa ra và sau khi được các cấp có thẩm quyền xét duyệt về các chỉ tiêu kinh tế, kỹ thuật, xã hội sẽ được gửi tới ngân hàng để đáp ứng nhu cầu vay vốn tài trợ của dự án. Dựa vào lĩnh vực tài trợ mà ta chia làm hai hình thức phổ biến: -) Hình thức tín dụng trung dài hạn nhằm cải tạo, khôi phục, mở rộng, thay thế tài sản cố định. Trong hình thức này, nguồn vốn của Ngân hàng tham gia vào dự án tương đối lớn, thời gian tín dụng của dự án không dài, các dự án này thường có quy mô vừa và nhỏ. Các dự án loại này đã và đang được ngân hàng tài trợ có hiệu quả. -) Hình thức tín dụng trung dài hạn nhằm để đầu tư xây dựng theo dự án mới, đổi mới kỹ thuật, ứng dụng khoa học công nghệ để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Khi tham gia vào hình thức này nguồn vốn của ngân hàng tham gia thường nhỏ hơn nguồn vốn tự có của chủ đầu tư, thời gian của dự án thường dài. Cho thuê tài chính: là hoạt động tín dụng trung dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài sản giữa bên cho thuê là tổ chức tín dụng với khách hàng thuê. Khi hết thời hạn thuê, khách hàng có thể thuê tiếp hoặc mua lại theo các thoả thuận trong hợp đồng thuê. Trong thời hạn thuê các bên không được đơn phương huỷ bỏ hợp đồng
  11. Thấu chi: tức là ngân hàng chấp thuận cho khách hàng được quyền chi vượt số dư trên tài khoản tiền gửi với những điều kiện nhất định. Chi phí cơ bản đối với người vay là lãi suất đánh vào số dư thấu chi ngày. Người vay nói chung chỉ phải trả lãi số tiền đã sử dụng vì không có yêu cầu số dư bồi thường và cho trong giai đoạn số tiền bị lấy đi. Vì lý do đó, chi phí hữu hiệu của một khoản nợ thấu chi là lãi suất được định ra trên số dư thấu chi. Bảo lãnh trung dài hạn mua thiết bị trả chậm: là cam kết của ngân hàng về việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho chủ đầu tư, đứng trả nhập thiết bị máy móc, thiết bị với thời hạn ít nhất là một năm trong trường hợp khách hàng không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ với nhà xuất khẩu. Hình thức này được áp dụng khi chủ đầu tư không đủ khả năng trả nợ ngay một lần. Họ ký hợp đồng với bên xuất khẩu xin trả nợ dần theo giá trị của thiết bị hàng năm dưới sự bảo lãnh của ngân hàng. Hình thức này rất có lợi cho chủ đầu tư vì họ không phải bỏ ra một khoản tiền lớn để mua máy móc thiết bị mà khoản tiền nay sẽ được trả dần theo một chuỗi niên kim khi các máy móc này sinh lời. Tuy nhiên, nếu chủ đầu tư không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ cho nhà xuất khẩu thì ngân hàng bảo l•nh phải đứng ra trả nợ thay cho chủ đầu tư, lúc này ngân hàng trở thành chủ nợ chính của nhà đầu tư. 2. Vai trò của tín dụng trung dài hạn trong nền kinh tế thị trường. 2.1. Đối với ngân hàng Ngân hàng là tổ chức chuyên doanh trên lĩnh vực tiền tệ, nhận gửi và huy động các nguồn tài chính nhằm mục tiêu lợi nhuận. An toàn trong lợi nhuận là mục của ngân hàng, nói cách khác ngân hàng là một kinh doanh gặp nhiều rủi ro do phần lớn tài sản có của nó
  12. là bộ phận tài sản sinh lợi lại không do ngân hàng trực tiếp sử dụng do vậy mà trong quá trình hoạt động, ngân hàng đạt được mục tiêu lợi nhuận nhưng vẫn phải đảm bảo an toàn. Vì vậy ngân hàng luôn quan tâm đến những dự án mang hiệu quả cao. Hơn thế nữa, ngày nay sản phẩm ngân hàng cung ứng ngày càng đa dạng không chỉ giới hạn trong những nghiệp vụ truyền thống như nhận gửi, cho vay hay trung gian thanh toán mà còn rất nhiều các nghiệp vụ đa dạng khác. Lợi nhuận do các nghiệp vụ này ngày một chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu lợi nhuận của ngân hàng. Một trong những khách hàng quan trọng nhất của những nghiệp vụ này không ai khác chính là các doanh nghiệp. Do vậy để tạo được mối quan hệ lâu dài trong tương lai, cũng là thị trường sinh lợi chính của mình, ngân hàng sử dụng tín dụng trung dài hạn như là một công cụ cuốn hút các khách hàng, củng cố lòng trung thành của các khách hàng truyền thống, đồng thời tạo ra các mối quan hệ mới với các khách hàng mới. Ngân hàng thông qua nguồn vốn tín dụng ưu đãi cung cấp tín dụng trung dài hạn cho các khách hàng, không những thu được lợi nhuận từ hoạt động tín dụng đem lại mà còn thu thêm được lợi nhuận từ những dịch vụ khác cung cấp cho khách hàng. Hơn nữa năng lực cung cấp tín dụng trung dài hạn cũng chứng tỏ ngân hàng có được niềm tin lớn từ khách hàng cũng như công chúng, trong giai đoạn hiện nay nó cũng chứng tỏ khả năng cạnh tranh của ngân hàng. 2.2. Đối với doanh nghiệp Trong nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển như hiện nay, các doanh nghiệp đang phải tham gia vào cuộc cạnh tranh gay gắt, đây là một thực tế tất yếu xảy ra ở bất kỳ nền kinh tế nào. Do sức ép của cạnh tranh mà các doanh nghiệp luôn có những nhu cầu đầu tư để tái sản xuất mở rộng, tăng khả năng sản xuất, phát triển thị trường, nâng cao
  13. chất lượng sản phẩm, có như vậy doanh nghiệp mới đảm bảo tồn tại và phát triển. Nhưng muốn thực hiện các kế hoạch như vậy doanh nghiệp cần có một lượng vốn nhất định. ở Việt Nam hiện nay khi mà thị trường tài chính chưa hoàn thiện thì tín dụng ngân hàng là một giải pháp tối ưu nhất cho các doanh nghiệp. Đối với tất cả các dự án trên doanh nghiệp cần phải được tài trợ bằng một nguồn vốn trung dài hạn, tín dụng trung dài hạn của ngân hàng sẽ đáp ứng nhu cầu này của doanh nghiệp. Nó giúp cho doanh nghiệp có những công nghệ mới để nâng cao chất lượng sản phẩm, củng cố vị thế của doanh nghiệp trên thị trường, giúp cho doanh nghiệp có thể chịu được những sức ép ban đầu của cạnh tranh và của môi trường kinh doanh mới, giúp cho doanh nghiệp yên tâm hơn trong đầu tư và rảnh tay tính toán với những dự án lớn, hiệu quả cao. An toàn về tài chính và khả năng thanh toán là mối quan tâm của nhiều phía đặc biệt là các doanh nghiệp. Vì vậy tín dụng trung dài hạn của ngân hàng vô cùng quan trọng đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế. 2.3. Đối với nền kinh tế Đảm bảo phát triển kinh tế theo chiều sâu: Nhu cầu về tín dụng đặc biệt là tín dụng trung dài hạn tồn tại trong tất cả các nền kinh tế, không phụ thuộc vào trình độ phát triển cũng như chế độ chính trị xã hội bởi vì tất cả các quốc gia đều có chung một nhu cầu đó là nhu cầu đầu tư để phát triển. Một nền kinh tế chỉ có thể phát triển mạnh và bền vững nếu trong nền kinh tế đó các hoạt động đầu tư được đẩy mạnh. Khác với các loại hình đầu tư khác, hoạt động tín dụng trung dài hạn cho phép các tổ chức có được nguồn vốn với thời hạn hoàn vốn lâu dài đủ để đầu tư vào các dự án mang ý nghĩa chiến lược, phát huy được hiệu quả trong trung dài hạn. Đối với các Chính phủ, đầu tư vào các công trình cơ sở hạ
  14. tầng như: đường xá, cầu cảng, sân bay, nâng cấp, xây mới các đô thị không thể đem lại hiệu quả trong chốc lát nhưng nó sẽ mang lại ích lợi to lớn sau này. Việc sử dụng có hiệu quả các nguồn tài chính trung dài hạn, đối với các chính phủ sẽ giúp họ theo đuổi được các chính sách kinh tế vĩ mô từ đó có thể hướng được đầu tư tư nhân vào các ngành mà họ đang khuyến khích phát triển, đảm bảo nền kinh tế phát triển bền vững trong dài hạn. Với những công trình lớn do Chính phủ thực hiện, sẽ tạo ra nhiều việc làm mới, hình thành nhiều công ty đứng ra phục vụ các nhu cầu còn bỏ ngỏ. Những công trình phúc lợi được tài trợ bằng nguồn vốn trung dài hạn không đem lại lợi ích cho cá nhân thực hiện nhưng lợi ích mà nó tạo ra cho toàn bộ nền kinh tế là vô cùng to lớn. Như vậy có thể nói tín dụng trung dài hạn đóng một vai trò quan trọng trong việc đảm bảo thực hiện các chương trinh kinh tế xã hội của một quốc gia, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển vững chắc, theo chiều sâu. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với mục tiêu của Chính phủ: Hiện nay ở nước ta đang tiến hành CNH - HĐH. Công nghiệp hoá không chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ và tỷ trọng sản xuất công nghiệp mà là quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn với đổi mới về công nghệ tạo nền tảng cho sự phát triển nhanh và bền vững, hiệu quả cao cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Trong điều kiện hiện nay khi thị trường vốn của nước ta chưa phát triển thì hiện tại và trong thời gian tới tín dụng trung dài hạn vẫn đóng vai trò quyết định trong việc thực hiện quá trình CNH - HĐH. Thông qua hoạt động tín dụng trung dài hạn, ngân hàng có thể cho vay đáp ứng nhu cầu phát triển của ngành kinh tế này cũng như hạn chế đối với ngành kinh tế khác. Như vậy qua chính sách tín dụng trong từng thời kỳ mà các NHTM có thể tham gia vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
  15. Tạo thị trường sử dụng vốn ngắn hạn: tín dụng trung dài hạn đầu tư cho một dự án mới để đầu tư vào các máy móc thiết bị và xây dựng cơ bản của doanh nghiệp sẽ kích thích sản xuất phát triển. Khi đó nhu cầu vôn lưu động sẽ tăng lên để đáp ứng nhu cầu sản xuất. Tốc độ phát triển sản xuất càng lớn thì nhu cầu vốn ngắn hạn càng lớn. Thúc đẩy mở rộng kim ngạch xuất nhập khẩu: Nhờ có tín dụng trung dài hạn của ngân hàng mà các doanh nghiệp có thể nhập khẩu công nghệ mới từ đó nâng cao được năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm, được thị trường quốc tế chấp nhận. Thị trường của doanh nghiệp được mở rộng ra thị trường quốc tế góp phần tăng kim ngạch xuất nhập khẩu. Đảm bảo nguồn thu vững chắc cho Ngân sách nhà nước: Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Khối lượng sản phẩm lớn được sản xuất và tiêu thụ sẽ tạo ra một nguồn thu lớn cho ngân sách từ các loại thuế như VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế XNK Trong trường hợp hàng hoá được xuất khẩu thì chúng ta sẽ thu được một nguồn ngoại tệ đáp ứng nhu cầu nhập khẩu. Ngoài ra, tín dụng trung dài hạn còn mang ý nghĩa to lớn đối với các cá nhân trong xã hội và trong toàn bộ nền kinh tế. Sản xuất phát triển, các doanh nghiệp có vốn để mở rộng sản xuất, tích luỹ trong xã hội tăng lên, nền kinh tế biến đổi về chất, phúc lợi xã hội được đảm bảo, việc làm tạo ra ngày càng nhiều, tỷ lệ thất nghiệp giảm đi đôi với chất lượng cuộc sống ngày một tăng lên của các tầng lớp dân cư trong xã hội. II. Chất lượng của tín dụng và mục đích nâng cao chất lượng tín dụng trụng và dài hạn. 1. Chất lượng tín dụng: 1.1. Khái niệm chất lượng tín dụng trung dài hạn.
