Tài liệu Khái quát văn học Việt Nam

pdf 49 trang hapham 1600
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu Khái quát văn học Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdftai_lieu_khai_quat_van_hoc_viet_nam.pdf

Nội dung text: Tài liệu Khái quát văn học Việt Nam

  1. Chương 1 KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM NỬA CUỐI THẾ KỶ XVIII,NỬA ÐẦU THẾ KỶ XIX -Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX là giai đoạn phát triển rực rỡ nhất của nền văn học dân tộc trong suốt thời kỳ phong kiến. Vì sự phát triển rực rỡ của nó mà nhiều nhà nghiên cứu đã mệnh danh cho giai đoạn này là giai đoạn văn học cổ điển Việt Nam. Khái niệm giai đoạn văn học cổ điển Việt Nam ở đây tạm hiểu là một di sản văn học thuộc về quá khứ, có giá trị ưu tú và đã được thử thách, được khẳng định qua thời gian. -Vậy, một vấn đề đặt ra là tại sao văn học giai đoạn này lại phát triển rực rỡ như vậy? Văn học giai đoạn này phát triển rực rỡ, điều đó không có gì là ngẫu nhiên. Có hai nguyên nhân: +Văn học giai đoạn này đã kế thừa những thành tựu của nền văn học dân gian và những thành tựu của nền văn học viết-một nền văn học đã được phát triển trong gần tám thế kỷ. +Tuy nhiên cái quyết định vẫn là bối cảnh lịch sử-xã hội, tư tưởng, văn hóa. I.BỐI CẢNH LỊCH SỬ - XÃ HỘI, TƯ TƯỞNG, VĂN HÓA 1. Giai đoạn khủng hoảng, suy vong trầm trọng của chế độ phong kiến Việt Nam và bi kịch lịch sử dân tộc. 1.1.1. Chế độ phong kiến Việt Nam bước vào thời kỳ khủng hoảng, suy vong trầm trọng -Chế độ phong kiến Việt Nam cực thịnh vào thế kỷ XV. Sang thế kỷ XVI, XVII chế độ này đã bộc lộ những dấu hiệu của sự suy yếu. Mầm mống của cuộc khủng hoảng nội bộ đã xuất hiện. Ðây là hai thế kỷ nội chiến phong kiến. -Ðến nửa cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX thì sự suy yếu này không còn là dấu hiệu nữa. Có thể nói chế độ phong kiến Việt Nam đã bước vào thời kỳ khủng hoảng, suy vong trầm trọng, chuẩn bị cho sự sụp đổ toàn diện của chế độ này vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Sự khủng hoảng này được bộc lộ trên nhiều phương diện nhưng nổi bật nhất là tính chất thối nát, suy thoái trong toàn bộ cơ cấu của chế độ phong kiến . +Kinh tế: Thành phần kinh tế chính của đất nước giai đoạn này vẫn là kinh tế nông nghiệp. Nền kinh tế này bị đình đốn. Kinh tế sản xuất hàng hóa cũng bị kìm hãm. . + Chính trị: Như một quy luật, kinh tế đình đốn thường dẫn đến sự hỗn loạn về chính trị. Những mâu thuẫn vốn có, chứa chất lâu ngày trong lòng chế độ phong kiến Việt Nam đến đây đã có dịp bùng nổ dữ dội. + Văn hóa: Nhà Nguyễn cấm dùng chữ Nôm, cấm đoán về mặt tư tưởng rất nghiệt ngã. * Tóm lại, giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII, nửa cuối thế kỷ XIX chế độ phong kiến Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc. Sự khủng hoảng này còn được biểu hiện ở sức trỗi dậy mãnh liệt với một khí thế chưa từng có của phong trào nông dân khởi nghĩa.
  2. 1.1.2. Nhân dân vùng lên mãnh liệt có lúc giành được thắng lợi vẻ vang nhưng rồi lại thất bại. -Giai đoạn này được mang vinh hiệu là Thế kỷ nông dân khởi nghĩa. Có thể nói đây là thời kỳ đấu tranh liên tục, mạnh mẽ, rộng khắp của quần chúng mà chủ yếu là nông dân. +Tính chất mạnh mẽ thể hiện ở chỗ có những cuộc khởi nghĩa tập trung hàng vạn người, kéo dài hàng chục năm như cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Hữu Cầu (1741-1751); cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Danh Phương ( 1740-1750); cuộc khởi nghĩa của Hoàng Công Chất (1736-1769) +Tính chất rộng khắp thể hiện ở chỗ các cuộc khởi nghĩa nổ ra khắp mọi miền đất nước. -Ðỉnh cao của phong trào khởi nghĩa lúc này là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn Cuộc khởi nghĩa này đã dành được những thắng lợi vẻ vang: Ðánh đổ ba tập đoàn phong kiến thống trị trong nước; đánh tan hơn hai mươi vạn quân Thanh xâm lược , lập nên một vương triều phong kiến mới với nhiều chính sách tiến bộ .Nhưng đáng tiếc là Quang Trung chỉ ở ngôi được mấy năm. Sau khi Quang Trung mất, nhà Tây Sơn lại trở nên lục đục. Nhân cơ hội ấy, Nguyễn Aïnh đã trở lại tấn công nhà Tây Sơn, lập nên triều đại nhà Nguyễn (1802). Triều Nguyễn là một tân triều, nhưng triều Nguyễn không đại diện cho cái mới. Buổi đầu, để củng cố địa vị thống trị của mình nhà Nguyễn còn thực hiện được một số chính sách tiến bộ nhưng càng về sau nhà Nguyễn càng đi vào con đường phản động để rồi trở thành một triều đại phản động nhất trong các triều đại phong kiến Việt Nam. Vì thế dưới triều Nguyễn các cuộc khởi nghĩa của nông dân vẫn liên tiếp xảy ra. -Tuy nhiên khởi nghĩa nông dân trong hoàn cảnh của xã hội đương thời không thể đi đến thắng lợi hoàn toàn và triệt để. Khởi nghĩa của nông dân chỉ mới là động lực thúc đẩy xã hội phát triển chứ chưa thể làm thay đổi chế độ xã hội. 1.1.3.Lực lượng thị dân trong giai đoạn suy tàn của chế độ phong kiến - Nền kinh tế hàng hóa vốn xuất hiện từ thế kỷ XVI, thế kỷ XVII đã có nhiều bước phát triển đáng kể, đến giai đoạn này lại bị nhiều chính sách kinh tế phản động của chính quyền phong kiến kìm hãm cho nên nó chưa phát triển thành một cơ cấu kinh tế mới để rồi tạo ra một giai cấp tư sản, nhưng cùng với sự đi lên của thành phần kinh tế này thì tầng lớp thương nhân, thợ thủ công ngày càng đông đảo tập trung ở các thương cảng, đô thị. -Tầng lớp này do sinh hoạt kinh tế của họ đã li khai phần nào với quan hệ sản xuất phong kiến, cuộc sống của họ là cuộc sống đi đây đi đó nhiều, giao tiếp rộng rãi kể cả giao tiếp với người nước ngoài cho nên về mặt tư tưởng, tình cảm, họ trở nên phóng khoáng hơn người nông dân vốn bị trói buộc vào làng quê, hơn cả nho sĩ vốn bị rập khuôn theo trăm nghìn thể chế, giáo điều chính thống cứng nhắc. Sự có mặt của tầng lớp này cũng đã tạo ra những làn gió mới lan tỏa vào đời sống tư tưởng, tinh thần thời đại. *Tóm lại: lịch sử dân tộc ta giai đoạn này là lịch sử đau thương nhưng quật khởi, có bi kịch nhưng cũng có anh hùng ca. Nhìn về phía giai cấp thống trị là cả một sự sụp đổ, tan rã toàn diện của kỷ cương, của lễ giáo phong kiến, của bộ máy quan liêu và nói chung là của toàn bộ cơ cấu xã hội.
  3. Song nhìn về phía quần chúng thì đây là thời kỳ quật khởi, thế kỷ bão táp của các phong trào nông dân khởi nghĩa, thời đại đấu tranh tháo cũi sổ lồng. Trải qua nhiều biến động nhưng cuối cùng xã hội Việt Nam vẫn lâm vào tình trạng bế tắc không lối thoát. Tuy vậy phong trào đấu tranh rầm rộ của quần chúng liên tiếp nổ ra trong suốt thế kỷ cũng đã làm bùng dậy nhiều khát vọng lành mạnh, làm quật cường thêm tinh thần dân tộc, tinh thần đấu tranh chống áp bức, bóc lột, cổ vũ cho sự vươn dậy của tài năng, trí tuệ của con người. 2.Sự phá sản nghiêm trọng của ý thức hệ phong kiến và sự trỗi dậy của tư tưởng nhân văn của thời đại. 1.2.1.Sự phá sản nghiêm trọng của ý thức hệ phong kiến -Giai cấp phong kiến Việt Nam vốn lấy Nho giáo làm ý thức hệ chính thống, lấy Nho giáo làm quốc giáo, dựa vào Nho giáo để thống trị nhân dân. Trong mấy thế kỷ trước, khi chế độ phong kiến đang đi lên thì Nho giáo có uy lực của nó. Nhưng đến thời kỳ này chế độ phong kiến đã bước vào thời kỳ suy vong, khủng hoảng thì Nho giáo cũng bị đả kích, bị lung lay dữ dội. +Nguyên nhân: Sự phá sản này chủ yếu phát sinh từ sức công phá của trào lưu tư tưởng nhân văn của thời đại và từ hàng ngũ giai cấp thống trị kẻ đã khẳng định, tôn sùng và nuôi dưỡng ý thức hệ này. +Biểu hiện: Những cái được gọi là tam cương, ngũ thường của Nho giáo đều bị sụp đổ một cách thảm hại. +Sự sụp đổ cuả ý thức hệ nho giáo có hưởng đến tầng lớp nho sĩ-lực lượng sáng tác văn học của thời đại. Sống trong thời đại Nho giáo bị sụp đổ thảm hại như vậy, một tầng lớp nhà nho chân chính bị khủng hoảng về mặt lý tưởng. Họ không tìm ra con đường đi, họ hoang mang trước thời cuộc.Một số nhà nho bị bế tắc thực sự, Nguyễn Du đã từng thốt lên: Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên Xuân lan thu cúc thành hư sự Hạ thử, đông hàn đoạt thiếu niên (Tạp thi) Họ mất hết niềm tin vào chính quyền, vào minh chúa. Số đông đã lui về ở ẩn, hoặc đang làm quan lui về ở ẩn để giữ gìn khí tiết, nhân cách của mình. 1.2.2.Sự trỗi dậy cuả truyền thống nhân văn.
  4. -Trong khi Nho giáo bị sụp đổ như vậy thì một khuynh hướng tư tưởng, bảo vệ, khẳng định quyền sống và giá trị, phẩm chất con người đã phát triền thành một khuynh hướng mạnh mẽ. -Cơ sở xã hội, tư tưởng của khuynh hướng này: +Cơ sở xã hội: Ðó là phong trào đấu tranh mạnh mẽ của quần chúng bị áp bức mà chủ yếu là của nông dân chống phong kiến đã liên tiếp nổ ra trong suốt thế kỷ. +Cơ sở tư tưởng: Ðó là sự sụp đổ cuả ý thức hệ Nho giáo. Phật giáo, Ðạo giáo lại phát triển, tư tưởng thị dân hình thành, tất cả đã có ảnh hưởng đến sự kết tinh cuả truyền thống nhân văn cuả dân tộc. Những biểu hiện của khuynh hướng, tư tưởng nhân văn trong văn học sẽ là sự lên án, tố cáo hiện thực cuộc sống đương thời chà đạp lên quyền sống của con người; đấu tranh đòi cuộc sống cơm áo; phát triển cá tính; giải phóng tình cảm, bản năng; là thái độ ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người; là thái độ đồng tình, xót thương, thông cảm của các tác giả đối với các nạn nhân của xã hội. 1.3.Sự phát triển rực rỡ của nền văn hóa dân tộc Ðây là giai đoạn nền văn hóa dân tộc phát triển khá mạnh, khá đều khắp, một số ngành đã đạt được những thành tựu xuất sắc. -Thành tựu: +Khoa học xã hội: Ngành nghiên cứu lịch sử, địa lý phát triển khá mạnh với hai học giả nổi tiếng: Lê Quí Ðôn và Phan Huy Chú. +Khoa học tự nhiên: Nổi bật nhất là ngành y với nhà y học nổi tiếng Lê Hữu Trác. +Các ngành văn học, nghệ thuật: Chèo ở Ðàng Ngoài, tuồng ở Ðàng Trong phát triển; văn học chữ Nôm phát triển mạnh, những tác phẩm có giá trị cuả giai đoạn này đều được sáng tác bằng chữ Nôm; kiến trúc tôn giáo, nghệ thuật điêu khắc có nhiều thành tựu. -Một số đặc điểm của nền văn hoá: +Trước hết đó là tinh thần duy lý trong quan điểm và phương pháp biên soạn. Việc tiếp nhận văn hóa Trung quốc thoát li tính chất nô lệ, sùng ngoại để đi vào khuynh hướng tiếp nhận sáng tạo tinh hoa của văn hóa nước ngoài.Ðó là phương pháp biên soạn sách của Lê Quí Ðôn trọng thực tiễn, óc phán đoán suy luận khá chặt chẽ. +Tinh thần dân tộc: Biểu hiện ở thái dộ nhìn nhận, đánh giá lịch sử dân tộc, văn hóa dân tộc. Lê Quí Ðôn trong Toàn Việt thi lục lệ ngôn đã viết: Nước Việt Nam từ khi mở cõi văn minh không thua kém gì Trung Hoa. Tinh thần ấy còn thể hiện ở hoài bão xây dựng một lá cờ cho y giới nước nhà (Lê Hữu Trác). *Tóm lại: Những thành tựu rực rỡ của nền văn hóa với những đặc điểm riêng của nó là sản phẩm tinh thần của hoàn cảnh lịch sử nói trên.
  5. II. TÌNH HÌNH VĂN HỌC 1.Lực lượng sáng tác. 2.1.1.So với các giai đoạn trước, lực lượng sáng tác đã có sự đổi mới về lượng và chất. -Giai đoạn từ thế kỷ X-XV: Dưới triều đại nhà Lý, lực lượng sáng tác thống lĩnh văn đàn là các nhà sư. Triều đại nhà Trần, bên cạnh tầng lớp nhà sư là các nhà nho. Thời Lê sơ, lực lượng sáng tác chính là các nhà nho. -Giai đoạn từ thế kỷ XVI đến nửa đầu thế kỷ XVIII: Lực lượng sáng tác chính vẫn là các nhà nho, bên cạnh lực lượng này còn có thêm những cây bút là nho sĩ ở ẩn: Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Hàng, Nguyễn Dữ. -Giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX: +Lực lượng sáng tác tuy vẫn là các nho sĩ, nhưng bên cạnh những nho sĩ quan liêu, nho sĩ thuộc tầng lớp trên thì nho sĩ bình dân đã chiếm một vị trí đáng kể. +Ngay những nho sĩ quan liêu cũng đã có những đặc điểm mới khác với nho sĩ quan liêu ở các giai đoạn trước. Kiến thức về văn hóa được mở rộng; vốn sống phong phú vì có những chuyến đi thực tế bất đắc dĩ. 2.1.2.So với các giai đoạn trước, lực lượng sáng tác trong giai đoạn này còn có sự chuyển biến trong quan niệm sáng tác. Quan niệm văn dĩ tải đạo,thi ngôn chí vốn là quan niệm tryền thống của các nhà nho Việt Nam. Ðến giai đoạn này, các nhà văn, nhà thơ cũng chưa thoát khỏi quan niệm ấy, nhưng bên cạnh đó đã hình thành và phát triển một khuynh hướng thu hút đông đảo các nho sĩ sáng tác: Khuynh hướng hướng tới con người bình thường, hướng tới cuộc sống xã hội rộng rãi, chính quan niệm sáng tác chứa chan bản sắc nhân văn này đã đưa đến bước phát triển đẹp đẽ, rực rỡ của văn học. 2.Các khuynh hướng chính của văn học Chúng ta có thể chia văn học giai đoạn này làm ba khuynh hướng chính. 2.2.1.Khuynh hướng tố cáo hiện thực và nhân đạo chủ nghĩa. -Ðây là khuynh hướng chủ đạo của văn học giai đoạn này. Những tác giả tiến bộ, nhiều tài năng đều thuộc khuynh hướng này. Khuynh hướng này còn thu hút nhiều tác giả mà thiên kiến chính trị còn có những hạn chế như Phạm Thái, nhưng khi đi vào đời sống xã hội, đời sống cá nhân họ lại có nhiều điểm gặp gỡ với yêu cầu dân chủ, nhân đạo của thời đại. -Nội dung của khuynh hướng này là phê phán hiện thực và đề cao con người, đề cao cuộc sống trần tục.
  6. 2.2.1.1.Phê phán hiện thực. -Bộ phận văn học chữ Hán. +Trong những tác phẩm văn xuôi viết theo thể ký, bộ mặt của xã hội, của giai cấp thống trị được dựng lên khá đậm nét. Hoàng Lê nhất thống chí là bức tranh sinh động về cảnh thối nát của triều đinh phong kiến lúc bấy giờ. Vua thì ngồi làm vì, chúa Trịnh nắm hết quyền hành thì hôn mê, mù quáng gây ra bè đảng trong phủ chúa. Quan lại thì bất tài, cơ hội chủ nghĩa. Tập bút kí đặc sắc: Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác. +Trong thơ chữ Hán nhiều nhà thơ đã đi sâu miêu tả cuộc sống của nhân dân. Cao Bá Quát, Phạm Nguyễn Du đã ghi lại những bức tranh sinh động về cuộc sống đói khổ của nhân dân. Trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du thường xuất hiện những bức tranh đối lập: Một bên là cuộc sống đói khổ của nhân dân và một bên là cuộc sống xa hoa của giai cấp thống trị. -Bộ phận văn học chữ Nôm. +Khúc ngâm: Chinh phụ ngâm tố cáo chiến tranh phong kiến làm tan vỡ hạnh phúc, tình yêu của tuổi trẻ. Cung oán ngâm khúc tố cáo chế độ cung tần vô nhân đạo làm cho cuộc đời của bao cô gái tài sắc héo hắt, tàn lụi trong cung vua, phủ chúa. +Thơ Hồ Xuân Hương tố cáo chế độ đa thê và toàn bộ nền đạo đức phong kiến đối với người phụ nữ . +Nguyễn Du trong Truyện Kiều, thông qua cuộc đời của nhân vật chính đã tốï cáo những thế lực tàn bạo chà đạp lên quyền sống của con người. -Ðặc điểm của sự phê phán, tố cáo của văn học giai đoạn này là các tác giả đứng trên lập trường nhân sinh để tố cáo tất cả những gì phản nhân sinh, phản tiến hóa vì thế mà diện tố cáo trong văn học được mở rộng và nội dung tố cáo cũng sâu sắc hơn. 2.2.1.2.Ðề cao con người và đề cao cuộc sống trần tục. -Phát triển trong bối cảnh lịch sử mà chế độ phong kiến bước vào thời kì khủng hoảng, ý thức hệ phong kiến bị sụp đổ, trào lưu nhân văn đang bộc phát lên như một tư trào, văn học giai đoạn này có một đặc trưng mang tính lịch sử là khám phá ra con người, khẳng định những giá trị chân chính của con người, phản ánh những khát vọng giải phóng của con người. -Khám phá ra con người, văn học giai đoạn này đã lấy người phụ nữ làm đối tượng phản ánh chủ yếu . -Bên cạnh hình tượng người phụ nữ, văn học giai đoạn này còn tập trung vào hình tượng anh hùng. -Hàng loạt tác phẩm như Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, thơ Hồ Xuân Hương, Sơ kính tân trang, Truyện Kiều rồi nhiều truyện thơ Nôm khác đều phản ánh những khát vọng của con người.