  16. Tín dụng ngân hàng là một sản phẩm của ngân hàng cung ứng phục vụ các khách hàng của mình. Cũng như các sản phẩm khác nó cũng có chất lượng, tuy nhiên vì ngành ngân hàng là một ngành kinh tế đặc biệt, liên quan chặt chẽ đến nhiều lĩnh vực của nền kinh tế nên chất lượng tín dụng ngân hàng có những đặc trưng riêng. Chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu hợp lý của khách hàng có lựa chọn, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng đồng thời góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế xã hội Chất lượng tín dụng trung dài hạn là chất lượng của các khoản vay có thời hạn trên một năm, được đánh giá là có chất lượng tốt khi vốn vay được sử dụng đúng mục đích phục vụ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh đem lại hiệu quả, đảm bảo trả nợ cho ngân hàng đúng hạn vừa bù đặp được chi phí vừa có lợi nhuận vừa đem lại hiệu quả kinh tế xã hội Từ khái niệm trên ta thây rằng khách hàng, NHTM, và bối cảnh kinh tế là ba nhân tố được đề cập đến khi xem xét chất lượng hoạt động tín dụng trung dài hạn. Việc xem xét chất lượng tín dụng trung dài hạn mà thiếu đi một trong ba nhân tố đó là phiến diện vì ba nhân tố này tác động qua lại, vừa thúc đẩy vừa kiềm chế lẫn nhau. Do đó chúng ta xem xét chất lượng tín dụng trung dài hạn trên ba giác độ đó Đối với ngân ngân hàng: chất lượng tín dụng trung dài hạn thể hiện ở phạm vi, mức độ giới hạn tín dụng phải phù hợp với thực lực theo hướng tích cực của ngân hàng và phải bảo đảm được khả năng cạnh tranh trên thị trường, làm lành mạnh hoá các quan hệ kinh tế, phục vụ tăng trưởng và phát triển. Chất lượng tín dụng trung dài hạn thể hiện ở chỉ
  17. tiêu lợi nhuận hợp lý, dư nợ tăng trưởng, tỷ lệ nợ quá hạn hợp lý, đảm bảo cơ cấu giữa nguồn vốn ngắn hạn, trung dài hạn trong nền kinh tế. Đối với khách hàng: chất lượng tín dụng trung dài hạn là sự thoả mãn yêu cầu hợp lý của khách hàng với lãi suất hợp lý, thủ tục đơn giản đảm bảo thu hút khách hàng nhưng vẫn tuân thủ đúng những quy định của tín dụng, góp phần làm lành mạnh hoá tình hình tài chính của doanh nghiệp, cải thiện hoạt động sản xuất kinh doanh và duy trì sự tồn tại, phát triển của ngân hàng. Đối với nền kinh tế: khoản tín dụng trung dài hạn có chất lượng phải hỗ trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, giải quyết công ăn việc làm, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, vừa thúc đẩy tiêu dùng, thu hút tối đa nguồn vốn trong nước, đồng thời tranh thủ vốn đầu tư nước ngoài phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế. 1.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng trung dài hạn. Chỉ tiêu về huy động vốn trung dài hạn: Tổng nguồn vốn trung dài hạn và tốc độ tăng trưởng của nguồn vốn này: chỉ tiêu này thể hiện tốc độ tăng trưởng và khả năng huy động vốn trung dài hạn của ngân hàng. Vốn trung dài hạn / Tổng nguồn vốn huy động: phản ánh cơ cấu vốn trung dài hạn của ngân hàng và khả năng cung ứng vốn cho đầu tư phát triển. Ngân hàng không có cơ hội mở rộng hoạt động tín dụng nếu như tỷ lệ này quá thấp. Nhóm chỉ tiêu cho vay trung dài hạn Doanh số cho vay trung dài hạn: phản ánh lượng vốn mà ngân hàng đã giải ngân giúp doanh nghiệp trong đầu tư cải tiến máy móc thiết bị, ứng dụng công nghệ mới Con số này thể hiện xu hướng hoạt động tín dụng trung dài hạn mở rộng hay thu hẹp. Tuy
  18. nhiên việc doanh số cho vay tăng không phải lúc nào cũng là tốt và ngược lại doanh số cho vay thu hẹp không phải lúc nào cũng là xấu, vấn đề này còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tiềm lực của ngân hàng, điều kiện của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Doanh số thu nợ trung dài hạn: phản ánh lượng vốn trung dài hạn mà ngân hàng đã được hoàn trả trong một thời kỳ. Doanh số này có thể phản ánh doanh nghiệp do tình hình kinh doanh ổn định mà trả nợ ngân hàng đúng hạn hoặc ngân hàng nhận thấy những dấu hiệu không lành mạnh trong việc kinh doanh của khách hàng mà tăng cường việc thu hồi vốn. Dư nợ tín dụng trung dài hạn: là chỉ tiêu phản ánh lượng vốn trung dài hạn của ngân hàng đã được giải ngân tại một thời điểm cụ thể. Không thể đánh giá chất lượng tín dụng trung dài hạn cao hay thấp dựa vào chỉ tiêu này mà phải xem xét mức độ an toàn và tính lành mạnh của nó. Dư nợ tín dụng trung dài hạn / Tổng dư nợ: Cho biết tỷ trọng dư nợ tín dụng trung dài hạn là lớn hay nhỏ trong tổng dư nợ, đồng thời cũng cho biết mối tương quan với dư nợ tín dụng ngắn hạn. Nhóm chỉ tiêu về nợ quá hạn: Tỷ lệ nợ quá hạn trung dài hạn = Nợ quá hạn trung dài hạn / Tổng dư nợ tín dụng trung dài hạn. Để tỷ lệ này phản ánh đúng chất lượng cho vay trung dài hạn nên loại trừ các khoản nợ khoanh ra khỏi nợ quá hạn cũng như loại trừ các khoản cho vay ưu đ•i và cho vay theo chỉ định của Nhà nước ra khỏi tổng dư nợ. Tỷ lệ nợ quá hạn thông thường (cho các khoản nợ dưới 180 ngày): chỉ tiêu này có ý nghĩa với ban lãnh đạo ngân hàng trong việc đốc thúc cán bộ cho vay nhằm thu nợ
  19. đúng hạn. Tuy vậy, nó chưa phản ánh đúng chất lượng cho vay bởi những khoản vay do khách quan mà doanh nghiệp không thể trả nợ được đúng hạn nhưng doanh nghiệp có khả năng trả nợ vào một thời gian ngắn sau đó Tỷ lệ nợ quá hạn khê đọng: áp dụng cho các khoản nợ quá hạn từ 6 đến 12 tháng. Đây là khoản nợ quá hạn có vấn đề với ngân hàng, thể hiện chất lượng cho vay của khoản vay kém. Ngân hàng nếu không có biện pháp khắc phục khoản nợ này sẽ phải gánh chịu tổn thất. Tỷ lệ nợ quá hạn khó đòi: áp dụng cho các khoản nợ quá hạn trên 1 năm. Nếu tỷ lệ này cao, ngân hàng không những phải gánh chịu tổn thất mà còn có thể dẫn đến mất khả năng thanh toán. 2. Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung dài hạn: 2.1. Các nhân tố về phía khách hàng Tiềm lực tài chính của khách hàng: Thể hiện qua các chỉ tiêu như vốn tự có, hệ số nợ, khả năng thanh toán, khả năng sinh lợi hàng năm có tiềm lực tài chính mạnh, doanh nghiệp vay vốn sẽ dễ dàng hơn trong việc thoả thuận với ngân hàng về các khoản vay và dịch vụ tài chính khác cũng như uy tín của doanh nghiệp trong việc trả nợ ngân hàng Triển vọng kinh doanh: Thông thường khi doanh nghiệp đưa vốn của ngân hàng vào kinh doanh, một doanh nghiệp đang trong tình trạng thị phần của mình bị thu hẹp, nhà cung cấp không ổn định, hoạt động kinh doanh gặp nhiều khó khăn thì tất nhiên khả năng hoàn trả vốn tín dụng cho ngân hàng sẽ không được đảm bảo. Ngược lại một triển vọng kinh doanh sáng sủa đồng nghĩa với việc ngân hàng sẽ mạnh dạn trong việc tài trợ cho
  20. doanh nghiệp các nhu cầu về vốn do ngân hàng có thể xác định được các khoản tín dụng cấp cho khách hàng là có chất lượng hay không. Mức độ bảo đảm tín dụng: Nguyên tắc cho vay của ngân hàng thương mại luôn đề cập đến vấn đề tài sản đảm bảo cho khoản vay đặc biệt là đối với các khoản tín dụng trung dài hạn. Xét về cầm cố thế chấp: ngân hàng sẽ cho vay theo một tỷ lệ phần trăm nhất định trên số tài sản cầm cố thế chấp. Loại trừ sự vi phạm đạo đức kinh doanh, nếu doanh nghiệp có đủ tài sản để thế đảm bảo cho các khoản vay thì khoản cho vay này có thể được xem là ít rủi ro, từ đó chất lượng khoản cho vay này cũng được cải thiện. Xét về bảo lãnh: Một doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, có uy tín, có mối quan hệ làm ăn lâu dài với các đối tác của mình có thể nhận được sự bảo lãnh để vay vốn ngân hàng. Nếu bên bảo lãnh thường xuyên đảm bảo được năng lực tài chính và năng lực pháp lý tham gia vào hoạt động kinh doanh thì chất lượng cho vay có thể được đảm bảo. Đạo đức kinh doanh: nếu khách hàng trung thực sử dụng vốn vay đúng mục đích thì rủi ro xảy ra đối với ngân hàng sẽ ít đi do để dẫn tới quyết định cung cấp vốn trung dài hạn cho khách hàng ngân hàng đã có một quá trình xét duyệt hồ sơ xin vay và nếu như quá trình này thực hiện một cách chính xác thì khi vốn sử dụng đúng mục đích như hồ sơ xin vay, sẽ xảy ra ít rủi ro hơn. Trong thời gian qua một tỷ lệ rủi ro tín dụng tương đối cao xuất phát từ nguyên nhân sử dụng vốn sai mục đích. Đặc biệt là có một số doanh nghiệp tư nhân làm ăn theo kiều lừa đảo khiến cho các ngân hàng không dám cho vay nhiều đối với thành phần kinh tế này.
  21. Năng lực quản lý và trình độ của doanh nghiệp vay vốn: Xem xét triển vọng kinh doanh của doanh nghiệp cần xuất phát từ yếu tố con người. Thiếu năng động trong kinh doanh, không kịp thay đổi chiến lược khi môi trường kinh doanh thay đổi, đội ngũ nhân viên không có trình độ, thiếu kỷ luật sẽ làm giảm khả năng trả nợ cho ngân hàng, chất lượng khoản vay không được đảm bảo. 2.2. Các nhân tố về phía ngân hàng. Chính sách tín dụng: Với chính sách tín dụng do ngân hàng nhà nước ban hành và các ngân hàng thương mại dựa vào đó để đề ra các chính sách cho phù hợp với ngân hàng của mình. Đây là kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng là văn bản thể hiện chiến lược và đường lối của ngân hàng thương mại trong việc thực thi các giao dịch cho vay đơn lẻ cũng như chiến lược cho vay trong từng thời kỳ. Trong đó có quy trình về một nghiệp vụ cho vay chuẩn để quy định trình tự các bước tiến hành trong quá trình xét duyệt cho vay, thu nợ nhằm đảm bảo các khoản vay để tạo ra các khoản vay chất lượng tốt. Chất lượng nhân sự: Con người luôn là yếu tố quyết định đến sự thành bại của công việc. Nghiệp vụ hoạt động ngân hàng càng phát triển thì đòi hỏi chất lượng nhân sự ngày càng cao hơn. Để thực hiện tốt hoạt động tín dụng trung dài hạn thì cán bộ tín dụng phải tiến hành thẩm định dự án. Nhưng nếu trình độ hạn chế do không được đào tạo chính quy, chuyên sâu hoặc thiếu kinh nghiệm nên không đánh giá được tính khả thi của dự án, không phân tích chính xác báo cáo tài chính, khả năng quản lý của khách hàng nên thường không có quyết định chính xác về việc cho vay dự án. Bên cạnh đó, đặc biệt cán bọ ngân hàng cần phải có
  22. lương tâm và đạo đức nghề nghiệp. Một công việc có liên quan đến tiền bạc, phải là người có lòng trung thực, có lương tâm và đạo đức tốt, ý chí cao thì cán bộ tín dụng mới tránh khỏi những cám dỗ của đồng tiền. Trên thực tế đã có không ít những món vay không đảm bảo an toàn cho ngân hàng nhưng vẫn được cán bộ tín dụng cho phép, tất nhiên sau đó họ sẽ chịu trách nhiệm trước pháp luật nhưng tổn thất họ gây ra ngân hàng và nền kinh tế vẫn không tránh khỏi. Công tác thẩm định dự án Thẩm định dự án đầu tư là việc xem xét một cách khách quan toàn diện các nội dung cơ bản ảnh hưởng trực tiếp tới tính khả thi của dự án trước khi ra quyết định đầu tư và cho phép đầu tư. Mục đích của việc thẩm định dự án là giúp cho ngân hàng rút ra các kết luận chính xác về tính khả thi của dự án, bao gồm hiệu quả kinh tế và khả năng trả nợ ngân hàng từ đó ngân hàng có thể ra các quyết định cho vay hoặc từ chối. Cũng từ quá trình thẩm định , ngân hàng có thể tham gia tư vấn, góp ý cho chủ đầu tư đồng thời căn cứ vào đó để xác định số tiền cho vay, thời hạn cho vay cũng như hình thức trả gốc và l•i tạo điều kiện cho khách hàng hoạt động có hiệu quả. Nếu việc thẩm định không được thực hiện đúng với trình tự, nội dung không đầy đủ, chính xác thì khả năng xảy ra rủi ro đối với ngân hàng là rất lớn. Tuy nhiên, nếu quá trình thẩm định diễn ra quá thận trọng, tốn nhiều gian, quá trình cho vay có nhiều thủ tục rườm rà thì ngân hàng sẽ bỏ lỡ cơ hội đầu tư, làm giảm tính hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và tất nhiên chất lượng tín dụng của ngân hàng sẽ giảm sút. Công tác tổ chức của ngân hàng
  23. Công tác tổ chức không chỉ tác động đến chất lượng tín dụng mà còn tác động đến mọi hoạt động của ngân hàng. Nếu chỉ xét riêng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng, thì việc tổ chức thiếu khoa học sẽ tạo sự chồng chéo trong việc phối hợp công việc giữa các bộ phận trong ngân hàng, ảnh hưởng tới thời gian ra quyết định đối với một món vay. Tổ chức thiếu khoa học cũng có thể tạo ra sự thiếu chặt chẽ giữa các khâu, tính ỷ lại, thiếu trách nhiệm của các cán bộ tín dụng đối với công việc. Vì vậy, công tác tổ chức trong ngân hàng phải được hết sức coi trọng. Tổ chức phải đảm bảo đúng người đúng việc, phát huy được khả năng của cán bộ, tạo ra sự nhịp nhàng giữa các khâu. nếu được tổ chức một cách hợp lý, ngân hàng sẽ rút ngắn thời gian thẩm định nhưng vẫn hạn chế tối đa sự thiếu chính xác trong quá trình thẩm định, vừa đảm bảo an toàn cho ngân hàng vừa phục vụ khách hàng tốt hơn, từ đó nâng cao chất lượng tín dụng. Thông tin tín dụng Thông tin tín dụng là yếu tố cơ bản trong quản lý tín dụng, những thông tin chính xác về khách hàng sẽ giúp cho ngân hàng dễ dàng hơn trong việc ra quyết định cho vay hay không đồng thời cũng thuận tiện cho ngân hàng trong quá trình kiểm tra, giám sát khoản vay Thông tin tín dụng chính xác sẽ giúp ngân hàng hạn chế được rủi ro ở mức thấp nhất. 2.3. Các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô Môi trường kinh tế Các điều kiện kinh tế trong từng thời kỳ có ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trong đó có tín dụng trung dài hạn. Chẳng hạn trong một nền kinh tế phát triển quá nóng, Chính phủ để đảm bảo mục tiêu tăng trưởng bền vững đề ra một số biện pháp nhằm hạn chế đầu