  7. 2.2.2.Khuynh hướng lạc quan. -Như phần bối cảnh lịch sử đã trình bày , triều đại Tây Sơn tuy tồn tại ngắn ngủi nhưng với những chính sách tiến bộ, với những chiến công của nó, sự có mặt của triều đại này đã thực sự đem đến cho đời sống tinh thần của dân tộc một sinh khí mới. Ðiều này đã để lại dấu ấn trong văn học. -Nội dung chủ yếu của khuynh hướng này vẫn là khẳng định cuộc sống, khẳng định con người, mà tiêu biểu hơn cả là khẳng định công đức của vua Quang Trung trong sự nghiệp chống giặc cũng như trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Một số tác phẩm khác lại thể hiện lòng yêu nước, yêu thiên nhiên, lòng tự hào dân tộc. 2.2.3.Khuynh hướng thoát li, tiêu cực, bảo thủ . -Các tác giả giai đoạn này có nhiêìu mâu thuẫn trong tư tưởng, tình cảm nên khuynh hướng này có thêí nhắc đến Nguyễn Gia Thiều, Ðặng Trần Côn, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ. -Một số tác giả đứng trên lập trường phong kiến Ðàng Trong hoặc Ðàng Ngoài để mạt sát phong trào Tây Sơn. Các vua nhà Nguyễn như Tự Ðức, Minh Mệnh và một bộ phận quan lại chịu ảnh hưởng sâu sắc của ý thức hệ Nho giáo đã ca ngợi đạo đức, luân lý phong kiến. -Một số tác giả vốn là cựu thần, bề tôi của triều Lê-Trịnh, khi thấy vận mệnh của giai cấp mình bị nghẽn lối, họ đâm ra buồn, hoang mang, luyến tiếc quá khứ. Có thể kể đến sáng tác của Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Hành, Bà huyện Thanh Quan. 3.Các đặc điểm chính của văn học giai đoạn này. 2.3.1.Văn học dân tộc phát triển rực rỡ cả về số lượng lẫn chất lượng, đặc biệt là về chất lượng. Ở cả hai bộ phận văn học Hán và Nôm, đặc biệt là ở bộ phận văn học Nôm có sự phát triển nhảy vọt, phồn vinh chưa từng thấy. Ðiều này chứng tỏ sự trưởng thành đến mức thuần thục của văn học Nôm. Tại sao lại có sự phát triển này? +Ðội ngũ sáng tác được tăng cường, đó là kết quả của việc mở rộng việc học ở nông thôn. +Nhờ có sự thay đổi quan niệm sáng tác do tác động của đời sống. +Luật cấm chữ Nôm không có tác dụng nữa. 2.3.2.Nội dung và hình thức đều có sự phát triển, đổi mới và hoàn thiện tuy còn mang những hạn chế do thời đại và giai cấp xuất thân quy định. 2.3.2.1.Nội dung: -Ðề tài được mở rộng không còn bó hẹp ở luân lí, đạo đức phong kiến, văn học đề cập những vấn đề thiết cốt trong cuộc sống trước mắt.
  8. -Chủ đề: Có hai chủ đề chính, chủ đề số phận con người và tìnhh yêu đôi lứa, bao trùm lên là chủ đề số phận bi thảm của con người trong chế độ phong kiến suy tàn. Các tác phẩm ưu tú đều bằng cách này hay cách khác đề cập đến chủ đề này. -Hình tượng trung tâm của văn học giai đoạn này là hình tượng người phụ nữ với những phẩm chất tốt đẹp với những niềm vui, nỗi buồn của họ. -Tư tưởng rất phức tạp, nhiều khuynh hướng thậm chí đối lập nhau cùng tồn tại trong một tác giả và trong một tác phẩm.Trong đó khuynh hướng phê phán hiện thực và nhân đạo chủ nghĩa là khuynh hướng chính của văn học giai đoạn này. 2.3.2.2.Hình thức. -Thể loại: Những thể loại truyền thống vẫn tiếp tục phát triển và hoàn thiện hơn. Sự nở rộ đáng chú ý là truyện thơ Nôm và khúc ngâm. Nó làm đậm thêm nét đặc sắc của bộ mặt văn học giai đoạn này. Hàng loạt truyện thơ Nôm đã ra đời mà đỉnh cao là Truyện Kiều. +Truyện và kí chữ Hán có khuynh hướng vươn lên tiểu thuyết. +Thơ Ðường luật với Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ đã trở nên mềm mại. +Nghệ thuật sân khấu: *Ðàng Trong: Tuồng đạt đến mức mẫu mực. *Ðàng Ngoài: Chèo phát triển +Thể ca trù là một thể thơ trữ tình ngắn, so với thể thơ Ðường luật thì nó có dung lượng lớn hơn và cách luật cũng thoải mái hơn. Thể này xuất hiện từ thế kỷ XVI với Lê Ðức Mao nhưng sau đó không được dùng. Ðến đầu thế kỷ XIX nó được dùng lại với các nhà thơ Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Hàm Ninh. Ca trù của Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát đạt đến trình độ mẫu mực. -Phương pháp sáng tác: Văn học giai đoạn này vẫn chưa thoát khỏi chủ nghĩa qui phạm là phương pháp lấy những chuẩn mực, tiêu chuẩn có sẵn để sáng tác dẫn đến công thức, ước lệ. Bên cạnh đó khuynh hướng hiện thực chủ nghĩa khá phát triển đặc biệt là ở hai tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí và Truyện Kiều. -Ngôn ngữ: Ngôn ngữ thơ ca trong văn học Nôm có bước phát triển so với giai đoạn trước, xu hướng trở về với dân tộc, với đời sống ngày càng tăng , các xu hướng này đã có từ trước nhưng đến giai đoạn này phát triển mạnh hơn. 2.3.3.Ảnh hưởng qua lại giữa văn học dân gian và văn học viết trở nên sâu rộng, đặc biệt là ảnh hưởng của văn học dân gian vào văn học viết ở cả hai bộ phận Hán và Nôm rất rõ. III. KẾT LUẬN
  9. 1.Ðây là giai đoạn thuần thục của nền văn học viết dưới chế độ phong kiến, là giai đoạn đặt cơ s để nền văn học dân tộc bước sang thời kỳ hiện đại. 2.Vấn đề trung tâm của văn học giai đoạn này là vấn đề số phận con người trong chế độ phong kiến suy tàn. Chương 2 CHINH PHỤ NGÂM ( Ngâm là lời than). I.TÁC GIẢ VÀ DỊCH GIẢ
  10. 1.Tác giả: -Chinh phụ ngâm là tác phẩm Hán văn rất nổi tiếng của Ðặng Trần Côn. Tiểu sử của tác giả cho đến nay biết được còn rất ít. Kể cả năm sinh năm mất cũng không biết chính xác. Các nhà nghiên cứu ước đoán ông sinh vào khoảng năm 1710- 1720, mất khoảng 1745. -Quê hương: Làng Nhân Mục, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Ðông (nay là Hà Tây). Ông có làm quan nhưng chức quan không lớn (ông từng làmhuấn đạo trường phủ., làm tri huyện Thanh Oai, cuối cùng làm chức Ngự sử đài chiếu khám). -Về sáng tác: Chinh phụ ngâm là tác phẩm tiêu biểu nhất, ngoài ra ông có một số bài thơ, bài phú tả cảnh thiên nhiên. Khuynh hướng chung của thơ văn ông là đi sâu vào tình cảm, đi sâu vào nỗi lòng trắc ẩn, phức tạp, sâu kín của con người, nhất là đối với người phụ nữ. 2.Dịch giả: -Chinh phụ ngâm ra đời đã gây một tiếng vang lớn trong giới nho sĩ đương thời. Người ta chú ý đến tác phẩm này không phải chỉ vì nghệ thuật điêu luyện của nó mà trước hết là vì tác phẩm đã thể hiện một khuynh hướng mới của văn học-khuynh hướng hướng tới cuộc sống của con người. Tác phẩm viết bằng chữ Hán giữa thời đại văn học Nôm đang nở rộ cho nên nhiều người đã tìm cách dịch nó ra chữ Nôm. Có nhiều bản dịch và phỏng dịch của Ðoàn Thị Ðiểm, Nguyễn Khản, Bạch Liên Am Nguyễn, Phan Huy Ích. Trong số có những bản dịch đó, có một bản dịch thành công nhất được gọi là Bài hiện hành (bản đang được lưu hành).Vấn đề đặt ra là ai là tác giả của bản dịch này? Hiện nay vẫn tồn tại hai khuynh hướng: -Khuynh hướng thứ nhất cho rằng tác giả của bản dịch này là nữ sĩ Ðoàn Thị Ðiểm. -Khuynh hướng thứ hai cho rằng tác giả của bản dịch này là Phan Huy Ích. -Hiện nay những người biên soạn sách giáo khoa PTTH vẫn theo khuynh hướng thứ nhất. II.ÐỀ TÀI VÀ NGUỒN CẢM HỨNG CỦA TÁC GIẢ, DỊCH GIẢ. 1.Ðề tài chiến tranh, chinh phu, chinh phụ là đề tài truyền thống và phổ quát của nhiều nền văn học.