  24. tư. Định hướng này của chính phủ sẽ tác động đến hệ thông ngân hàng thông qua chính sách tiền tệ. Các ngân hàng sẽ phải thắt chặt chính sách tín dụng, các khoản tài trợ cho nền kinh tế sẽ được xem xét một cách kỹ lưỡng hơn trước khi quyết định đầu tư thay cho các quyết định nhanh chóng trước kia, từ đó khả năng xảy ra rủi ro cho ngân hàng sẽ ít hơn. Hơn nữa để đáp ứng nhu cầu tín dụng cho một nền kinh tế đang phát triển, đòi hỏi bản thân ngân hàng cũng phải đổi mới cho phù hợp với tình hình mới. Sự đổi mới này diễn ra ở tất cả các khâu bao gồm công tác tổ chức, trang thiết bị, trình độ nhân sự chất lượng tín dụng do đó cũng được nâng lên. Môi trường chính trị - xã hội Môi trường chính trị xã hội ổn định là một điều kiện vô cùng quan trọng trong việc tạo lòng tin đối với các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư dài hạn cho hoạt đông sản xuất kinh doanh. Một môi trường chính trị - xã hội ổn định sẽ là cơ sở rất tốt cho hoạt động tín dụng trung dài hạn của ngân hàng, vì chỉ khi có nhu cầu đầu tư dài hạn trong nền kinh tế mới xuất hiện nhu cầu vay vốn trung dài hạn ngân hàng. Hơn nữa sự mất ổn định về chính trị - xã hội sẽ ảnh hưởng không tốt đến hoạt động của các doanh nghiệp và nếu doanh nghiệp này đang vay vốn ngân hàng thì rõ ràng việc thu hồi nợ của ngân hàng sẽ gặp nhiều khó khăn. Chất lượng tín dụng trung dài hạn của ngân hàng cũng bị ảnh hưởng. Môi trường pháp lý Môi trường pháp lý không chặt chẽ hoặc thiếu chặt chẽ hay thay đổi cũng gây ra ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. Môi trường pháp lý ở Việt Nam ta là một vấn đề nổi cộm. Ngay trong lĩnh vực ngân hàng, hiện nay không có một cơ quan nào chứng thực về tài sản và quản lý quá trình chuyển dịch sở hữu tài sản thế chấp để khi
  25. doanh nghiệp làm ăn thua lỗ chưa có sơ sở pháp lý để phát mại; việc thế chấp đất của thành phần kinh tế quốc doanh phải có giấy chứng nhận quyền sở hữu nhưng phần lớn là đi thuê của nhà nước; các chính sách thay đổi trong quá trình chuyển đổi cơ chế như việc sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước không đồng bộ với việc giải quyết các khoản nợ ngân hàng cũng như làm cho hoạt động thu hồi vốn kinh doanh của các ngân hàng cũng bị ảnh hưởng; các chính sách thường hay thay đổi là một bất lợi lớn vì các doanh nghiệp không dự đoán được cơ hội kinh doanh nên không thực hiện được các dự án, hoặc việc thực hiện các dự án không diễn ra theo đúng kế hoạch ảnh hưởng đến quá trình thu hồi nợ của ngân hàng. Bên cạnh các yếu tố trên còn một số yếu tố khác cũng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của ngân hàng chẳng hạn môi trường tự nhiên: thiên tai làm cho hoạt động của doanh nghiệp bị đình trệ thậm chí phá sản dẫn tới không trả nợ được cho ngân hàng. Tuy nhiên đây là một yếu tố bất khả kháng, trong trường hợp này các ngân hàng vẫn có thể tiếp tục tài trợ cho khách hàng để tiếp tục kinh doanh từ đó có thể thu hồi được cả nợ cũ lẫn nợ mới. 3. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn 3.1. Sự cần thiết phải mở rộng nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn hiện nay. a/ Về mở rộng tín dụng trung dài hạn Hoạt động của doanh nghiệp hiện nay theo nguyên tắc hạch toán kinh tế và phải chấp nhận tự bù đắp. kinh doanh có hiệu quả và có lãi là yêu cầu của hạch toán kinh tế, đồng thời cũng là một trong những điều kiện khi đi vay vốn ngân hàng. Do đó tín dụng trung dài hạn thúc đẩy doanh nghiệp quan tâm hơn đến hiệu quả kinh doanh. Việc cấp tín dụng
  26. được thực hiện trong điều kiện phải hoàn lại chi phí đầu tư. Việc xác định thời hạn hoàn trả tín dụng phải xuất phát từ tính chất luân chuyển của vật tư và chí phí. Điều đó thúc đẩy cải tiến hoạt động của doanh nghiệp. Từ đó góp phần tác động đến việc nâng cao mức doanh lợi của doanh nghiệp. Đối với nước ta, là một nước đang trong quá trình CNH - HĐH, xây dựng những tiền đề cần thiết để có những bước phát triển mạnh ở giai đoạn sau thì nhu vốn cho đầu tư phát triển là rất lớn. Theo báo cáo, thì nhu cầu vốn trong giai đoạn 2000 - 2003 của toàn bộ nền kinh tế là 56 - 57 tỷ USD, trong đó hơn 60,5% (tương đương 36 tỷ USD) là vốn từ nội bộ nền kinh tế và 40,5% còn lại là thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Mặt khác thị trường tài chính của nước ta còn kém phát triển, thị trường chứng khoán tuy đã đi vào hoạt động nhưng quy mô chưa lớn thì việc mở rộng tín dụng trung dài hạn của ngân hàng thương mại là hết sức cần thiết. b/ Về nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn Đối với nền kinh tế Thứ nhất: Chất lượng tín dụng trung dài hạn tạo điều kiện cho ngân hàng làm tốt chức năng trung gian tín dụng trong nền kinh tế quốc dân, là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, góp phần điều hoà vốn trong nền kinh tế, giảm lượng tiền mặt trong lưu thông, giải quyết mối quan hệ cung cầu về vốn. Thứ hai: chất lượng tín dụng trung dài hạn góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ, tăng trưởng kinh tế. Thứ ba: tín dụng trung dài hạn là công cụ để thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước về phát triển kinh tế xã hội, chất lượng tín dụng trung dài hạn được
  27. nâng cao sẽ góp phần làm tăng hiệu quả sản xuất xã hội, đầu tư đúng hướng để khai thác tiềm năng về tài nguyên, lao động, đảm bảo sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế, phát triển cân đối giữa các ngành nghề, các vùng trong cả nước theo hướng CNH - HĐH. Đối với ngân hàng Thứ nhất: chất lượng tín dụng trung dài hạn góp phần làm lành mạnh hoá các quan hệ tín dụng, các thủ tục về tín dụng trung dài hạn được đơn giản, thuận tiện sẽ tạo điều kiện để mở rộng quan hệ tín dụng nhưng vẫn đảm bảo an toàn cho ngân hàng. Thứ hai: chất lượng tín dụng trung dài hạn đối với sự tồn tại và phát triển của ngân hàng: làm tăng khả năng cung cấp dịch vụ do tăng nhanh vòng quay vốn tín dụng, nâng cao uy tín của ngân hàng để có thể thu hút được nhiều khách hàng hơn. nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tạo thuận lợi cho sự tồn tại lâu dài của ngân hàng bởi nó cho phép ngân hàng giữ được khách hàng trung thành và thu hút được các khách hàng khác. Đối với doanh nghiệp Thứ nhất: chất lượng tín dụng trung dài hạn được nâng cao tăng niền tin cho khách hàng đối với ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường, khách hàng có quyền chọn ngân hàng làm đối tác, khách hàng chỉ đến những ngân hàng nào giúp họ thực hiện các dự án một cách có hiệu quả thông qua các dịch vụ của ngân hàng về tín dụng. Điều này tác động ngược trở lại ngân hàng: khi chất lượng tín dụng trung dài hạn của ngân hàng được nâng cao thì thị trường của ngân hàng được mở rộng. Thứ hai: nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn góp phần phát triển hoạt động kinh doanh, lành mạnh hoá tình hình tài chính của doanh nghiệp. Chất lượng tín dụng trung dài hạn được đảm bảo thì hoạt động của ngân hàng cũng phát triển, do đó ngân hàng có
  28. điều kiện đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho các doanh nghiệp. Mặt khác để đảm bảo nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn, các ngân hàng phải giúp đỡ, kiểm tra, giám sát tình hình tài chính của doanh nghiệp, qua đó chấn chỉnh những sai sót trong hoạt động tìa chính của họ. Chính vì những lý do trên, việc củng cố và nâng cao chất lượng tín dụng là sự cần thiết khách quan để ngân hàng có thể tồn tại và phát triển vững chắc đồng thời tạo ra hiệu quả kinh tế cho toàn xã hội. 3.2. Một số kinh nghiệm để nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn. Đa dạng hoá các hình thức cho vay trung và dài hạn: Bên cạnh việc cho vay trực tiếp với những khách hàng, cần tăng cường việc cho vay hợp vốn với các dự án lớn mà một mình ngân hàng khó có thể kham nổi (tăng cường các hợp đồng đồng tài trợ). Mở rộng các nghiệp vụ cho vay bất động sản, cho vay trả góp Mở rộng thị trường cho vay: Tiến hành thu hút khách hàng thông qua chính sách cho vay ưu đãi, các ưu đãi có thể là cho vay với lãi suất thấp hoặc ưu đãi về thời hạn trả nợ áp dụng nhiều hình thức dịch vụ mới như dịch vụ tri trả hộ, dịch vụ uỷ thác, dịch vụ bảo quản tài sản, dịch vụ tư vấn khách hàng Điều chỉnh cơ cấu cho vay phù hợp với cơ cấu kinh tế đang chyển đổi. Tập trung đầu tư vào các ngành kinh tế đang có tốc độ tăng trưởng cao. Đối với nước ta, một nước đang tiến hành công nghiệp hoá, với xu hướng tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp, dịch vụ, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế thì khi tiến hành cho vay cũng cần ưu tiên cho các ngành công nghiệp và dịch vụ.
  29. Bên cạnh việc củng cố, hoàn thiện và mở rộng mạng lưới chi nhánh trong nước, ngân hàng cần tiến hành thành lập các chi nhánh ở nước ngoài nhằm mở rộng thị trường cho vay quốc tế. Tăng cường công tác đối ngoại, hợp tác với các ngân hàng, tổ chức tín dụng quốc tế nhằm mở rộng thị trường cho vay liên ngân hàng. Nâng cao trình độ đội ngũ tín dụng: con người là nhân tố mấu chốt của mọi thắng lợi, trình độ của cán bộ ngân hàng được nâng cao. Có trình độ chuyên môn, am hiểu nhiều lĩnh vực khác nhau có liên quan đến hoạt động tín dụng trung dài hạn, được trang bị những kiến thức về sự phát triển của kinh tế thị trường, kiến thức về Marketing với việc đáp ứng nhu cầu, thoả mãn mọi mong muốn của khách hàng. Tăng cường đổi mới công nghệ ngân hàng: trang bị, nâng cấp máy móc thiết bị tin học công nghệ là đòn bẩy của sự phát triển, là điều kiện để một ngân hàng hội nhập vào cộng đồng tài chính ngân hàng quốc tế. Hiện đại hoá công nghệ nhằm nâng cao chất lượng phụ vụ, đáp ứng nhu cầu quản lý và tăng cường cạnh tranh để có thị phần khách hàng lớn trong hệ thống ngân hàng quốc gia. Nâng cao chất lượng hoạt động kiểm soát, kiểm tra và kiểm toán nội bộ: ở Việt Nam công tác kiểm tra, kiểm soát còn yếu trong những năm qua còn yếu nên đây là một trong những chương trình hành động quan trọng để đảm bảo cho hoạt động của ngân hàng đi đúng hành lang pháp lý, thực hiện các biện pháp an toàn và kinh doanh có hiệu quả. Đồng thời tăng cường tập trung chỉ đạo công tác kiểm toán để nhìn nhận một cách khách quan thực trạng tài chính của các doanh nghiệp vay vốn cũng như đơn vị mình.
  30. Nâng cao chất lượng thẩm định của các dự án về cả mặt tài chính cũng như về mặt kỹ thuật của dự án đó. Giảm nợ quá hạn, tăng cường khai thác tài sản xiết nợ gồm có tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh có nghĩa là hạn chế nợ quá hạn mới phát sinh, quản lý và sử dụng các tài sản xiết nợ tốt hơn. Đối với các khoản nợ quá hạn trước đây có thể thu hồi lại bằng một số biện pháp: Đối với khách hàng gặp khó khăn nhất thời trong sản xuất kinh doanh, ngân hàng có thể giảm lãi suất, thu nợ gốc trước, tạo điều kiện cho khách hàng trả nợ Trong trường hợp bên vay cố tình không trả nợ, ngân hàng kiên quyết yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền can thiệp nhằm thu hồi nợ Đối với các khoản vay không thu được nợ, nếu có thể thu hồi bằng tài sản, ngân hàng cần nhanh chóng nắm giữ hồ sơ gốc của các tài sản này, tránh để các ngân hàng khác hoặc chủ nợ khác nắm giữ. Lập các quỹ đề phòng rủi ro để làm nguồn tài chính quan trọng cho việc bù đắp các khoản xoá nợ, khoanh nợ, giãn nợ, làm lành mạnh hoá tình hình tài chính của ngân hàng. Nợ không thể đòi được do doanh nghiệp phá sản, giải thể có thể giải quyết bằng quỹ phòng ngừa rủi ro, nếu chưa có quỹ này thì chờ khi nào trích được quỹ phòng ngừa rủi ro thì xử lý Nợ có thể đòi được thì ngân hàng cùng ban lãnh đạo của doanh nghiệp cùng bàn bạc để tìm ra biện pháp trả nợ, kể cả trường hợp bán nợ Tham gia bảo hiểm cho các khoản vay trung dài hạn để đề phòng những rủi ro không lường trước được như thiên tai, hoả hoạn, chính trị
  31. Đa dạng hóa danh mục đầu tư: không nên hạn chế vào một số ít doanh nghiệp, ngành nghề kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh mà nên đầu tư vào tất cả các lĩnh vực với một cơ cấu hợp lý để phân tán rủi ro khi tình hình kinh doanh của một ngành nghề, một số các doanh nghiệp bị xấu đi. Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn thông qua việc thu hút các nguồn tiền gửi của các tổ chức kinh tế, của dân cư để tạo nguồn. Từ đó ngân hàng có cơ sở để tiến hành cho vay trung dài hạn. Đặc biệt nguồn tiền gửi có kỳ hạn dài, đây là một nguồn quan trọng để ngân hàng có tiềm lực mạnh trong việc cho vay trung dài hạn. Ngân hàng cần có những giải pháp mới trong việc huy động vốn qua các kênh: hoàn thiện các hình thức huy động vốn hiện có, áp dụng thêm các hình thức huy động mới với thủ tục đơn giản, có khả năng chuyển nhượng dễ dàng, với các phương thức trả lãi linh hoạt III. Cơ chế tín dụng trung và dài hạn.
  32. CHƯƠNG HAI: THựC trạng tín dụng trung dài hạn tại ngân hàng ngoại thương việt nam và những vấn đề đặt ra về chất lượng tín dụng trung và dài hạn i.Tổng quan về ngân hàng ngoại thương việt nam. 1.Lịch sử hình thành và phát triển Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam được thành lập vào năm 1963, với chức năng là ngân hàng phục vụ kinh tế đối ngoại duy nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Từ tổ chức tiền thân là Cục quản lý Ngoại hối của Ngân hàng quốc gia. Ngân hàng Ngoại thương ra đời đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong hoạt động ngân hàng của Việt Nam. Trong hơn 35 năm hoạt động, không ngừng phát triển và trưởng thành, Ngân hàng Ngoại thương đã đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế đất nước đặc biệt là từ khi đất nước ta chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường - hướng mạnh về xuất khẩu - có sự quản lý của nhà nước và đinh hướng xã hội chủ nghĩa. Khi thành lập Ngân hàng Ngoại thương chỉ có một cơ sở ở Hà Nội, ngày nay ngân hàng đã trở thành một hệ thống hoàn chỉnh gồm Ngân hàng Ngoại thương Trung ương và 23 chi nhánh tại các tỉnh thành phố, duy trì mối quan hệ với hơn 1000 Ngân hàng khác tại 85 nước trên thế giới nhằm đảm bảo thực hiện các nghiệp vụ thanh toán, tín dụng quốc tế và các nghiệp vụ ngân hàng khác, an toàn và từng bước nâng cao hiệu quả hoạt động của Ngân hàng ngoại thương. 2. Hệ thống tổ chức của Ngân hàng ngoại thương hiện nay Trong thời gian qua, ngân hàng đã triển khai mô hình tổ chức mới theo loại hình doanh nghiệp nhà nước đặc biệt, bao gồm các đơn vị thành viên có quan hệ chặt chẽ với nhau về
  33. lợi ích kinh tế, tài chính, công nghệ, thông tin, đào tạo trong hoạt động kinh doanh. Ngân hàng Ngoại thương hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, tín dụng và các hoạt động liên quan đến hoạt động tài chính, tiền tệ, ngân hàng. Sơ đồ tổ chức ngân hàng ngoại thương Việt Nam. Cơ quan cao nhất của Ngân hàng Ngoại thương là hội đồng quản trị mà đứng đầu là vị chủ tịch. Hội đồng quản trị là nơi đề ra các chiến lược kinh doanh chủ yếu cũng như các chế độ chính sách lớn của ngân hàng. Ban kiểm soát có nhiệm vụ giám sát các hoạt động của Hội đồng. Tổng giám đốc trực thuộc Hội đồng quản trị thay mặt Hội đồng quản trị để điều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày của ngân hàng. Ngoài ra theo cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Ngoại thương còn có một hội đồng tín dụng giám sát hoạt động tín dụng của Tổng giám đốc ngăn ngừa những vi phạm chế độ tín dụng có thể xảy ra. Tại VCB Trung ương có 23 phòng ban có nhiệm vụ phối hợp với nhau để giúp cho Tổng giám đốc điều hành công việc kinh doanh. 3. Các nghiệp vụ của Ngân hàng Ngoại thương Trong khuôn khổ của pháp luật, Ngân hàng Ngoại thương có quyền thực hiện các nghiệp vụ: 1. Huy động vốn Nhận tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền gửi thanh toán của tất cả các tổ chức, dân cư trong nước và nước ngoài bằng đồng Việt Nam hoặc ngoại tệ. Phát hành các loại chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng và các hình thức huy động vốn khác.
  34. 2. Tiếp nhận tài trợ, vốn uỷ thác của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức quốc tế, quốc gia, cá nhân khác cho các chương trình phát triển kinh tế x• hội. 3. Vay vốn ngân hàng Nhà nước, các tổ chức tài chính tín dụng khác trong và ngoài nước, các tổ chức và cá nhân nước ngoài. 4. Cho vay Cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn bằng đồng Việt Nam đối với cá nhân và hộ gia đình thuộc mọi thành phần kinh tế. Chiết khấu các thương phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá trị khác trị giá bằng tiền. 5. Thực hiện các nghiêp vụ cho thuê tài chính (kể cả nhập khẩu và tái xuất thiết bị cho thuê). 6. Thực hiện nghiệp vụ thanh toán L/C, bảo lãnh, tái bảo lãnh cho các doanh nghiệp, tổ chức tài chính tín dụng trong và ngoài nước. 7. Thực hiện nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng đối ngoại 8. Đầu tư dưới hình thức mua cổ phần, hùn vốn, liên doanh, mua tài sản và các hình thức đầu tư khác với các doanh nghiệp và tổ chức tài chính tín dụng khác. 9. Thực hiện nghiệp vụ cầm cố bất động sản. 10. Kinh doanh vàng bạc, kim khí quí, đá quí (kể cả xuất nhập khẩu). 11. Làm dịch vụ thanh toán giữa các khách hàng. 12. Kinh doanh chứng khoán và làm môi giới, đại lý phát hành chứng khoán cho khách hàng.
  35. 13. Cất giữ bảo quản và quản lý các chứng khoán, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các tài sản quý cho khách hàng. 14. Thực hiện các dịch vụ tư vấn về tiền tệ, đại lý ngân hàng quản lý tiền vốn và các dự án phát triển theo yêu cầu của khách hàng. 15. Đầu tư, sửa chữa, cải tạo, nâng cấp tài sản thế chấp, cầm cố đã được chuyển thành tài sản thuộc sở hữu Nhà nước do Ngân hàng Ngoại thương quản lý để sử dụng hoặc kinh doanh; tự doanh hoặc liên doanh dầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật trực tiếp phục vụ kinh doanh và được phép cho thuê phần năng lực cơ sở vật chất kỹ thuật chưa sử dụng. 16. Thực hiện dịch vụ bảo hiểm. 17. Kinh doanh những ngành nghề khác theo qui định của pháp luật khi được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép. 18. Thực hiện các nghiệp vụ uỷ nhiệm khác của Nhà nước và ngân hàng nhà nước. 4.Tình hình hoạt động của Ngân hàng Ngoại thương năm 2001 Mặc dù tình hình tài chính, tiền tệ quỗc tế có nhiều biến động không thuận lợi, nghành ngân hàng đã đạt được những thành tựu rất đáng trân trọng trên mọi mặt. Các nhà tài chính quốc tế đánh giá cao nỗ lực và thiện chí cửa Chính phủ cũng như Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nhằm cải thiện môi trường kinh doanh phù hợp với xu thế toàn cầu hoá, thông qua hàng loạt các biện pháp như tự do hoá từng bước lãi suất, điều chỉnh cơ chế tín dụng, hối đoái theo hướng linh hoạt, tuân theo quy luật thị trường. Điểm nổi bật nhất trong hoạt động ngân hàng năm qua là việc thực hiện mạnh mẽ chủ trương tái cơ cấu ngân hàng của Chính phủ. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ngân hàng
  36. Nhà nước, các ngân hàng thương mại đã triển khai thực hiện đề án tái cơ cấu theo lộ trình đề ra với mục tiêu xử lý dứt điểm nơ tồn đọng, nâng cao năng lực tài chính, tăng cường hiệu quả công tác quản trị, điều hành, ngăn ngừa rủi ro trong kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh và từng bước phấn đấu đạt các tiêu chuẩn quốc tế về hoạt động ngân hàng. Được sự chỉ đạo, quan tâm kịp thời của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và với sự nỗ lực của toàn bộ hệ thống, Ngân hàng Ngoại thương đã gặt hái được những thành tựu khả quan. Có thể đánh giá năm 2001 là một năm kinh doanh thành công của Ngân hàng Ngoại thương trên con đường đổi mới và hoà nhập với quốc tế. 4.1. Nguồn vốn Tổng nguồn vốn tăng trưởng mạnh và liên tục. Đến cuối tháng 12 năm 20002 tổng nguồn vốn của Ngân hàng Ngoại thương đạt 76.682 tỷ quy VND, tăng hơn 16,8% so với cuối năm 2000. Nếu ngoại trừ yếu tố tỷ giá thì tổng nguồn vốn tăng ở mức 47,1% vượt chỉ tiêu kế hoạch đặt ra là35%. 4.2. Hoạt động tín dụng Tổng dư nợ tín dụng đạt 16.504 tỷ quy đồng Việt Nam, tăng 6% so với năm 2000. Với mục tiêu thắt chặt tín dụng an toàn nên tốc độ tăng trưởng không cao song chất lượng tín dụng được cải thiện rõ rệt. Năm 2001 là năm Ngân hàng Ngoại thương có mức nợ quá hạn phát sinh thấp nhất(3%) kể từ năm 1997. Luật doanh nghiệp cùng với chủ trưong khuyến khích đầu tư không phân biệt thành phần kinh tế của Chính phủ đã tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển. Đón bắt xu hướng mới, trong năm qua Ngân hàng Ngoại thương đã chủ động tiếp cận và mở rộng giao dịch với các nhóm doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Do
  37. vậy, tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã tăng trưởng đáng kể (7,8%). Cũng trong năm, 500 tỉ VND đã được dành ra để thành lập “quỹ hộ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ”. Tuy nhiên, dư nợ tín dụng đối với khu vực này vẫn chiếm tỉ trọng hạn chế khoảng 25% trong tổng dư nợ. 4.3 Thanh toán quốc tế Thanh toán xuất nhập khẩu trong năm 2001 đạt 12.854,1 triệu USD, tăng 40,1% so với năm 2000, và chiếm thị phần 30,2% trong thanh toán xuất nhập khẩu của cả nước - vượt chỉ tiêu so với kế hoặc đầu năm đề ra là giữ thị phần thanh toán 29%. Trong đó thanh toán xuất khẩu đạt 5.399 triệu USD, tăng 29,7% so với năm 2000, đưa thị phần của ngân hàng ngoại thương trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước tăng từ 28,3% năm 2000 lên 29,1% trong năm 2001. Doanh số thanh toán hàng nhập khẩu qua ngân hàng ngoại thương trong năm là 7.537,1 triệu USD, tăng 51,1% so với năm 2000, cao hơn nhiều so với tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của cả nước (30,8%), dẫn đến thị phần thanh toán hàng nhập khẩu của ngân hàng ngoại thương tăng lên 33,0% từ 28,5% năm 2000. 4.3. Thanh toán phi mậu dịch Trong năm 2001, doanh số thu chi phi mậu dịch qua ngân hàng ngoại thương đạt 2.343,6 triệu USD, giảm 5,5% so với năm trước. Doanh số thu đạt 1.798 triệu USD giảm 1,7% chủ yếu vì doanh số đổi tiền giảm 47,7%. Thu từ kiều hối đạt 3.260,7 triệu USD tăng 20,1%. Doanh số chi đạt 557 triệu USD, giảm 11,3%, chủ yếu là do giảm doanh số chi từ các tổ chức cơ quan và người nước ngoài tại Việt Nam, chi kiều hối và đổi tiền 4.4. Phát hành và thanh toán thẻ tín dụng
  38. Tổng số thẻ phát hành năm 2001 là 3.406 thẻ, tăng 130% so với năm 2000, nâng tổng số thẻ phát hành từ trước đến nay lên 7.029 thẻ. Doanh số thanh toán thẻ năm 2001 đạt 86,5 triệu USD. Hầu hết doanh số các loại thẻ đều tăng, riêng thẻ Amex bị giảm vì tổ chức thẻ Amex đã ký thêm hợp đồng thanh toán với ngân hàng khác nên thị phần của ngân hàng ngoại thương bị phân chia. Số phí dịch vụ thu được từ phát hành thẻ đạt 840.270 USD trong năm 2001 giảm 7% do ngân hàng ngoại thương có trủ trương thu hút khách hàng nên giảm tỷ lệ thu phí đối với các đơn vị chấp nhận thẻ. 4.5. Kinh doanh ngoại tệ. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ trong năm 2001 của ngân hàng ngoại thương diễn ra trong tình hình khan hiếm ngoại tệ kéo dài. Tổng doanh số mua vào là 4.826 triệu USD tăng 31% so với năm ngoái, trong khi đó tổng doanh số bán ra là 4.743 triệu USD. Mặc dù có sự hỗ trợ của NHNN trong việc mua bán ngoại tệ phục vụ xuất nhập khẩu nhưng ngân hàng ngoại thương vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc cân đối ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp nhập khẩu. 4.6. Hoạt động ngân quỹ Mặc dù khối lượng công việc lớn nhưng công tác ngân quỹ ở ngân hàng ngoại thương vẫn đảm bảo an toàn tuyệt đối, không xảy ra trường hợp nào mất ngân quỹ. Cán bộ kiểm tra đã trả lại 1582 món tiền thừa cho khách với tổng số tiền là 1.874 triệu VND và 19200 USD. Trong năm 2001 toàn hệ thống đã phát hiện được số tiền giả là 483 triệu VND và 16200 USD. 4.7. Một số hoạt động khác
  39. Công tác đối ngoại: ngân hàng ngoại thương trong năm 2001 đã có những bước tiến đáng kể trong việc cũng cố và mở rộng mối quan hệ với ngân hàng trên thế giới: Kết nghĩa giữa các chi nhánh ở Huế, Hà Tĩnh, Vinh với các chi nhánh ngân hàng của ngân hàng Lào. Ký thoả ước với City Bank, Scotia Bank về thực hiện một số mặt nghiệp vụ ngân hàng Công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ (KTKTNB) đang từng bước được hoàn thiện về chức năng nhiệm vụ cũng như tổ chức hoạt động. Trong năm 2001 bộ phận KTKTNB tại trung ương đã tiến hành kiểm tra tại một số chi nhánh phát hiện và chấn chỉnh một số sai sót trong việc thực hiện đầy đủ các quy định về kiểm toán, đối chiếu số dư tiết kiệm và quy trình tín dụng tại các chi nhánh này. Công tác đào tạo cán bộ tại ngân hàng ngoại thương thường xuyên được coi trọng. Ngoài đội ngũ cán bộ lãnh đạo đã được củng cố và tăng cường, trong năm 2001 ngân hàng đ• tổ chức cho 470 lượt cán bộ tham gia các khoá đào tạo, học tập, khảo sát ngắn hạn trong và ngoài nước. Cũng trong năm 2001, ngân hàng đã hoàn thiện hồ sơ mời thầu và tổ chức lễ mời thầu giai đoạn một và hiện đã lập xong báo cáo lượng thầu giai đoạn 1 gửi NHNN và ngân hàng thế giới xin phê duyệt. Công tác kế toán tài chính đã được thực hiện tốt góp phần vào quản lý an toàn vốn và tài sản, nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Tại thời điểm 01/01/2001 được NHNN đánh giá là một trong những ngân hàng thực hiện đầy đủ các báo cáo không sai sót và nộp đúng hạn. ii. Thực trạng tín dụng trung dài hạn tại ngân hàng ngoại thương Việt Nam. 1. Một số quy định về cho vay trung dài hạn tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
  40. Ngân hàng Ngoại thương chủ động tìm kiếm các dự án khả thi, có khả năng hoàn trả nợ vay và tự chịu trách nhiệm về các quyết định cho vay của mình Ngân hàng Ngoại thương xem xét và quyết định cho vay khi các khách hàng thoả m•n: Các pháp nhân phải có trách nhiệm dân sự: Các cá nhân và chủ doanh nghiệp tư nhân phải có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự. Các khách hàng phải mở tài khoản tại ngân hàng ngoại thương nơi vay vốn (không bắt buộc với các cá nhân, hộ gia đình hoặc trường hợp cho vay hợp vốn mà ngân hàng ngoại thương không phải là đầu mối) Có khả năng tài chính trong thời hạn cam kết, tức là tình hình tài chính lành mạnh, kinh doanh có hiệu quả, các báo cáo tài chính theo định kỳ phải phù hợp với quy định của pháp luật. Mục đích sử dụng vốn vay phải hợp pháp theo đúng hợp đồng ký khi tiến hành vay vốn của ngân hàng. Có dự án đầu tư hoặc phương án kinh doanh khả thi, có hiệu quả; tức là dự án đó mang lại lợi ích cho số đông và có khả năng hoàn trả vốn vay khi đến hạn. Thực hiện các quy định về đảm bảo tiền vay theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của NHNN và ngân hàng ngoại thương Việt Nam. Thời hạn cho vay được xác định là: Đối với cho vay trung hạn từ trên 12 tháng cho đến 60 tháng (5 năm), nhưng không quá thời hạn hoạt động còn lại theo quyết định thành lập hoặc giấy phép thành lập đối với pháp nhân.