  11. -Trong văn học Việt Nam, tiếng nói oán trách chiến tranh đã vang lên từ những câu ca dao trữ tình đầy oán hận. Từ thế kỷ XV, nhà thơ Thái Thuận cũng đã từng đặt bút với đề tài này (Bài thơ Chinh phụ ngâm). Thế kỷ XVII, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng đã từng viết về đề tài này. -Trong văn học Trung Quốc, văn học đời Hán đã để lại những bài thơ nổi tiếng về thảm họa chiến tranh. Ðặc biệt đến đời Ðường đã xuất hiện những nhà thơ chuyên khai thác đề tài này: Sầm Tham, Vương Xương Linh. 2.Cảm hứng của tác giả và dịch giả. -Tác giả và dịch giả Chinh phụ ngâm có phần đã tìm nguồn thi hứng từ những trang sách cổ. Nhưng cái chính là nguồn cảm hứng của cả hai đều bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống . III.THỂ LOẠI, BÚT PHÁP, BỐ CỤC. 1.Thể loại: Tìm hiểu đặc trưng thể loại để xacï định phương pháp tiếp cận tác phẩm. Chinh phụ ngâm là tác phẩm trữ tình, tác phẩm chỉ có một nhân vật -người chinh phụ- hình tượng cảm nghĩ. Toàn bộ khúc ngâm chỉ là sự diễn tả tâm trạng của người chinh phụ. Do đó phương pháp tiếp cận tác phẩm là phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật trữ tình. 2. Bút pháp Tác phẩm được viết với bút pháp tượng trưng, ước lệ là chủ yếu. Khi phân tích phải đặc biệt chú ý đặc điểm này. 3.Bố cục: Nguyên văn bằng chữ Hán gồm 477 câu. Bản dịch do nhà xuất bản Văn Hóa in có 408 câu. Bản in của nhà in Tân Việt có 412 câu. Có thể chia tác phẩm làm ba phần như sau: -Phần 1:Bốn câu đầu, phần này có giá trị như phần đặt vấn đề.
  12. -Phần 2: Tiếp đến câu 369 (Mọi bề trung hiếu thiếp xin vẹn tròn) đây là phần chính của khúc ngâm miêu tả tâm trạng của người chinh phụ với nhiều sắc thái khác nhau. -Phần3: Phần kết thúc tác phẩm với ước mơ sum họp trong cảnh thanh bình. IV. NỘI DUNG 1.Diễn biến tâm trạng của người chinh phụ. Cần chú ý theo dõi hai vấn đề: -Những vấn đề chinh phụ suy nghĩ và đặt ra. -Sợi dây lôgic dẫn dắt quá trình tâm lí của chinh phụ. 4.1.1.Mở đầu khúc ngâm, người chinh phụ nhớ lại cảnh chia tay. -Mâu thuẫn cơ bản đạt ra trong suốt tác phẩm là mâu thuẫn giữa phép công và niềm tây (niềm tư), mở đầu tác phẩm mối mâu thuẫn này cũng đã xuất hiện. Ðôi vợ chồng trẻ này đang sống trong hạnh phúc, yên ổn thì chiến tranh xảy ra. Vì tình thế khẩn trương, vì ý thức về nghĩa vụ, vì danh dự của trang nam nhi hào kiệt và đây cũng là dịp lập công danh, đem vinh hiển về cho gia đình, người chinh phu đã "xếp bút nghiên theo việc đao cung". Người chinh phụ sẽ nói gì cho thực tế tàn nhẫn này. Bên cạnh nỗi buồn, nỗi lưu luyến, sầu muộn chinh phụ cũng đã khẳng khái nói: "Phép công là trọng, niềm tây sá nào" Nàng đã ca ngợi chí khí, hành động của chinh phu: "Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt, Xếp bút nghiên theo việc đao cung Thành liền mong tiến bệ rồng Thước gươm thề quyết chẳng dung giặc trời. Chí làm trai dặm nghìn da ngựa Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao.
  13. Giã nhà đeo bức chiến bào Thét roi cầu Vị ào ào gió thu". Nàng thấy hình ảnh của người chồng rực rỡ, uy nghi như một trang dũng tướng giữa đoàn quân: "Aïo chàng đỏ tựa ráng pha Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in". Ðó là về lí trí còn về mặt tình cảm thì: "Ðưa chàng lòng dặc dặc buồn Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền". "Bóng cờ, tiếng trống xa xa Sầu lên ngọn ải, oán ra cửa phòng" 4.1.2.Sau hồi tiễn biệt người chinh phụ trở về chốn phòng khuê. -Bằng đôi cánh của trí tưởng tượng nàng đã phóng tầm mắt ra chiến trường để theo dõi cuộc sống, vận mệnh của chinh phu nơi chiến địa. +Cảnh chiến trường hiện lên trước mắt nàng thật đen tối. Ở đây không hề có tiếng ngựa hí, tiếng quân reo, hay tiếng va chạm của vũ khí mà chỉ có một luồng tử khí lạnh lẽo bao trùm. Hồn tử sĩ gió ù ù thổi Mặt chinh phu trăng dõi dõi theo +Trong cảnh chiến trường đen tối ấy, chinh phụ cũng đã hình dung ra cuộc sống và vận mệnh của chinh phu. Cuộc sống của chàng thật gian lao, vất vả: Ôm yên gối trống đã chồn Nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh Rồi hành quân di chuyển tưởng như không bao giờ chấm dứt:
  14. Nay Hán xuống, Bạch Thành đóng lại Mai Hồ vào, Thanh Hải dòm qua +Giữa hoàn cảnh hiểm nghèo, gian lao ấy chinh phu không còn giữ được khí thế hào hùng của buổi đầu xuất quân. Chàng trở nên mệt mỏi, bạc nhược trước cuộc sống chiến tranh: Hơi gió lạnh người rầu mặt dạn Dòng nước sâu ngựa nản chân bon Não người áo giáp bấy lâu Lòng quê qua đó mặt sầu chẳng khuây +Nàng như đã nhìn thấy kết cục bi thảm của chồng mình ở chốn đạn lạc, tên rơi: Chinh phu tử sĩ mấy người Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn? hoặc Phận trai già ruổi chiến trường Chàng Siêu mái tóc điểm sương mới về +Những trang thơ này của tác phẩm đã đưa đến cho người đọc một nhận thức: Chiến tranh phong kiến không có chỗ nào dung hợp với con người, chiến tranh phong kiến là đối lập với cuộc sống con người. Trong quan niệm của nhà thơ những con người tham gia vào cuộc chiến tranh là những con người đi vào cõi chết. Quan niệm này thực chất là một cách phản đối chiến tranh. -Sau khi trải qua những giây phút lo âu cho cuộc sống và vận mệnh của chồng nơi chiến địa chinh phụ trở lại với thực tại của mình. Giờ đây cuộc sống đơn chiếc, lẻ loi gợi lên trong tâm trí nàng bao nhiêu câu hỏi về nguyên nhân của sự xa cách: Trong cửa này đã đành phận thiếp Ngoài mây kia há kiếp chàng vay,
  15. Những mong cá nước sum vầy. Bao ngờ đôi ngả nước mây cách vời Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ, Chàng há từng học lũ vương tôn Cớ sao cách trở nước non Khiến người thôi sớm thôi hôm những sầu Khách phong lưu đương chừng niên thiếu Sánh cùng nhau dan díu chữ duyên Nỡ nào đôi lứa thiếu niên Quan sơn để cách, hàn huyên bao đành Ở đây cái nhận thức đầu tiên rõ rệt nhất của chinh phụ là cuộc sống hạnh phúc của vợ chồng nàng bị phá vỡ, hai người phải chia lìa đôi ngả là hết sức vô lí, là không thể chấp nhận được. 4.1.3.Tiếp theo, người chinh phụ sống trong hoàn cảnh vắng biệt tin chồng. -Chinh phụ nhiều lần nhớ lại những lời hẹn của chồng nhưng Người sao mười hẹn chín thường đơn sai, rồi tiếp theo có lúc nàng được tin chồng, dần dần rồi vắng biệt. Vì vậy nàng đã phải sống trong một tâm trạng chờ đợi, hi vọng rồi thất vọng đến chua xót. Ðau khổ vì biệt li, vì chờ đợi, vì thất vọng đã làm cho nàng như khô héo thêm. Chiến tranh đã laòm tàn phai nhan sắc, làm héo hon tấm lòng người vợ trẻ trông chồng.Sự đối lập giữa con người và chiến tranh càng trở nên mạnh mẽ. Trâm cài, xiêm giắt thẹn thùng Lệch vòng tóc rối, lỏng vòng lưng eo. Nỗi sầu muộn như ngày càng chồng chất thêm trong lòng chinh phụ, nó như một sức mạnh vật chất đè nặng lên cuộc sống của nàng: Sầu ôm nặng hãy chồng làm gối
  16. Muộn chứa đầy hãy thổi làm cơm Chinh phụ đã tìm mọi cách để giải sầu như xem hoa, đánh đàn thậm chí dùng cả biện pháp mạnh nhất là uống rượu, nhưng Sầu làm rượu nhạt, muộn làm hoa ôi.Nỗi sầu muộn vẫn lấn át tất cả, nỗi sầu muộn đã làm cho nàng mất hết mọi cảm giác trước cuộc sống. -Mặt khác sự xa cách như một luồng gió mạnh thổi cháy bùng thêm khát vọng hạnh phúc ở chinh phụ. Vì thế nàng đã nghĩ đến việc được gần chồng và cuối cùng nàng đã tìm đến giấc mộng, trong mộng nàng đã được gặp lại người chồng thân yêu: Duy còn hồn mộng được gần Ðêm đêm thường đếïn Giang Tân tìm người Tìm chàng thưở Dương đài lối cũ Gặp chàng nơi Tương Phố bến xưa. Nhưng mộng quá ngắn ngủi, vả lại mộng vẫn là mộng, thực vẫn là thực không sao thay thế cho nhau được. Trái lại cái đẹp đẽ của hồn mộng càng làm cho cuộc sống của nàng thêm chua xót hơn mà thôi: Sum vầy mấy lúc tình cờ Chẳng qua trên gối một giờ mộng xuân Giận thiếp thân lại không bằng mộng Ðược gần chàng bến Lũng thành quan Khi mơ những tiếc khi tàn Tình trong giấc mộng muôn vàn cũng không Người chinh phụ nhận ra rằng cái hạnh phúc đáng quí nhất đối với nàng vẫn là hạnh phúc trần tục.