  41. Đối với cho vay dài hạn từ trên 60 tháng nhưng không vượt quá thời hạn hoạt động còn lại theo quyết định thành lập hoặc giấy phép thành lập đối với pháp nhân và không vượt quá 15 năm đối với cho vay các dự án phục vụ đời sống. Mức lãi suất cho vay do ngân hàng ngoại thương và khách hàng thoả thuận phù hợp với quy định của NHNN về lãi suất cho vay tại thời điểm ký hợp đồng và phù hợp với biểu l•i suất công bố của ngân hàng do Tổng giám đốc ngân hàng ngoại thương quy định trong từng thời kỳ. Đối tượng cho vay trung và dài hạn: Cho vay để thanh toán tiền nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ Cho vay bắt buộc thanh toán nợ nước ngoài do ngân hàng ngoại thương bảo lãnh và cho vay với các đối tượng không trái với quy định về quản lý của Nhà nước và được Thống đốc NHNN chấp nhận Mức cho vay: được xác định căn cứ vào nhu cầu vay vốn của khách hàng, tỷ lệ cho vay tối đa so với giá trị tài sản đảm bảo nợ vay theo đúng luật và tuỳ thuộc vào vốn tự có của khách hàng, khả năng trả nợ của khách hàng, khả năng nguồn vốn của ngân hàng ngoại thương. Mức phán quyết cho vay tối đa do Tổng giám đốc ngân hàng ngoại thương quy định. Thông thường là: Mức cho vay = tổng nhu cầu vốn của dự án – Vốn tự có của các bên tham gia – Nguồn vốn huy động khác (trong đó có vay của các tổ chức tín dụng khác). Tổng nhu cầu vốn bao gồm cả vốn cố định và vốn lưu động Việc phát tiền vay, ngân hàng sẽ tiến hành thực hiện theo quy định của hợp đồng trong thời hạn rút vốn. Trả gốc và lãi:
  42. Do ngân hàng và khách hàng thoả thuận có thể trả nợ gốc và lãi theo một kỳ hạn hoặc nhiều kỳ hạn Khi đến kỳ hạn trả nợ hoặc kết thúc thời hạn cho vay, khách hàng phải chủ động chuyển tiền trả nợ. Nợ chưa có khả năng trả nợ đúng hạn thì khách hàng phải gia hạn nợ nếu không ngân hàng sẽ tự động trích tiền trong tài khoản tiền gửi của khách hàng để thu nợ gốc và lãi. Nếu số dư trong tài khoản không đủ thu nợ thì số nợ này có thể chuyển sang nợ quá hạn và khách hàng phải chịu lãi suất nợ quá hạn. Phương thức cho vay: Khi khách hàng có nhu cầu vay vốn không thường xuyên, thì ngân hàng áp dụng hình thức cho vay từng lần. Trong thời hạn rút vốn của hợp đồng khách hàng có thể rút vốn nhiều lần hoặc một lần nhưng tổng số tiền rút ra không vượt quá số tiền vay. Mỗi lần rút vốn vay, khách hàng phải nhận giấy tờ nhận nợ theo mẫu quy định của ngân hàng ngoại thương cùng các giấy tờ cần thiết khác. Trường hợp cho vay ngoại tệ mở LC thanh toán hàng nhập khẩu, khách hàng làm thủ tục ký nhận trên giấy nhận khi mở LC; ngân hàng ghi nợ khách hàng từ ngày chính thức thanh toán cho ngân hàng nước ngoài hoặc từ ngày ngân hàng nước ngoài ghi nợ ngân hàng ngoại thương. Ngân hàng ngoại thương có thể cho vay theo hạn mức khi giữa ngân hàng và khách hàng có một thoả thuận về một hạn mức cho vay trong thời hạn nhất định hoặc theo chu kỳ sản xuất kinh doanh áp dụng với khách hàng có nhu cầu vay vốn thường xuyên và có tín nhiệm với ngân hàng. Và các cán bộ ngân hàng luôn phải thực hiện kiểm tra đảm bảo nợ vay bằng phương pháp tính toán cân đối vật tư đảm bảo nợ vay.
  43. Cho vay theo dự án đầu tư để phát triển sản xuất, cơ sở hạ tầng, kinh doanh, phục vụ và các sự án phục vụ đời sống. Đối với các dự án cải tiến kỹ thuật, mở rộng sản xuất, hợp lý hoá sản xuất phải có vốn tự có tối thiểu tham dự dự án bằng 15% tổng mức vốn đầu tư. Đối với dự án mới khách hàng phải có tối thiểu bằng 20% tổng mức đầu tư . Giới hạn cho vay: Tổng dư nợ cho vay với một khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng ngoại thương tại thời điểm xét cho vay, trừ trường hợp có chỉ thị của Chính phủ Ngoài ra còn một số các quy định khác như lập hồ sơ vay vốn, thẩm định và quyết định cho vay, gia hạn nợ 2.Thực trạng tín dụng trung dài hạn tại ngân hàng ngoại thương Việt Nam 2.1. Tình hình huy động vốn trung dài hạn Trong những năm qua, nguồn vốn của ngân hàng ngoại thương đã tăng trưởng mạnh mẽ Bảng 1: Tình hình huy động vốn tại ngân hàng ngoại thương Việt Nam (Tỷ đồng) Vốn huy động 62.457 100% 100.112 100% 60,3% Vốn kỳ hạn 45.623 73,1% 74.565 65,1% 19,6% Vốn kỳ hạn thị trường i 34.435 75,5% 48.290 70,2% 11,2% Vốn kỳ hạn thị trường ii 11.188 24,5% 16.275 29,8% 45,5% Vốn kỳ hạn trên 12 tháng 16.834 26,9% 25553 34,9% 51,8% (Nguồn:BCKQKD của Ngân hàng Ngoại thương năm 2002)
  44. Năm 2000 tăng 32,6% so với năm 1999, năm 2001 tăng 34,4% so với năm 2000 và tốc độ tăng trưởng nguồn vốn của năm 2002 là 60,3% so với năm 2001 (vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra là 25%) đạt mức 71.116 tỷ VND (số liệu tại thời điểm 31/12/2002). Nguồn vốn huy động tại ngân hàng ngoại thương cũng tăng trưởng liên tục trong các năm gần đây: Năm 2001 vốn huy động từ hai thị trường đạt 62.457 tỷ, năm 2002 đạt 100.112 tỷ, tăng 60,3% so với năm 2001. Trong tổng nguồn vốn huy động tại hai thị trường nguồn vốn kỳ hạn đến cuối năm 2001 (31/12/2001) đạt 45.623 tỷ quy VND tăng 84,2%, chiếm 73,1% tổng vốn huy động từ hai thị trường cao hơn mức 54,7% cuối năm 2000. Trong đó 74,5% tổng vốn kỳ hạn huy động trên thị trường i, 25,5% huy động trên thị trường ii. Điều đáng chú ý là tiền gửi có kỳ hạn trên 12 tháng trở lên trong những năm gần đây có tốc độ tăng trưởng cao và chiếm tỷ trọng lớn: năm 2001 tiền gửi trên 12 tháng đạt 16.834 tỷ quy VND, năm 2002 đạt 25.553 tỷ quy VND tăng 51.8% so với năm 2001 và chiếm 34,9% tổng vốn huy động. Đây là yếu tố thuận lợi cho ngân hàng ngoại thương mở rộng cho vay trung dài hạn. Việc tăng trưởng nguồn vốn trong những năm gần đây, đặc biệt là sự tăng trưởng mạnh vào năm 2000 là do tác động của một số nhân tố sau: Ngân hàng ngoại thương đã chủ động cải thiện huy động vốn bằng biện pháp đa dạng hoá các hình thức huy động, bổ sung các kỳ hạn lãi suất khác nhau, linh hoạt điều chỉnh lãi suất, áp dụng chính sách ưu đãi lãi suất đối với khách hàng có số dư lớn
  45. Lãi suất USD trên thị trường quốc tế tăng mạnh kéo theo việc tăng lãi suất của thị trường trong nước đã khuyến khích dân cư tăng cường gửi USD trong khi đó ngân hàng ngoại thương lại có thế mạnh trong việc huy động nguồn vốn này Nguồn kiều hối trong năm tăng mạnh, nhất là vào những tháng cuối năm. 2.2. Tình hình cho vay trung dài hạn 2.2.1. Cho vay, thu nợ và dư nợ trung dài hạn Bảng 2: Tình hình cho vay trung dài hạn: (tỷ VND) Cho vay 1385 30% 1869 35% 2805 50% 4488 60% Thu nợ 1973 136% 1419 -28% 1560 10% 2185 39% Dư nợ 2516 -19% 2966 17% 3878 30% 6398 65% (Nguồn:BCKQKD của ngân hàng ngoại thương các năm 1999, 2000, 2001, 2002) Doanh số cho vay đạt tốc độ tăng trưởng khá, tốc độ tăng trưởng cho vay những năm gần đây liên tục tăng, mặc dù trong các năm 1998 và 1999 nền kinh tế nước ta bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực. Năm 2000 doanh số cho vay tăng 35% so với năm trước, con số này trong các năm tiếp theo lần lượt là 50% và 60%. Do việc tăng doanh số cho vay tăng trưởng, dư nợ tín dụng trung dài hạn của ngân hàng ngoại thương cũng tăng trưởng theo. Trong các năm 1999 và 2000 tốc độ tăng trưởng dư nợ khá chậm. Năm 1999 dư nợ giảm 19% so với năm 1998 tuy nhiên đây là kết quả của việc thu nợ tăng đột biến: thu nợ năm 1999 tăng 136% so với năm 1998. Thực hiện chính sách kích cầu của Chính phủ: năm 1999 ngân sách nhà nước đã cấp vốn cho Vaxuco để thanh toán khoản vay 70,6 triệu USD, và việc Tổng công ty điện lực Việt Nam thanh toán khoản nợ trước hạn trên 8 triệu USD Năm 2000 dư nợ tín dụng trung dài hạn tăng cao hơn nhưng
  46. vẫn ở mức thấp đạt 2966 tỷ quy VND, tăng 17% so với năm 1999. Nguyên nhân là các dự án lớn như dự án khí Nam Côn Sơn, dự án điện Phú Mỹ 2.1, công ty Bia Hà Nội, công ty cổ phần đầu tư xây dựng vẫn chưa được giải ngân. Đến năm 2001 và 2002 dư nợ tín dung tăng trưởng một cách mạnh mẽ, tăng 10% so với 2000 và 39% so với năm 2001, đạt 2185 tỷ VND. Các khoản vay, đầu tư lớn góp phần tăng trưởng dư nợ tín dụngtrong năm 2002 là: Giải ngân các HĐTáC đẫNG đã ký trong các năm trước để đầu tư các dự án trọng điểm của Nhà nước2.200 tỷ VND, thu mua gạo để xuất khẩu sang Indonexia, Irac 1.600 tỷ VND, cho vay thực hiện chương trình dự trữ xăng dầu Quốc gia 400 tỷ, thuỷ sản 800tỷ sắt thép 300 tỷ Bảng 3: Cơ cấu dư nợ tín dụng trung dài hạn trong tổng dư nợ tín dụng (Tỷ VND) Tín dụng thông thường 10244 100% 12509 100% 15995 100% 1.Ngắn hạn 7278 71% 8631 69% 9597 60% 2.Dài hạn 2966 29% 3878 31% 6398 40% (Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Ngân hàng Ngoại thương năm 2000, 2001, 2002) Ta thấy dư nợ tín dụng trung dài hạn năm 2000 chiếm 29% trong tổng dư nợ tín dụng thông thường, tuy nhiên trong các năm tiếp theo đó thì dư nợ dài hạn đã tăng đáng kể. Năm 2001 đạt 3873tỷ VND chiếm 31% trong tổng dư nợ, đến năm 2002 đạt 6398 tỉ VND chiếm 40% tổng dư nợ Biểu đồ 1: Tương quan giữa dư nợ ngắn hạn và trung dài hạn Điều này có thể thấy được: việc cho vay trung dài hạn đ• hạn chế được nhiểu rủi ro và đã khắc phục đuợc khó khăn trước đó.
  47. 2.2.2. Dư nợ theo nội tệ, ngoại tệ Nhìn vào bảng 4 ta thấy dư nợ tín dụng đồng nội tệ giảm trong năm 2001 so với năm 2000 là 18,67%. Sang năm 2002 tỷ trọng gần như không thay đổi đó là do tâm lý của người dân, họ tích trữ đồng ngoại tệ mà chủ yếu là USD. Tình hình này dẫn đến cơ cấu cho vay trung dài hạn theo nội ngoại tệ có xu hướng cân bằng Bảng 4 :Dư nợ tín dụng trung dài hạn theo cơ cấu nội ngoại tệ: (tỷ VND) 1. Nội tệ 1477 49.8% 1569 40,5% 2340 40.7% 2.Ngoại tệ (USD quy đổi ra VND) 1489 50.2% 2309 59.5% 3418 59.3% Tổng dư nợ 2966 100% 3878 100% 5758 100% (Nguồn: BCKQKD của Ngân hàng Ngoại thương năm 2000, 2001, 2002) Khi cho vay theo ngoại tệ ngân hàng không những phải đối phó với rủi ro thông thường mà còn phải đối phó với rủi ro về tỷ giá hối đoái (đặc biệt là trong giai đoạn khủng hoảng tài chính). Việc đồng Việt Nam bị mất giá so với đồng ngoại tệ gây ra tâm lý e ngại đối với khách hàng vay vốn bằng ngoại tệ. Hơn nữa trong năm 2002 lãi suất bằng đồng Việt Nam liên tục giảm (NHNN đã liên tục giảm trần lãi suất cho vay VND từ 1,25%/ tháng xuống 0,8% đối với khu vực đô thị và 1%/ tháng đối với khu vực nông thôn), do đó các doanh nghiệp được khuyến khích vay bằng nội tệ và lãi suất cho vay thấp nên doanh nghiệp sẽ giảm được chi phí vốn vay. Tuy nhiên đây không phải là xu hướng tốt vì ngân hàng ngoại thương là một ngân hàng có tiềm lực mạnh về vốn ngoại tệ và có nhiều kinh nghiệm trong việc cung cấp tín dụng bằng USD, nên việc tỷ lệ cho vay bằng USD bị giảm sút làm cho một lượng vốn lớn ngoại tệ bị ứ đọng.
  48. 2.2.3. Dư nợ theo thành phần kinh tế Bảng 5: Dư nợ tín dụng trung dài hạn theo thành phần kinh tế (tỷ VND): 1.Quốc doanh 2728,7 92% 2986 77% 4089 71% 2.Ngoài quốc doanh 237,3 8% 992 23% 1669 29% 3. Tổng 2966 100% 3878 100% 5758 100% (Nguồn: BKKQKD của ngân hàng ngoại thương năm 2001,2002) Theo số liệu ở trên ta thấy, dư nợ tín dụng trung dài hạn của ngân hàng ngoại thương tập trung chủ yếu ở khu vực doanh nghiệp quốc doanh. Năm 2000 tỷ trọng nay là 92%, năm 2001 giảm xuống 77% và năm 2002 đã đạt tỷ lệ 71% trong tổng dư nợ tín dụng trung dài hạn. Khách hàng chủ yếu của ngân hàng ngoại thương đặc biệt là các tổng công ty lớn như: Tổng công ty điện lực Việt Nam, Animex, Tổng công ty xây dựng Lũng Lô, Tổng công ty bưu chính viễn thông Việt Nam, Tổng công ty xây dựng sông Đà Việc dư nợ tín dụng của các doanh nghiệp quốc doanh chiếm tỷ trọng cao bởi thực tế cho thấy: đầu tư vào khu vực ngoài quốc doanh, ngân hàng sẽ gặp nhiều rủi ro hơn, ngay cả trong trường hợp có tài sản thế chấp thì ngân hàng cũng rất khó khăn trong việc xử lý tài sản thế chấp để thu hồi vốn: Giá của tài sản thế chấp luôn biến động, có thể lúc đánh giá là cao nhưng khi phát mại thì giá của tài sản lại ở múc thấp. Mặt khác, trung tâm bán đấu giá tại Việt Nam hoạt động chưa có hiệu quả nên việc bán tài sản là vấn đề phức tạp. Nhiều trường hợp khách hàng sở hữu một tài sản nhưng lại mang đi thế chấp tại nhiều ngân hàng khác nhau. Các cán bộ của ngân hàng ngoại thương trong quá trình thẩm định khó có thể phát hiện được. Tình trạng này cũng gây ra khó khăn cho ngân hàng khi tiến hành phát mại tài sản. Lúc này, các ngân hàng sẽ không thể hiểu được ai là người thực sự
  49. có quyền đối với tài sản đó. Hơn nữa các công ty ngoài quốc doanh (Trừ các công ty liên doanh với nước ngoài) thường có trình độ tổ chức kém, đội ngũ nhân viên yếu về chuyên môn, nghiệp vụ vì vậy mà rủi ro xảy ra đối với thành phần kinh tế này là lớn. Tuy nhiên, những rủi ro này cũng có thể xảy ra đối với thành phần kinh tế quốc doanh. Tỷ trong dư nợ của khu vực kinh tế quốc doanh chiếm tỷ trọng lớn là phù hợp với định hướng phát triển của nước ta trong đó ngành kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo, thực tế là với sự hỗ trợ tín dụng trung dài hạn của ngân hàng ngoại thương các doanh nghiệp nhà nước đã cũng cố được vị trí và phát huy được vai trò của minh trong nền kinh tế. Tuy nhiên, trong những năm tới ngân hàng ngoại thương cũng cần có những biện pháp đẩy mạnh cho vay với kinh tế ngoài quốc doanh vì đâu là khu vực kinh tế rất năng động và tất nhiên nhu cầu vốn cũng lớn. 2.2.4. Dư nợ theo ngành kinh tế Cơ cấu này trong những năm gần đây gần như không thay đổi nhiều gồm các ngành công nghiệp, xây dựng, giao thông, thương mại và các ngành khác. Ngân hàng tập trung cho vay chủ yếu là hai ngành công nghiệp và thương mại. Hai ngành Bảng 6: Dư nợ cho vay trung dài hạn theo ngành kinh tế (tỷ đồng) 1.Công nghiệp 1251.65 42,2% 1667,5 43% 2447,15 42,5% 2.Xây dựng 186,86 6,3% 252,07 6,5% 391,54 6,8% 3.Giao thông 281,77 9,5% 387,8 10% 552,76 9,6% 4.Thương mại 1204,2 40,6% 1512.2 39% 2308,9 40,1% 5.Ngành khác 41,52 1,4% 65,9 1,7% 57,58 1% Tổng dư nợ 2966 100% 3878 100% 5758 100%
  50. (BCKQKD của ngân hàng ngoại thương năm 2001, 2002) này chiếm tỷ trọng khá cao (hơn 80% trong tổng dư nợ trung dài hạn ). Tổng dư nợ của ngành xây dựng chiếm tỷ trọng không cao (dưới 6,8%), điều này phản ánh từ khi có cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực thì ngân hàng ngoại thương đã thận trọng hơn khi đầu tư cũng như cho vay vốn đối với các trong lĩnh vực xây dựng như khách sạn, bất động sản, cao ốc bởi đây là một trong những nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng. Hơn nữa, theo nhận định trong một số năm tới ngành kinh doanh khách sạn sẽ tăng trưởng chậm hơn so với thời kỳ năm 1995, chính vì vậy tỷ trọng dư nợ trung dài hạn theo ngành xây dựng trong năm 2001 chỉ tăng nhẹ so với năm 2000 và đến năm 2002 cũng chỉ ở mức 6,8% trong tổng dư nợ tín dụng trung dài hạn. Bên cạnh đó sau tác động của cuộc khủng hoảng, hầu hết các nền kinh tế trong khu vực đều có dầu hiệu phục hồi, vì thế trong những năm tới đầu tư vào Việt Nam có xu hướng tăng nhanh. Do đó nhu cầu vay vốn của các dự án nâng cấp cơ sở hạ tầng, giao thông, đường xá, cầu cống đều có xu hướng tăng lên. Điều này thể hiện trong tỷ trọng dư nợ trung dài hạn của ngành giao thông năm 2000 chỉ đạt 9,5% nhưng sang năm 2001 đạt mức 10% và đến năm 2002 đạt mức 9,6% trong tổng dư nợ tín dụng trung dài hạn, chủ yếu là do ngân hàng cho vay làm đường xá như đường Trường Sơn, công trình cảng Cái lân Tỷ trọng dư nợ của ngành công nghiệp trong những năm qua vẫn tăng trưởng mặc dù vẫn còn ở mức thấp (năm 2000 tỷ trọng là 42,2%, năm 2001 là 45%). Mặc dù năm 2002, tỷ trọng này có giảm nhẹ xuống còn 42,5% tuy nhiên có một số dự án lớn thuộc ngành này đến nay vẫn chưa giải ngân được.