  17. -Rồi chinh phụ lại tìm cách lên cao để ngóng trông chồng, nhưng lên cao nhìn khắp bốn bề Ðông, Tây, Nam, Bắc phía nào nàng cũng bắt gặp những cảnh buồn hiu hắt, tiêu điều. Chưa hết người chinh phụ lại ao ước có được phép tiên để đi gặp chồng nhưng rồi nàng phải thú nhận với lòng mình là điều đó không bao giờ có được. Người chinh phụ đã khai thác hết mọi khả năng, mong làm cho mình bớt sầu, bớt khổ, mong được gặp lại chồng nhưng đằng nào cũng thấy dựng lên những bức tường cao ngất. Bế tắc đến tuyệt vọng, chinh phụ đã phải thốt lên thật cay đắng: Lòng này hóa đá cũng nên E không lệ ngọc mà lên trông lầu Chinh phụ tưởng chừng như không còn đủ sức chịu nổi nỗi đau đớn phải lên lầu một lần nữa. Cơn khủng hoảng tinh thần đã lên tới đỉnh điểm, con người thật trong chinh phụ đã bắt đầu cất tiếng nói, nàng hối hận vì giấc mộng công hầu mà để chồng ra đi chinh chiến để rồi hạnh phúc tuổi xuân bị dang dở: Lúc ngoảnh lại ngắm màu dương liễu, Thà khuyên chàng đừng chịu sắc phong Trong con người chinh phụ giờ đây niềm tây đã chiến thắng phép công. Nàng đã dám phủ nhận lí tưởng công danh, nàng đã hiểu hạnh phúc lứa đôi có ý nghĩa hơn chiếc ấn phong hầu. Ðây cũng là một nét tâm lí phổ biến của con người thời đại lúc bấy giờ, chàng trai trong Chinh phu ngâm khúc cũng đã thú nhận: Lòng ta không muốn mặc áo giáp Bụng nàng há muốn giữ chinh y -Ý nghĩ Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong đặt vào hoàn cảnh lúc bấy giờ nó có ý nghĩa lúc bấy giờ vì nó coi trọng hạnh phúc, coi trọng sinh mệnh của con người. Nó có ý nghĩa phản chiến vì nó đối lập với âm mưu của giai cấp thống trị muốn dùng cái bả công danh để thúc đẩy binh sĩ, tướng tá ra trận để bảo vệ ngai vàng cho chúng, làm bia đỡ đạn cho chúng. Nhưng do điểm xuất phát của chinh phụ chỉ là hạnh phúc cá nhân, cho nên phản ứng của nàng chỉ có thể dừng lại ở mức độ đó.
  18. 4.1.4.Người chinh phụ tìm cách giải quyết mối mâu thuẫn giữa niềm tây và phép công bằng sự cầu nguyện. -Nàng cầu mong cho ông trời phù hộ cho chồng mình trăm trận nên công và trở về trong ánh hào quang của chiến thắng với mọi vinh dự mà chế độ phong kiến có thể đưa lại cho những kẻ đã tận tâm phục vụ nó. 2.Giá trị phản chiến và giá trị nhân đạo của tác phẩm. 4.2.1.Giá trị phản chiến. -Theo dõi quá trình diễn biến tâm trạng của chinh phụ ta thấy có quá trình vận động, phát triển tuy rất chậm chạp khó thấy. Ðôi với cuộc chiến tranh mà chồng nàng tham gia, chinh phụ có một thái độ mâu thuẫn- vừa tán thành, vừa oán trách. Nhưng xét trong toàn bộ khúc ngâm, chúng ta thấy phần chủ yếu của tác phẩm không dành cho việc miêu tả thái độ tán thành mà chủ yếu tập trung vào miêu tả thái độ chán ghét chiến tranh. -Về chất lượng, phần tả cảnh tươi sáng của cuộc chiến không phải không thành công nhưng phần có sức rung cảm người đọc mạnh mẽ nhất vần là phần miêu tả nỗi sầu muộn của người chinh phụ. Phần tả cảnh chiến trường đen tối đã thật sự gây một ấn tượng bi thảm rất nặng nề trong lòng người đọc. Vì thế, mặc dù khúc ngâm kết thúc trong cảnh tưng bừng của chiến thắng thì âm hưởng của toàn bộ khúc ngâm vẫn là âm hưởng bi ai, sầu oán. Khuynh hướng chính toát ra từ hình tượng của tác phẩm vẫn là khuynh hướng oán ghét chiến tranh phi nghĩa phong kiến. -Tuy nhiên tiếng nói phản chiến ở đây sẽ có những hạn chế nhất định -Tuy tiếng nói phản chiến trong chinh phụ ngâm còn có những hạn chế, nhưng tác phẩm đã thể hiện được tấm lòng, tư tưởng, tình cảm của nhân dân ta trong một thời đại. Vì vậy về cơ bản tác phẩm vẫn chứa đựng một giá trị tiến bộ. 4.2.2.Giá trị nhân đạo. Theo dõi quá trình diễn biến tâm trạng của chinh phụ chúng ta thấy sự thắng thế của niềm tây đối với phép công là tất yếu vì nó có quá trình chuẩn bị và những diễn biến phù hợp với tâm lí nhân vật. Vậy những nhân tố nào đã thúc đẩy sự thắng thế đó? -Trước hết đó là lòng yêu thương chồng của chinh phụ, một tình yêu chân thành, đằm thắm có tính chất vị tha tuy có mang màu sắc quí tộc nhưng nó cũng nằm trong truyền thống tốt đẹp yêu chồng, thương con của người phụ nữ Việt Nam. Ðây chính là
  19. cơ sở để nỗi lòng cuả nhân dân lao động đồng cảm với nỗi lòng của chinh phụ. Trong tác phẩm ta thấy người chinh phụ muốn bù đắp cho những khổ sở của chồng nơi chiến trường và có khi nàng trách chồng bằng những lời đầy yêu thương. -Tình yêu của nàng có tính chất vị tha nhưng không khắc kỷ, yêu thương chồng tha thiết nhưng đồng thời nàng cũng có ý thức khá sâu sắc về quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc của mình. Ðây chính là nhân tố quan trọng nhất thúc đẩy niềm tây chiến thắng phép công. Nói tóm lại chinh phụ vì yêu thương chồng mà oán ghét chiến tranh, thái độ oán ghét đó được tăng lên bởi lòng khao khát hạnh phúc, bởi ý thức về quyền sống cá nhân. Ghi nhận được điều này là một đóng góp độc đáo của Ðặng Trần Côn vào kho tàng văn học cổ Việt Nam trong quá khứ khi viết về đề tài chinh phu, chinh phụ. Ðây cũng chính là giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm. V.MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NGHỆ THUẬT 1.Tập cổ và sáng tạo. - Hoàng Xuân Hãn cho rằng: Cả khúc ngâm này gần như một bài tập cổ. -Tóm lại từ những tài liệu vay mượn, tác giả đã tạo ra một tác phẩm có quy mô lớn hơn bất cứ tác phẩm nào mà ông đã vay mượn. 2.Bút pháp tượng trưng và khả năng phản ánh chân thực cuộc sống. -Trong Chinh phụ ngâm nghệ thuật ước lệ được sử dụng một cách phổ biến. Ở đây tất cả các chi tiết không nên hiểu theo ý nghĩa xác thực của nó mà phải hiểu trong tính chất ước lệ, tượng trưng. - Sáng tác với bút pháp tượng trưng, ước lệ nhưng Chinh phụ ngâm vẫn phản ánh chân thực cuộc sống bởi vì tác phẩm đã nói được vấn đề cơ bản của thời đại, tâm lí của con người thời đại. 3.Nghệ thuật biểu hiện tâm trạng. -Tác giả đã xây dựng được một kết cấu chặt chẽ, miêu tả được sự diễn biến phong phú, tinh vi trong tâm tình chinh phụ theo một trình tự lôgic tâm lí chặt chẽ bảo
  20. đảm sự thống nhất. Tác giả đã gắn tâm lí với hoàn cảnh, tôn trọng quy luật tâm lí. Ðau khổ tăng dần, nhận thức về chiến tranh cũng diễn biến. Ðây là kết quả của một quá trình suy ngẫm và thể hiện. -Tác giả đã chú ý tả cảnh để tả tình, tình cảnh có khi thống nhất hoặc mâu thuẫn. -Tác giả đã sử dụng thủ pháp trùng điệp (láy lại), liên hoàn (nối tiếp), chiếu ứng (so sánh) để tạo ra những đợt sóng cảm xúc. -Tác giả đã chú ý khai thác nhiều yếu tố tâm lí như liên tưởng, hồi tưởng, tưởng tượng. -Ngôn ngữ điêu luyện: Chinh phụ ngâm có cả một kho từ vựng diễn tả tình cảm u sầu với những sắc thái khác nhau. *Tóm lại tác giả đã miêu tả tâm trạng của chinh phụ khá sâu sắc và tâm trạng ấy phản ánh con người Việt Nam- con người thiết tha với hạnh phúc. Vì thế tác phẩm giúp chúng ta hiểu con người Việt Nam trong hiện tại. 4.Thành công của bản dịch. Bản dịch được coi như là một sáng tác phẩm có giá trị độc lập tương đối với nguyên văn. VI. KẾT LUẬN -Tuy có những hạn chế nhất định, nhưng Chinh phụ ngâm là tiếng nói khao khát hạnh phúc, khao khát hòa bình của dân tộc ta trong một thời đại nhất định. Tiếng nói ấy càng có ý nghĩa hơn bao giờ hết vì nó là tiếng nói của một người phụ nữ- nạn nhân đau khổ nhất của chế độ cũ. Ðương thời tác phẩm đã góp phần vào cuộc đấu tranh cho quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc của con người, đấu tranh chống áp bức của giai cấp thống trị. -Ngày nay, tiếng nói thiết tha với hạnh phúc tình yêu của tác phẩm còn rất có ích trong việc xây dựng tâm hồn cho thế hệ trẻ, đó cũng là lí do khiến cho tác phẩm được đưa vào chương trình của phổ thông trung học. Chương 3 HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ.