  51. Tỷ trọng dư nợ trong ngành thương nghiệp vẫn tăng ổn định và chưa có sự đột phá: tỷ trọng này trong năm 2000 là 40,6%, năm 2001 là 39% và đến năm 2002 là 40,1%. 2.3. Tình hình nợ quá hạn Bảng 7: Tình hình nợ quá hạn trung dài hạn tại ngân hàng ngoại thương(tỷ VND) Năm 31/12/1999 31/12/2000 31/12/2001 31/12/2002 Nợ quá hạn 115,73 118,6 116,3 149,7 Tổng dư nợ 2516 2966 3878 5758 Tỷ lệ nợ quá hạn (%) 4,6% 4% 3% 2,6% (Nguồn :BCKQKD của Ngân hàng Ngoại thương năm 1999, 2000, 2001,2002) Bên cạnh tăng tổng dư nợ tín dụng trung dài hạn thì tỷ lệ nợ quá hạn trong những năm qua đã giảm, điều này phản ánh chất lượng tín dụng trung dài hạn có chiều hướng tốt lên, đây là sự nỗ nực của các thành viên trong toàn ngành. Nói đến kinh doanh không thể không nói đến rủi ro mà nghề ngân hàng được biết đến như là một ngành có nhiều rủi ro nhất mà đặc biệt là trong hoạt động tín dụng trung dài hạn. Rủi ro này có thể do nhiều nguyên nhân gây ra như rủi ro về kỳ hạn, rủi ro đạo đức khách hàng, rủi ro về tỷ giá và cũng có những rủi ro do yếu tố khách quan như thiên tai, hoả hoạn Vì vậy tình hình nợ quá là không thể tránh khỏi, vấn đề đặt ra đối với ngân hàng là giảm tối đa các khoản nợ quá hạn để vừa tránh được rủi ro, vừa đảm bảo lợi nhuận cũng như việc xử lý các khoản nợ quá hạn đó như thế nào. Năm 1999 tỷ lệ nợ quá hạn của ngân hàng ngoại thương ở mức tương đối thấp là 4,6% và tỉ lệ này đã giảm qua các năm: năm 2000 là 4%, năm 2001 là 3% và năm 2002 là 2.6%. Thực ra trong những năm gần đây ngân hàng ngoại thương đã có nhiều cố gắng trong
  52. việc nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn các khoản nợ quá hạn hầu hết là của các khoản vay trước năm 1999 và theo dự báo của ngân hàng tỉ lệ nợ quá hạn sẽ còn tiếp tục được duy trì trong những năm tiếp theo cũng như chính sự nỗ nực Nghành Một điều rất đáng quan tâm là tỷ lệ nợ quá hạn của các khoản vay bằng USD lại tăng ở mức rất cao từ 4,2% năm 2001 đã tăng lên tới 6,9% trong năm 2002 trong khi đó tỷ lệ này đối với các khoản vay bằng VND lại giảm từ 5,4% năm 2001 xuống còn 3,9% năm 2002. Điều này có vẻ như không hợp lý khi ngân hàng ngoại thương là một ngân hàng có kinh nghiệm trong việc cho vay và thu hút vốn bằng ngoại tệ. Tỷ lệ nợ quá hạn đối với doanh nghiệp nhà nước ở mức thấp 3,0%, trong khi đó tỷ lệ này ở khu vực kinh tế tư nhân là 7,6%. Điều này phản ánh một thực tế là hiện nay các doanh nghiệp tư nhân, ngoài quốc doanh (không kể đến doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) do trình độ tổ chức chưa cao, năng lực cán bộ còn hạn chế nên tình hình kinh doanh không đạt hiệu quả, do đó phát sinh nợ quá hạn lớn đối với ngân hàng. Có thể thấy rõ nhận định qua sự so sánh với tỷ lệ nợ quá hạn của Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nơi mà có trình độ tổ chức cao, trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ được xem là tốt nhất hiện nay: tỷ lệ nợ quá hạn ở mức rất thấp 1,3%. Về cơ cấu nợ quá hạn theo thời gian: Nợ quá hạn khó đòi chiếm tỷ lệ cao xấp xỉ 74% (năm 2001 chiếm 74,5% và 72,7% vào năm 2002), tỷ lệ nợ khê đọng chiếm khoảng 19% trong hai năm gần đây, trong khi đó tỷ lệ nợ thông thường
  53. Bảng 8: Cơ cấu nợ quá hạn theo thời gian Chỉ tiêu 31/12/2001 31/12/2002 Số dư Tỷ trọng Số dư Tỷ trọng Tổng dư nợ quá hạn 326 100% 415 100% Nợ quá hạn thông thường 22,5 6,9% 29,05 7% Nợ quá hạn khê đọng 63,89 19,6% 84,24 20,3% Nợ quá hạn khó đòi 242,8 74,5% 301,7 72,7% (Nguồn :BCKQKD của Ngân hàng Ngoại thương năm 2001, 2002) (dưới 6 tháng) chiếm tỷ lệ nhỏ dưới 8%. Sở dĩ tình hình nợ quá hạn khó đòi chiếm tỷ trọng lớn là do các khoản nợ phát sinh từ năm 1997 trở về trước đều là những khoản nợ khó đòi gần như là mất luôn. Các khoản nợ này cho vay theo những dự án mà chất lượng thẩm định của ngân hàng ngoại thương những năm trước đây còn nhiều bất cập. Trong khi đó ngân hàng ngoại thương lại chưa có biện pháp xử lý hữu hiệu những khoản nợ đó 3. Một số kết quả đạt được và tồn tại trong hoạt động tín dụng trung dài hạn tại ngân hàng ngoại thương. 3.1. Những thành tựu đạt được Trong những năm qua, mặc dù có nhiều khó khăn do khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế thấp nhưng dư nợ tín dụng trung dài hạn vẫn tăng trưởng với tốc độ khá. Ngân hàng
  54. ngoại thương đã thực hiện tốt việc cung ứng vốn tín dụng trung dài hạn cho nền kinh tế vừa đáp ứng nhu cầu tái sản xuất mở rộng của các doanh nghiệp vừa tạo ra một đội ngũ khách hàng truyền thống như các Tổng công ty lớn của cả nước. Để có thể đáp ứng nhu cầu cho vay ngày một tăng, công tác huy động vốn của ngân hàng ngoại thương cũng đạt kết quả tốt tỷ lệ nguồn vốn trung dài hạn ngày một tăng trong tổng nguồn vốn huy động. Ngân hàng đã tăng cường khâu giám sát khách hàng trước, trong và sau khi cho vay, cùng với việc thực hiện nghiêm túc quy trình cho vay theo quy định của NHNN cũng như các quy định do ngân hàng đề ra đã làm cho chất lượng các khoản tín dụng trung dài hạn trong thời gian gần đây được nâng cao rõ rệt. Ngân hàng đã từng bước đơn giản hoá thủ tục cho vay, giảm thời gian cho khách hàng trong quá trình đến vay vốn tại ngân hàng. Chính sách tín dụng trung dài hạn của ngân hàng đề ra phù hợp với thực tế phát triển của nước ta và đường lối phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước, với chính sách tín dụng này, hoạt động tín dụng trung dài hạn của ngân hàng ngoại thương đã đóng góp tích cực vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH. Ngân hàng đã sắp xếp những cán bộ tín dụng có trình độ chuyên môn cao, nhiệt tình vào phòng dự án tại các Chi nhánh và tại Sở giao dịch, điều này là nhân tố quyết định cho việc thành công của hoạt động tín dụng trung dài hạn. 3.2. Những tồn tại và nguyên nhân 3.2.1. Những tồn tại
  55. Mặc dù dư nợ tín dụng trung dài hạn vẫn tăng trưởng qua các năm, nhưng tỷ trọng của nó so với tổng dư nợ tín dụng thông thường ngày một giảm, hoạt động tín dụng trung dài hạn vẫn còn chưa tương xứng với tiềm năng đặc biệt là tiềm năng về huy động vốn trung dài hạn đang chiếm tỷ trọng ngày càng tăng. So với các ngân hàng khác, ngân hàng ngoại thương có ưu thế hơn hẳn về khả năng huy động vốn ngoại tệ, tuy nhiên xu hướng vay bằng ngoại tệ hiện đang giảm. Có thể nói ngân hàng ngoại thương chưa phát huy được điểm mạnh về khả năng cho vay trung dài hạn bằng ngoại tệ này của mình. Ngân hàng còn khá dè dặt trong việc cho vay đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh làm cho tỷ trọng dư nợ của khu vực này đã nhỏ lại càng nhỏ hơn. Công tác xử lý tài sản xiết nợ còn kém hiệu quả 3.2.2. Nguyên nhân: Thứ nhất: trong quy trình xét duyệt cho vay ngân hàng còn khá cứng nhắc trong việc áp dụng các quy định của cấp trên. Thứ hai: Công tác Marketing ngân hàng tại ngân hàng ngoại thương chưa được coi trọng đúng mức, ngân hàng chưa có các biện pháp Marketing nhằm hỗ trợ cho hoạt động tín dụng trung dài hạn. Thứ ba: Ngân hàng thiếu những thông tin trung thực về khách hàng, đặc biệt là các khách hàng mới. Điều này dẫn đến tình trạng nhiều dự án có tính khả thi nhưng ngân hàng không dám cho vay hoặc ngược lại nhiều dự án hiệu quả không cao nhưng ngân hàng vẫn cho vay do những thông tin được cung cấp là không chính xác.
  56. Thứ năm: Môi trường pháp lý ở nước ta hiện nay chưa thật tốt, điều này gây rất nhiều khó khăn cho ngân hàng trong công tác xử lý nợ quá hạn và phát mại tài sản thế chấp. Thứ sáu: một số yếu tố của môi trường kinh tế vĩ mô chưa thật ổn định đặc biệt là tỷ giá hối đoái. Chính nhân tố này là một trong những nghuyên nhân quan trọng dẫn đến tỷ trọng vay bằng ngoại tệ giảm trong những năm gần đây. Chương ba: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tại ngân hàng ngoại thương việt nam i. Định hướng hoạt động của ngân hàng ngoại thương Việt Nam trong thời gian tới (Đến năm 2010). Mặc dù trong những năm vừa qua ngân hàng ngoại thương Việt Nam đã đạt được sự tăng trưởng mạnh (trong mười năm từ năm 1991 đến năm 1999 quy mô nguồn vốn đã tăng hơn 6 lần), tuy nhiên để đứng vững và tiếp tục phát triển trong một môi trường mà sự cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ, ngân hàng ngoại thương đã xây dựng cho mình một chiến lược phát triển đến năm 2010 tập trung vào bốn nội dung chủ yếu sau: Mục tiêu và phương châm Chiến lược chung Những nhiệm vụ chiến lược và định hướng phát triển Các giai đoạn triển khai thực hiện chiến lược Trong đó mục tiêu chiến lược phát triển của ngân hàng ngoại thương đến năm 2010 là phấn đấu trở thành ngân hàng thương mại hàng đầu của Việt Nam, hoạt động đa năng, kết hợp bán buôn với bán lẻ, mở rộng các dịch vụ ngân hàng, phục vụ phát triển kinh tế trong nước và trở thành một ngân hàng quốc tế khu vực
  57. Phương châm của ngân hàng ngoại thương là: Đối với ngân hàng: An toàn – Hiệu quả - Tăng trưởng. An toàn trong mọi lĩnh vực kinh doanh. Hiệu quả mang ý nghĩa kinh tế xã hội. Tăng trưởng phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế đất nước và chính sách tiền tệ của ngành ngân hàng. Đối với khách hàng: Đem đến cho khách hàng sự an toàn tiền gửi, phục vụ nhanh chóng, giá rẻ. Khách hàng chính của ngân hàng ngoại thương là các Tổng công ty, các doanh nghiệp lớn hoạt động chủ yếu trên lĩnh vực xuất nhập khẩu, khách hàng có địa bàn hoạt động chính tại các thành phố và các khu vực có tiềm năng kinh tế Chiến lược phát triển chung của Ngân hàng ngoại thương đó là định hướng quyết định bước phát triển mới cả về chất lượng và số lượng: từng bước xây dựng ngân hàng ngoại thương trở thành một ngân hàng hiện đại, hội nhập với quốc tế có mô hình tổ chức khoa học, có công nghệ hiện đại, đội ngũ cán bộ công nhân viên có phẩm chất tốt. Cụ thể là: Trong năm 2003, ngân hàng ngoại thương tiếp tục thực hiện định hướng phát triển 10 năm của mình là: “ An toàn – Hiệu quả - Phát triển ”, căn cứ vào mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước năm 2003 và nhiệm vụ của ngành ngân hàng với năng lực của ngân hàng mình, ngân hàng ngoại thương định hướng hoạt động kinh doanh trong năm 2003 với các chỉ tiêu chính sau: 1. Tăng trưởng nguồn vốn 19 – 20% 2. Tăng trưởng dư nợ tín dụng 20 – 22% 3. Tỷ lệ nợ quá hạn / Tồng dư nợ Dưới 4,0% 4. Thị phần trong thanh toán xuất nhập khẩu 29%
  58. 5. Tăng trưởng lợi nhuận trước thuế 5% Để thực hiện các chỉ tiêu kinh doanh trên, ngân hàng ngoại thương sẽ triển khai các nhiệm vụ công tác sau: Đẩy mạnh công tác huy động vốn, thực hiện đa dạng hoá các hình thức huy động vốn (trả lãi trước, có thưởng, khuyến mại), bổ sung các loại kỳ hạn, áp dụng lãi suất linh hoạt để phát triển nguồn vốn đạt tốc độ tăng trưởng 19 – 20%, trong đó chú ý đến việc phát triển nguồn vốn bằng VND. Chủ động tìm các dự án khả thi không phân biệt thành phần kinh tế, loại hình sở hữu, bám sát các dự án lớn, các chương trình kinh tế trọng điểm để đẩy mạnh cho vay nhằm đạt mục tiêu tăng trưởng dư nợ tín dụng 20 - 22%, cải tiến phương pháp quản lý rủi ro tín dụng, giữ tỷ lệ nợ quá hạn dưới 4%. áp dụng công nghệ mới, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, giảm phí nhằm giữ vững thị phần 29% trong kim ngạch thanh toán xuất nhập khẩu của cả nước. Triển khai đề án tái cơ cấu ngân hàng ngoại thương, trong năm 2001 cần đạt một số mục tiêu như: thành lập công ty quản lý tài sản, bổ sung hoàn thiện hệ thống quy chế các mặt hoạt động của ngân hàng ngoại thương, đổi mới phương thức kiểm tra nội bộ ii. Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao chất luọng tín dụng trung dài hạn tại ngân hàng ngoại thương Việt Nam l. Giải pháp để mở rộng hoạt động tín dụng trung dài hạn tại ngân hàng ngoại thương Hiện nay, yêu cầu trước tiên đối với Ngân hàng ngoại thương là phải làm thế nào để mở rộng được hoạt động tín dụng trung dài hạn. Như đã phân tích ở trên là chất lượng các
  59. khoản tín dụng hiện có của Ngân hàng là khá tốt nhưng mức dư nợ còn thấp, do đó Ngân hàng cần phải thực hiện những giải pháp tích cực để cải thiện tình hình : 1.1 Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn trung dài hạn. Ngân hàng vẫn có thể chuyển một phần vốn ngắn hạn sang tín dụng trung dài hạn nhưng còn tùy thuộc vào tính ổn định của nguồn tiền gửi. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới chỉ ra mức tín dụng trung dài hạn bằng nguồn vốn ngắn hạn được khống chế bởi chỉ số an toàn về mức chuyển hóa vốn ( H ) : Tổng số nguồn vốn dài hạn trên 5 năm H = Tổng các khoản sử dụng vốn trên 5 năm - Trái Phiếu Ngân hàng Trái phiếu Ngân hàng là một công cụ vay nợ dài hạn trên thị trường vốn, là giấy nhận nợ của các Ngân hàng đối với người mua (hoặc chủ sở hữu) cam kết sẽ trả nợ và lãi theo kỳ hạn đã định. Đối với người mua, nó là giấy chứng nhận quyền đầu tư và quyền hưởng một phần lãi theo số tiền đầu tư. Đây là hình thức phổ biến ở nhiều nước trên thế giới, nó hấp dẫn hơn các hình thức gửi tiền có kỳ hạn dài bởi tính đa dạng trong hình thức trả lãi cũng như lãi suất huy động. Khi cần phát hành trái phiếu, để có thể thu hút được người mua, Ngân hàng có thể đưa ra các mức lãi suất chiết khấu tại các mốc thời gian khác nhau trước khi trái phiếu đáo hạn . Ngân hàng phát hành các trái phiếu dài hạn có bảo đảm giá trị bằng USD và có thể chuyển nhượng dễ dàng trên thị trường. Điều đó có nghĩa là khoản tiền gửi gốc sẽ được bảo đảm theo giá trị của USD tại thời điểm gửi tiền, nếu thiếu hụt sẽ được bù đắp. Biện