  21. I.VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM 1.Tác giả. -Ý kiến truyền thống: Một số nhà nghiên cứu cho rằng tác giả của Hoàng Lê nhất thống chí là ba anh em thuộc dòng họ Ngô Thì, người làng tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Ðông cũ (nay là tỉnh Hà Sơn Bình). Ngô Thì Chí là người khởi thảo viết bảy hồi đầu. Ngô Thì Du và Ngô Thì Thiến viết mười hồi cuối. -Các tác giả này đều là cựu thần của nhà Lê. Bản thân Ngô Thì Chí từng làm quan văn dưới thời Lê Chiêu Thống và là người đã trung thành với vua Lê cho đến phút cuối cùng của đời mình. 2.Tác phẩm -Hoàng Lê nhất thống chí ghi chép các sự kiện lịch sử lớn nhất của xã hội phong kiến Việt Nam vào khoảng ba mươi năm cuối thế kỷ XVIII và mấy năm đầu của thế kỷ XIX. Cụ thể tác phẩm ghi chép các sự kiện từ khi Trịnh Sâm lên ngôi chúa, Ðặng Thị Huệ lộng quyền cho đến khi Nguyễn Aïnh lật đổ nhà Tây Sơn lập nên triều đại nhà Nguyễn (1768-1802). -Cuốn sách được viết bằng chữ Hán và theo lối diễn nghĩa của tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc. -Tác phẩm do nhiều người viết nhưng về nội dung và hình thức vẫn có được một sự thống nhất bởi vì người khởi thảo cũng như người tục biên đều tuân thủ một phương pháp: ghi chép người thực và việc thực theo một chủ đề nhất định. Và các tác giả này đều có thái độ tôn trọng sự thật lịch sử khách quan. -Cho đến nay Hoàng Lê nhất thống chí đã có tới bốn bản dịch trong đó có hai bản dịch được coi là thành công nhất là bản dịch của Ngô Tất Tố (1942) và bản dịch của Kiều Ðức Vân và Nguyễn Thu Hoạch(1964). II.NỘI DUNG 1.Sự sụp đổ không gì cưỡng lại được của tập đoàn phong kiến thống trị Lê-Trịnh. Mặc dù lập trường tư tưởng là lập trường tư tưởng phong kiến và với tư cách là bề tôi trung thành của nhà Lê, momg ước cho chính quyền nhất thống về tay nhà Lê, các tác giả Hoàng Lê nhất thống chí vẫn phải ghi nhận một sự thật lịch sử:Sự sụp đổ của tập đoàn phong kiến thống trị Lê-Trịnh là không thể tránh khỏi. -Tác phẩm có đến hàng trăm nhân vật và các sự kiện lớn nhỏ nhưng tất cả chỉ xoay quanh thể hiện mấy ông vua, mấy ông chúa và các bề tôi miếu đường của chúng. Hàng
  22. ngày tất cả những con người này vây quanh chiêïc ngai vàng đã mục nát, ọp ẹp để tranh giành quyền lực, địa vị. Có khi đó là cuộc tranh giành trong nội bộ nhà vua Lê hoặc trong nội bộ nhà chúa Trịnh, có khi đó là cuộc tranh giành giữa vua Lê và chúa Trịnh. -Ngay từ thế kỷ XVI, giai cấp phong kiến thống trị đã bộc lộ bản chất xấu xa bên trong của mình. Nhưng có lẽ không lúc nào bằng lúc này- những ngày mạt vận, chúng bộc lộ một cách đầy đủ nhất, sâu sắc nhất bản chất xấu xa của mình. Dưới ngòi bút miêu tả hiện thực sắc sảo của các tác giả, bọn vua chúa, những thần tượng vốn được coi là thiêng liêng, tôn quí thì nay chỉ còn là những con người bế tắc về trí tuệ, sa đọa về đạo đức, cùng mòn trong đường lối chính trị. -Vua chúa: +Vua Lê Hiển Tông: Ông vua đầu tiên của giai đoạn này bề ngoài có đầy đủ khí tượng đế vương, nào là râu rồng, mũi cao, tóc hạc, mắt phượng, đi nhẹ như nước, ngồi vững như non nhưng bốn mươi năm trên ngôi là bốn mươi năm khoanh tay rủ áo, quẩn quanh trong một xó hoàng cung. Tiêu phí thời gian bằng cách sai các cung nữ mặc áo trận, cầm giáo mác, chia thế ba nước: Ngụy, Thục, Ngô rồi dạy cho họ cách ngồi, đứng, đâm, đỡ để mua vui. Ðáng sợ nhất là ở chỗ ông taý thức được thân phận bù nhìn của mình nhưng vẫn không lấy đó làm điều sỉ nhục, trái lại vẫn vui vẻ như thường vì triết lí sống của vua ta là: Trời sai chúa phò ta, chúa gánh cái lo, ta hưởng cái vui, mất chúa tức cái lo lại về ta, ta còn vui nỗi gì. Y là hiện thân đầy đủ cho sự bất tài, bất lực của tập đoàn phong kiến nhà Lê. +Vua Lê Chiêu Thống: Ðây là một tên vua bán nước cầu vinh mà lịch sử dân tộc muôn đời lên án. Nhờ Tây Sơn mà y được lên ngôi vua. Thực tế những ngày ngồi trên ngai vàng, y cũng chẳng làm được gì. Vì quyền lợi ích kỷ của bản thân mà y sẵn sàng bán rẻ quyền lợi dân tộc. Nổi bật ở con người này vẫn là sự bất tài, tham lam, bạc nhược. Ðứng trên lập trường dân tộc, tác giả đã phê phán tên vua này như sau: Nước Nam ta từ khi có đế có vương đến nay chưa có ông vua nào đê hèn và luồn cúi như vậy . Bởi vì tiếng là làm vua nhưng niên hiệu vẫn viết Càn Long, việc gì cũng do viên tổng đốïc họ Tôn khác gì phụ thuộc vào Trung Quốc. Có thể nói khi bán rẻ quyền lợi dân tộc, Lê Chiêu Thống cũng bán rẻ luôn nhân cách của mình. Những ngày cuối đời y sống ở Trung Quốc thật là nhục nhã, cái chết mà y phải đón nhận thật xứng đáng với phần đời mà y đã sống và làm hại dân tộc. +Trịnh Sâm: Tác giả giới thiệu y là một người cứng rắn, thông minh, quyết đoán, sáng suốt, trí tuệ hơn người, có đủ tài cả văn lẫn võ. Nhưng thực tế y chỉ là một kẻ chuyên quyền, cậy thế. Ðọc tác phẩm, chúng ta không thấy tài cán của chúa được thể hiện ở đâu hết, chỉ thấy lúc nào chúa cũng ăn chơi trác táng, cung điện đầy ắp cung nữ để chúa mặc ý vui chơi thỏa thích. Trịnh Sâm cũng đã trở thành đầu mối của mọi cuộc biến loạn trong phủ chúa với tội trạng bỏ con trưởng, lập con thứ. Y say mê Ðặng Thị Huệ mà đi đến bỏ bê cả triều chính. +Trịnh Tông: Là người nối tiếp Trịnh Sâm. Nhờ đám kiêu binh mà y dành lại được ngôi chúa và thực ra y cũng chỉ là con rối trong tay đám kiêu binh mà thôi. -Quan lại: +Châu tuần xung quanh bọn vua chúa trên là những quan lớn , quan nhỏ. Tất cả chỉ là một lũ bất tài, hám danh, tâm địa tráo trở. Có thể nói nguyên tắc sống cao nhất của đám quan lại lúc bấy giờ là quyền lợi, là địa vị, vì những cái đó chúng sẵn sàng
  23. làm tất cả: vu oan, tố cáo, hãm hại, chém giết, sát phạt, lẫn nhau. Và nếu cần, buôn vua bán chúa chúng cũng không nề hà. Có nhiều kẻ đã trở thành bọn đầu cơ chính trị, nhân việc nước trôi giạt mà mưu cầu phú quí. +Ðinh Tích Nhưỡng: Là một võ tướng, con nhà dòng dõi mười tám đời làm quận công, trước y theo chúa chống vua, thấy chúa thất thế y ngã về phía vua, khi vua không còn sức lực để tồn tại nữa thì y ngã về phía Tây Sơn và cho quân đi báo với Tây Sơn chỗ ở của vua và xin sai quân đến bắt. Chỉ cần với một câu nói của y mà tác giả đã khái quát được nhân cách bỉ ổi của tên võ tướng này: Vua không thương ta, ta còn cần gì vị nể nhà vua nữa. Ở đây tác giả Hoàng Lê nhất thống chí đã thấy được tính chất cơ hội chủ nghĩa hết sức bỉ ổi là nét tâm lí hếøt sức điển hình của bọn người này mà tập trung ngòi bút của mình, xoáy sâu vào phê phán. +Nguyễn Hữu Chỉnh: con người này hiện lên trong tác phẩm như một tên gian hùng của đời loạn. Là một con người có tài, nhưng xuất thân từ tầng lớp thương nhân nên lúc nào y cũng mang trong mình những ý nghĩ đen tối, tham lam. Vì địa vị, quyền lợi của mình, y sẵn sàng làm tất cả- phản chủ, giết bạn, giết người thân thích. Gió chiều nào y xoay theo chiều đó. -Binh lính: Từ chỗ là đội quân ưu binh, là đội quân đặc biệt đã từng là nanh vuốt của triều đình, đến giai đoạn này chỉ còn là bọn kiêu binh. Một đội quân kiêu căng, hống hách, tàn phá triều đình từ bên trong. Tất cả triều đình phải bó tay, ai cũng e sợ trước sức tàn phá của bọn này. -Trên cái đà tàn lụi đó của chế độü thì tất cả những cái được gọi là cương thường đạo lí, nền móng của xã hội đều bị đảo lộn: Nghĩa cả vua tôi, tình thầy trò, cha con, vợ chồng, anh em, mẹ con không còn gì là thiêng liêng nữa. *Tóm lại, một xã hội từ vua chúa, quan lại, binh lính cho đến nền móng đều thối nát, sụp đổ như thế thì còn sức nào đứng vững được nữa. Như thế về khách quan Hoàng Lê nhất thống chí đã nêu được xu thế tất yếu của lịch sử: Sự sụp đổ của tập đoàn vua Lê- chúa Trịnh là không thể tránh khỏi. Nguyên nhân thì có nhiều nhưng trước hết vẫn do bản chất xấu xa thối nát của chính giai cấp này gây nên. Và rồi chính bão tố của phong trào nông dân khởi nghĩa đã nhanh chóng đưa chúng đến sào huyệt của mình 2.Khí thế quật khởi quyết liệt chống thù trong giặc ngoài của phong trào khởi nghĩa Tây Sơn. Có thể nói các tác giả của Hoàng Lê nhất thống chí đã dũng cảm phản ánh phong trào, dám ghi lại khí thế quật khởi của cuộc khởi nghĩa. Mặc dù chưa thật hiểu, chưa miêu tả và phản ánh được một cách đúng đắn và đầy đủ về phong trào như nó vốn có trong lịch
  24. sử, nhưng cho đến nay Hoàng Lê nhất thống chí vẫn là tác phẩm duy nhất ghi lại được khí thế quật khởi của cuộc khởi nghĩa này. -Thành công của tác phẩm khi phản ánh sự kiện này là ở chỗ: +Bằng hình tượng nghệ thuật Hoàng Lê nhất thống chí đã dựng lên được hình ảnh Nguyễn Huệ và phong trào khởi nghĩa trên một bối cảnh lịch sử rộng lớn với giai đoạn phát triển khá dài, từ khi Tây Sơn dựng cơ dấy nghiệp, trải qua nhiều chiến công hiển hách cho đến lúc bị bại vong. +Tác phẩm đã khẳng định sức mạnh vô địch của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, khẳng định Nguyễn Huệ như một anh hùng chân chính có nhiều công lao đối với dân tộc, đất nước. +Ðặc biệt ở hồi thứ XIV của tác phẩm, các tác giả đã miêu tả cuộc hành quân, tiến quân ra Bắc đánh tan hơn hai mươi vạn quân Thanh của nghĩa quân Tây Sơn. Hồi thứ XIV đã được xem như một bản anh hùng ca nổi bật giữa những trang văn xám xịt miêu tả sự khủng hoảng thối nát của tập đoàn phong kiến thống trị Lê- Trịnh. Từ chỗ là người chứng kiến, tác giả đã nhập thân vào cuộc chiến đấu, theo sát từng trận đánh, miêu tả thật tỉ mỉ. Ðặc biệt họ đã tập trung khắc họa Nguyễn Huệ, vua Quang Trung đã trở thành linh hồn của cuộc chiến đấu. Ba chữ vua Quang Trung cứ trở đi trở lại như một điệp khúc tự hào trong hồi XIV này. Chính nhiệt tình yêu nước ở các tác giả đã giúp họ phần nào chiến thắng được định kiến giai cấp của mình. Họ không đồng tình với khởi nghĩa Tây Sơn nhưng họ lại tán đồng, lại ca ngợi hành động chống xâm lược của nghĩa quân. 3.Nguyên nhân thành công và hạn chế của tác phẩm.
  25. 2.3.1.Nguyên nhân thành công: Nguyên nhân chính làm nên phần thành công của tác phẩm là lập trường dân tộüc và sự tác độüng của đời sống thực tế. 2.3.2. Hạn chế của tác phẩm: Tác phẩm có những hạn chế là tất yếu bởi vì những người cầm bút đều mang tư tưởng chính thống phò Lê. Các tác giả còn rơi vào duy tâm siêu hình khi đánh giá các sự kiện lịch sử. Họ cắt nghĩa những biến cố lịch sử bằng vai trò của cá nhân và tư tưởng thiên mệnh. III.NGHỆ THUẬT 1.Thể loại. Cũng có thể là không nên gò ép tác phẩm thuộc thể loại nào nhưng chúng ta vẫn phải xác định Hoàng Lê nhất thống chí là một tác phẩm thuộc thể loại kí sự lịch sử. Khẳng định như vậy là xét về hoàn cảnh ra đời, nội dung phản ánh hiện thực và đặc trưng kết cấu cuả tác phẩm. 2.Nghệ thuật miêu tả. -Ðiểm đáng chú ý nhất trong Hoàng Lê nhất thống chí vẫn là nghệ thuật miêu tả. Ðọc tác phẩm ta thấy tất cả các sự kiện lịch sử chính xác như những sự kiện trong một cuốn sách sử học nhưng không phải được kể lại một cách khô khan, trần trụi mà được các tác giả miểu tả, dựng lên thành những bức tranh cụ thể, sinh động và có ý nghĩa khái quát hóa, có giá trị về mặt mĩ học. -Hiện thực được phản ánh ở đây phong phú đa dạng cho nên ngòi bút miêu tả của các tác giả cũng trở nên đa dạng, phong phú và mang nhiều sắc thái thẩm mĩ khác nhau. Ðối với bọn vua chúa, quan lại bao giờ tác giả cũng dùng ngòi bút miêu tả có tính chất trào phúng, khôi hài và cũng có khi châm biếm sâu cay. Khi miêu tả cảnh kiêu binh phò Trịnh Tông lên ngôi chúa, tác giả đã dùng ngòi bút so sánh để làm nổi bật tính chất khôi hài, trò hề trong hành động của Tông. Ðây cũng là một trong những cảnh có ý nghĩa trong tác phẩm. -Ngòi bút miêu tả đó cũng có khi mang không khí trang trọng hùng tráng của anh hùng ca. Ðó là trường hợp nhà văn miêu tả Nguyễn Huệ duyệt binh và ra lệnh cho quân lính trong buổi lễ xuất quân tiến thẳng ra Thăng Long tiêu diệt quân ngoại xâm. Dưới ngòi bút của tác giả, chiến dịch này như một bản anh hùng ca bất diệt, tác giả miêu tả nó với một thái độ hả hê, sảng khoái. -Chính ngòi bút miêu tả hiện thực phong phú đa dạng với nhiều sắc thái thẩm mĩ đã góp phần tạo nên giá trị phản ánh hiện thực lớn lao của tác phẩm.
  26. 3.Nghệ thuật xây dựng nhân vật. Các nhân vật tuy chưa đạt tới tính cách hoàn chỉnh nhưng mỗi nhân vật đã có được vẻ mặt riêng, cuộc sống riêng độc đáo, gây ấn tượng ở người đọc. Chẳng hạn cùng tính toán đêí bảo vệ lợi ích cá nhân nhưng cách làm của Lê Hiển Thông khác với cách làm của Lê Chiêu Thống, cách làm của quận Huy khác với cách làm của Nguyễn Hữu Chỉnh. IV.TỔNG KẾT Trong văn xuôi chữ Hán của văn học dân tộc, trước và sau Hoàng Lê nhất thống chí không có một tác phẩm thứ hai nào có qui mô lớn và đạt nhiều thành công như tác phẩm này. Chương 4 HỒ XUÂN HƯƠNG I.CON NGƯỜI VÀ THƠ 1. Con người Dựa vào một số tài liệu lưu truyền, dưạ vào những bài thơ được khẳng định là cuả Xuân Hương, các nhà nghiên cứu đã tạm thừa nhận một số kết luận bước đầu về tiểu sử của nữ sĩ như sau: -Hồ Xuân Hương thuộc dòng dõi họ Hồ ở làng Quỳnh Ðôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Ðây là một dòng họ lớn có nhiều người đỗ đạt và làm quan nhưng đến đời Hồ Phi Diễn- thân sinh của bà thì dòng họ này đã suy tàn. -Bà sống vào thời kỳ cuối Lê, đầu Nguyễn (cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX). Do đó bà có điều kiện tiếp thu ảnh hưởng của phong trào đấu tranh của quần chúng và chưúng kiến tận mắt sự đổ nát của nhà nước phong kiến.