  60. pháp này lựa trên hai căn cứ khoa học; một là: hiện nay nền kinh tế Mỹ phát triển khá ổn định lên USD có giá trị ít biến động, hai là: trong tiềm thức người dân Việt Nam hiện nay vẫn rất tin tưởng vào USD . - Tiền gửi dài hạn có lãi suất biến động theo thị trường hoặc được bảo đảm bằng vàng. Ngân hàng có thể là cho người gửi tiền an tâm bằng cách áp dụng lãi suất biến động theo thị trường để giảm rủi ro cho người gửi tiền khi lãi suất lên cao, có thể dùng vàng để đảm bảo chi khoản tiền gửi vì đó là tâm lý của người Việt Nam từ xưa đến nay, một tập quán có từ lâu đời vì cất trữ vàng người ta cảm thấy an toàn hơn khi mà đồng tiền không ổn định. Mặt khác vàng vẫn là hình thức được ưa chuộng mang tính độc tôn trong xã hội Việt Nam vì chúng có tính thanh khoản cao, đảm bảo được giá trị ngay cả trong thời kỳ đồng tiền không ổn định, là phương tiện thanh toán thay tiền mặt trong việc mua bán các hàng hóa có giá trị lớn như nhà cửa, đất đai, - Giấy chứng nhân tiền gửi có thể bán lai Giấy chứng nhận tiền gửi có thể bán lại là công cụ huy động tiền gửi dài hạn do Ngân hàng bán cho người gửi tiền. Nó thanh toán lãi hàng năm theo một khoản nhất định và khi hết hạn thì hoàn trả hết giá mua ban đầu. Do có thể bán lại trên thị trường nên nó biến việc gửi các khoản dài hạn thành các khoản tiền gửi ngắn hạn. Đặc điểm này khiến giấy chứng nhận tiền gửi rất thịnh hành ở các nước Châu âu từ những năm 1970 cho đến nay nó vẫn chiếm những vị trí đầu trong danh sách nguồn huy động vốn của các Ngân hàng Châu âu. 1.2. Đa dạng hóa các hình thức tín dụng trung dài hạn
  61. Hiện nay, nếu so sánh hệ thống Ngân hàng Việt Nam với hệ thống Ngân hàng của nhiều nước có nền tài chính phát triển thì các hình thức cho vay của các Ngân hàng Việt Nam là quá đơn điệu. Chính điều đó đã là một nguyên nhân quan trọng làm giảm hiệu quả sử dụng vốn của Ngân hàng. Tình trạng ứ đọng vốn của các NHTM Việt Nam thời gian qua có liên hệ khá chặt chẽ với điều này. Khi Ngân hàng không có khách hàng phù hợp, không có nghĩa là không có thị trường mà có thể hiểu là không khai thác được thị trường. Điều kiện của mỗi khách hàng xin vay vốn rất khác nhau, để thu hút được nhiều khách hàng cần có các hình thức tín dụng đa dạng và phù hợp. Hơn nữa theo các lý thuyết kinh tế, đa dạng hóa là một biện pháp quan trọng để giảm rủi ro. Khi các NHTM Việt Nam không có các hình thức cho vay đa dạng, nghĩa là đã tự loại bỏ cơ hội giảm rủi ro của mình . Như vậy, có thể nói một nguyên nhân làm tăng những thiệt hại có tính chi phí cơ hội trên các hợp đồng tín dụng của các Ngân hàng Việt Nam là do tính kém phát triển về các lĩnh vực đầu tư. Giải pháp cho điều đó là cần phải tích cực mở rộng các loại hình hoạt động, cung cấp cho khách hàng nhiều tiện ích mới để tận dụng tối đa những cơ hội sinh lời tốt nhất. Thực tế là một khi Ngân hàng có các loại hình đầu tư và lĩnh vực hoạt động đa dạng, nó có thể lựa chọn những cơ hội có khả năng sinh lời tốt nhất. Điều đó đồng nghĩa với việc sẽ giảm được mức thiệt hại có tính chi phí cơ hội trên các dự án. Ngoài ra như đã nói, với các lĩnh vực hoạt động đa dạng, Ngân hàng có thể phân đều rủi ro của mình sang các lĩnh vực khác nhau, trên cơ sở đó có thể tăng được tính ổn định của mình. Em xin được đề cập đến một số hình thức đầu tư tín dụng mới với mục tiêu nghiên cứu để góp phần đa dạng hóa hoạt động của ngành Ngân hàng :
  62. • Đồng tài trợ. Việc đông tài trợ là quá trình cho vay - bảo lãnh của một nhóm các tổ chức tín dụng (LCTD ) cho một dự án, do một TCTD làm đầu mối phối hợp các bên tài trợ để thực hiện, nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và các TCTD. Các hình thức đồng tài trợ là cho vay hợp vốn; bảo l•nh, tái bảo l•nh hoặc kết hợp của các hình thức trên . Nghiệp vụ đồng tài trợ được áp dụng trong các trường hợp sau: nhu cầu vay vốn để thực hiện dự án vượt giới hạn tối đa được cho phép vay hoặc bảo lãnh của một TCTD; do nhu cầu phân tán rủi ro của các TCTD; khả năng nguồn vốn của một TCTD không đáp ứng được nhu cầu vốn của dự án . Theo cách làm truyền thống từ trước tới nay, các TCTD thường ngồi chờ khách hàng đem dự án tới Ngân hàng để xin vay, mà không chịu tìm kiếm các khách hàng tiềm năng nhất là trong giai đoạn hiện nay, các TCTD Việt Nam hoạt động trong môi trường khó cạnh tranh được với các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài về vốn, công nghệ và cả cách tổ chức quản lý. Do vậy, Ngân hàng ngoại thương nên căn cứ vào chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội của từng ngành kinh tế, của từng địa phương, của toàn nền kinh tế, liên kết với các NHTM khác để xây dựng các phương án đầu tư vốn để chủ động nguồn vốn tín đụng trung dài hạn chủ động trong công tác thẩm định, cho vay đúng mục đích, đồng thời quản lý được rủi ro của mình. Ngân hàng ngoại thương không chỉ cần liên kết với các NHTM quốc doanh mà còn cần phải liên kết với các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, Ngân hàng liên doanh. Các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài có tiềm lực về vốn vô cùng lớn nhưng do quy định của NHNN nên khả năng cho vay bằng VNĐ của các
  63. Ngân hàng này bị hạn chế. Do đó, Ngân hàng ngoại thương có thể liên kết với các Ngân hàng này cho vay bằng VNĐ hay làm trung gian cho các Ngân hàng này. Sự liên kết không chỉ giúp Ngân hàng mở rộng hoạt động tín dụng mà còn giúp nâng cao hiệu quả món vay. Bên cạnh đó, trong quá trình liên kết thực hiện dự án, Ngân hàng và đội ngũ cán bộ tín dụng cũng học hỏi được các kinh nghiệm, cách thức thẩm định dự án, phương pháp quản lý món vay, phương pháp quản lý điều hành hoạt động Điều này giúp cho Ngân hàng nâng cao năng lực riêng của mình trong hoạt động quản trị nói chung và hiệu quả trong hoạt động tín dụng trung dài hạn nói riêng. Tín dụng thuê mua tài sản cố định. Thuê - mua, thuê mua trả góp hay tín dụng thuê mua trả góp đều có chung một nội dung. Nó được coi như một hình thức cho thuê tài chính, chỉ khác ở chỗ Công ty thuê mua trực tiếp mua tài sản hoặc chế tạo tài sản cho thuê. Khi bên thuê thanh toán hết tiền thuê theo thỏa thuận của hợp đồng thuê, quyền sở hữu mặc nhiên chuyển cho bên thuê. Với loại hình này, các máy móc thiết bị phù hợp theo yêu cầu sử dụng của người thuê, trên các nhà doanh nghiệp nắm được chất lượng của sản phẩm làm ra, khả năng tiêu thụ của chúng, nên sản xuất kinh doanh có hiệu quả, do đó xác suất rủi ro rất nhỏ. Ưu điểm của tín dụng thuê mua là các doanh nghiệp có thể đổi mới trang thiết bị máy móc, quy trình công nghệ hiện đại mà không cần đến tài sản thế chấp và một số lượng lớn vốn tự có như trong cho vay dự án. Chính ưu điểm lớn này khiến cho tín dụng thuê mua trở thành một giải pháp vô cùng quan trọng cho các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Nhu cầu vốn trung dài hạn để mua sắm máy móc thiết bị, công nghệ hiện đại của các doanh nghiệp hiện nay là rất lớn,
  64. nhưng để có thể được vay vốn của các Ngân hàng, doanh nghiệp ngoài phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả còn phải cần tới 30% vốn tự có và phải có tài sản thế chấp (đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh). Trong khi đó với hình thức này, doanh nghiệp chỉ cần có điều kiện là có phương án sản xuất kinh doanh khả thi, vì bản chất của tín dụng thuê mua đã bao hàm tài sản thế chấp trong hợp đồng thuê mua. Tín dụng hối phiếu Thay vì trực tiếp cho khách hàng vay tiền, Ngân hàng ký phát một giấy nhận nợ hẹn sẽ thanh toán cho người vay một khoản tiền vào một thời gian định trước trong tương lai ( khách hàng cũng đồng thời phải ký phát một giấy nhận nợ tương tự với Ngân hàng với mệnh giá và thời hạn theo thỏa thuận giữa Ngân hàng với khách hàng để bảo đảm Ngân hàng là có lợi nhận ). Sau đó khách hàng có thể dùng giấy nhận nợ đó đem thế chấp lại một Ngân hàng khác để vay vốn. Nếu khắc phục được các rủi ro đi kèm, phương thức này là một hình thức đầu tư hấp dẫn đối với Ngân hàng ( không cần thiết phải xuất tiền cho vay ). Cho vay xây dưng nhà ở Cho vay xây dựng nhà ở là hình thức trung dài hạn nhằm mục đích cho vay tiền xây dựng đối với các cá nhân, những cặp vợ chồng trẻ có công ăn việc làm, có thu nhập ổn định, có nhu cầu về nhà ở nhưng chưa có đủ tiền xây nhà hoặc mua nhà. Việt Nam là một quốc gia có dân số trẻ, tỷ lệ số người trong độ tuổi lao động và số cặp vợ chồng trẻ rất cao. Vấn đề nhà ở đang là một trong những ván đề cấp bách đặc biệt là ở các đô thị lớn như Hà Nội, TP HCM Để giải quyết nhu cầu nhà ở, ổn định đời sống cho người dân, đồng
  65. thời lại giải quyết được tình trạng ứ đọng vốn Ngân hàng thì Ngân hàng ngoại thương nên thực hiện món cho vay xây nhà theo hai cách sau: + Thứ nhất Ngân hàng đầu tư bằng cách mua đất, xây nhà rồi bán cho những người có nhu cầu với phương thức trả góp, lượng trả căn cứ vào thu nhập của người mua. Ngân hàng sẽ nắm quyền sở hữu nhà cho đến khi người mua trả hết tiền thì làm thủ tục chuyển giao quyền sở hữu. + Thứ hai, Ngân hàng cho những người có nhu cầu vay tiền để họ tự mua nhà hoặc xây nhà. Để giảm rủi ro, Ngân hàng chỉ có thể cho vay đối với những người có sẵn đất và coi quyền sở hữu mảnh đất đó là tài sản thế chấp. Người vay cũng thực hiện trả dần theo phương thức trả góp theo thu nhập. Thí điểm áp dung loai hình cho vay theo hình thức " Không thời han ". Theo hình thức này món cho vay sẽ không có thời hạn hoàn trả cụ thể định trước, thay nào đó Ngân hàng sử dụng hình thức có báo trước. Nghĩa là khi muốn thu nợ Ngân hàng có thể báo trước cho khách hàng. Khách hàng sẽ có một thời gian nhất định để chuẩn bị nguồn tiền cần thiết trả cho Ngân hàng. Thực tế đây là một hình thức tín dụng khá linh hoạt cả về thời hạn và lãi suất. Mức lãi suất sẽ được điều chỉnh theo một tiêu thức chung trên thị trường (chẳng hạn theo lãi suất tín phiếu kho bạc ). 1.3. Đẩy mạnh công tác tư vấn đầu tư Trong thời đại hiện nay, khi nền kinh tế đã phát triển, hệ thống thông tin đã rộng khắp, mạng lưới tin học đã đi sâu vào mọi lĩnh vực ngành nghề thì việc đáp ứng các hiểu biết của con người trở lên cần thiết hơn. Cũng như nhiều trung tâm tư vấn khác, tư vấn của Ngân hàng là một lĩnh vực nhằm đánh giá phân tích, dự báo các thông tin về tình hình
  66. kinh tế, xã hội, pháp luật, thị trường, giá cả Liên quan đến vấn đề đầu tư giúp cho các doanh nghiệp đưa ra quyết định đầu tư một cách đúng đắn nhất, sáng suốt nhất . Cho đến nay hầu như các doanh nghiệp ở nước ta ít hiểu biết về lĩnh vực đầu tư, chính vì vậy đầu tư vào các công trình chưa thu hút được kết quả như mong muốn, rủi ro đầu tư vẫn còn. Để phổ biện rộng khắp, giải đáp các thắc mắc, Ngân hàng nên có trung tâm dịch vụ tư vấn và đầu tư về các công trình, hướng dẫn cố vấn cho doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triền nhanh hơn, điều đó cũng làm cho chính Ngân hàng phát triển, thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế phát triển . 1.4. Tăng cường thực hiện Marketing Ngân hàng Công bằng mà nói, không chỉ riêng Ngân hàng ngoại thương mà nhìn chung các NHTM nước ta chưa nhận thức được đầy đủ tầm quan trọng của Marketing trong hoạt động Ngân hàng nên chưa dành sự quan tâm hợp lý, thích đáng cho nó. Tư duy kinh doanh theo quan niệm Marketing còn thiếu vắng ở các NHTM Việt Nam, dẫn tới việc Marketing tuy bước đầu đã được ứng dụng trong Ngân hàng nhưng chủ yếu mới tập trung vào các hoạt động bề nổi như quảng cáo, khuếch trương còn các chức năng chủ yếu có ý nghĩa quan trọng quyết định sự thành công trong thực hành Marketing như nghiên cứu khách hàng, xác định thị trường mục tiêu, nâng cao uy tín, chất lượng dịch vụ Ngân hàng thì hầu như còn rất mờ nhạt, bế tắc. Do vậy, để đưa Marketing thực sự thâm nhập vào Ngân hàng và phát huy tác dụng của nó, Ngân hàng ngoại thương cần thực hiện một số biện pháp sau : - Các cán bộ quản lý cần phải nhanh chóng chuyển sang tư duy kinh doanh mới, lấy quan điểm Marketing làm chủ đạo vì chỉ có tìm hiểu thị trường một cách kỹ lưỡng nắm bắt