  27. -Thành phần xuất thân: Bà xuất thân trong một gia đình phong kiến suy tàn, song hoàn cảnh cuộc sống đã giúp nữ sĩ có điều kiệnì sống gần gũi với quần chúng lao động nghèo, lăn lộn và tiếp xúc nhiều với những người phụ nữ bị áp bức trong xã hội. -Hồ Xuân Hương ít chịu ảnh hưởng của Nho giáo về mặt nhân sinh quan cũng như về phương diện văn chương. -Bà là một phụ nữ thông minh, có học nhưng học hành cũng không được nhiều lắm, bà giao du rộng rãi với bạn bè nhất là đối với những bạn bè ở làng thơ văn-các nhà nho.Nữ sĩ còn làì người từng đi du lãm nhiều danh lam thắng cảnh của đất nước. -Là một phụ nữ tài hoa có cá tính mạnh mẽ nhưng đời tư lại có nhiều bất hạnh. Hồ Xuân Hương lấy chồng muộn mà đến hai lần đi lấy chồng, hai lần đều làm lẽ, cả hai đều ngắn ngủi và không có hạnh phúc *Tóm lại: Hồ Xuân Hương là một nhà thơ đã sống một cuộc đời không âm thầm lặng lẽ như bao người đàn bà trong xã hội cũ mà bà đã sống một cuộc đời đầy sóng gió trong một hoàn cảnh xã hội cũng đầy sóng gió. 2.Thơ Hồ Xuân Hương. -Thơ Xuân Hương cũng rắc rối, phức tạp như chính cuộc đời bà. Số bài thơ còn lại cho đến nay chủ yếu nhờ vào sự lưu truyền, bảo vệ của nhân dân nên có nhiều dị bản. -Số thơ Nôm lâu nay được coi là của nữ sĩ khoảng năm mươi bài. Ðây là tập thơ Nôm luật Ðường xuất sắc của nền văn học dân tộc (Tập thơ Xuân Hương thi tập) Ngoài tập thơ này còn có tập thơ Lưu Hương kýï mang bút danh của nữ sĩ do ông Trần Thanh Mại phát hiện vào năm 1964 gồm 24 bài thơ chữ Hán và 28 bài thơ Nôm. Với một nghệ thuật điêu luyện, nhà thơ viết về tâm sự và những mối tình của mình với những người bạn trai. -Ðọc kĩ người ta thấy có một khoảng cách khá xa giữa tập thơ Nôm của Xuân Hương và Lưu Hương ký, chủ yếu là về phong cách biểu hiện Trong Lưu Hương Ký có cả thơ chữ Hán lẫn thơ chữ Nôm. Riêng phần thơ chữ Nôm trong Lưu Hương Ký nếu so sánh với thơ lâu nay được coi là của Xuân Hương thì hai bên vẫn có sự khác nhau. Thơ cữ Nôm trongLưu Hưong Ký có rất nhiều từ Hán Việt, giọng thơ lại hiền lành chứ không góc cạnh, gân guốc như ở Xuân Hương thi tập. Vì lí do trên, để bảo đảm tính khoa học, các nhà nghiên cứu chủ yếu chỉ dừng lại ở tập thơ Nôm còn Lưu Hương Ký được coi là một tập thơ để tham khảo.
  28. II.XUÂN HƯƠNG THI TẬP 1.Những vần thơ viết về người phụ nữ. Vấn đề người phụ nữ là vấn đề thời sự của văn học giai đoạn này. Vấn đề người phụ nữ được đặt ra với qui mô sâu rộng và được soi sáng ở nhiều góc độ rất tinh tế. Dường như trong giai đoạn này không có mấy nhà thơ không viết về người phụ nữ. Sáng tác trong bối cảnh văn học ấy, với tính cách và cảnh ngộ riêng của mình, nhà thơ đã viết rất nhiều về người phụ nữ. 2.1.1.Ðối tượng người phụ nữ mà thơ Hồ Xuân Hương hướng tới. Viết về người phụ nữ, bà đã viết về người phụ nữ lao động, người phụ nữ bình dân với nhiều bất hạnh. Bà viết về họ một cách trực tiếp với một thái độ dũng cảm. 2.1.2.Nỗi đau của hình tượng người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương. Tiếp tục tiếng nói của truyền thống văn học dân tộc, viết về người phụ nữ Hồ Xuân Hương cũng đã viết về nỗi đau của họ. Có thể nói hình ảnh người phụ nữ với cảm xúc khổ đau gần như thấm khắp các thi phẩm viết về mình, viết về người phụ nữ của Xuân Hương. Người phụ nữ trong thơ bà dường như chưa một lần nhận diện được hạnh phúc. Nỗi đau của người phụ nữ hiện lên trong thơ bà cũng rất tập trung, rất nổi bật. 2.1.2.1.Nỗi đau của tình duyên không toại nguyện. Bài thơ tiêu biểu cho nỗi đau này là bài Mời trầu. Bài thơ cùng với chùm thơ tự tình I, II, III làm nên mảng thơ đặc biệt cuả Xuân Hương thi tập- mảng thơ tâm sự, thơ thân phận. Ðây là những bài thơ trực tiếp thể hiện nỗi lòng, suy nghĩ và khát vọng của tác giả về cuộc đời và thân phận mình. Bài thơ có thể được sáng tác thời còn trẻ vì lời thơ chưa đến nỗi chua chát. Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi Này của Xuân Hương mới quệt rồi. Có phải duyên nhau thì thắm lại,
  29. Ðừng xanh như lá, bạc như vôi. -Hai câu đầu nhân vật trữ tình giới thiệu miếng trầu và mời trầu +Miếng trầu bao gồm những sự vật nhỏ mọn, nếu không muốn nói là tầm thường. +Ở đây miếng trầu, quả cau, ngôn ngữ tự xưng và phong cách khẩu ngữ Này, mới quệt rồi, tất cả đã có ý nghĩa biểu hiện một người con gái có ý thức về bản thân, có bản lĩnh nhưng cũng có tấm lòng bình dị, chân chất cũng có những tình cảm rất chân thành. -Hai câu cuối: Nhân vật trữ tình bộc bạch nguyện vọng trong quan hệ tình cảm lứa đôi. -Bài thơ có một kết cấu đặc biệt: câu ba là khát vọng, câu bốn là cảm nhận về hiện thực cay đắng trong cuộc sống tình duyên của người phụ nữ dưới xã hội phong kiến. Phải chăng với kết cấu này, tác giả muốn nói rằng trong cuộc đời cũ đối với người phụ nữ hạnh phúc chỉ là điều có trong mơ ước, còn khổ đau luôn là hiện thực. -Về phương diện bút pháp, hai câu thơ nhắn nhủ, kêu gọi, răn đe này lại có tính chất đảo ngược vị trí của quá trình chuyển hóa: Xanh+bạc=thắm(thắm,bạc,xanh. Bài thơ là lời kêu gọi về một tình yêu chân thành, say đắm, thủy chung nhưng khép lại thì dư âm, ấn tượng về một hiện thực cay đắng xanh như lá, bạc như vôi vẫn cứ nặng trĩu trong tâm hồn người đọc. Bài tự tinh số I: Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom Oán hận trông ra khắp mọi chòm Mõ thảm không khua mà cũng cốc Chuông sầu không đánh cớ sao om Trước nghe những tiếng thêm rền rĩ Sau giận vì duyên để mõm mòm Tài tử văn nhân ai đó tá Thân này đâu đã chịu già tom. -Hai câu đề: Bài thơ được mở đầu bằng tiếng gà gáy trên bom, qua tiếng gà văng vẳng là cả một không gian vắng lặng.
  30. -Hai câu thực: Hai câu thực nói rõ nỗi oán hận và gọi nó là sầu, là thảm. -Hai câu luận: Vẫn phô bày tiếp nỗi buồn, nỗi giận do những tiếng mõ thảm, những tiếng chuông sầu kia gợi nên. -Hai câu kết: Kết thúc bài thơ là tiếng gọi vừa có tính chất nghi vấn (hỏi), vừa có tính chất than- gọi Tài tử văn nhân ai đó tá. Ðó là cách gọi suông vì không có ai đáp lại và không được đáp lại thì người gọi đã buồn càng buồn hơn. Song câu kết thúc vẫn là một lời thách đố với số phận, với duyên kia. Duyên kia dù đã mõm mòm nhưng thân này đâu đã chịu già tom. Câu thơ như nói lên cái bản lĩnh cứng cỏi, cái sức sống khỏe khoắn mang màu sắc bướng bỉnh của người con gái đầy oán hận đối với cuộc đời-Hồ Xuân Hương. Qua bài thơ, chúng ta như nhận ra Hồ Xuân Hương là nhà thơ đau hết chỗ đau, buồn hết độ buồn nhưng vẫn bướng, vẫn ngang, vẫn không chịu đầu hàng, buông xuôi số phận. Vì lẽ đó mà bài thơ có giá trị nhân bản cao. Ở bài tự tình số II, tác giả lại viết: Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại, Mảnh tình san sẻ tí con con Sự sống của đất trời cứ vận hành như muôn thưở vậy, còn riêng mình thì vẫn cứ bất hạnh, hẩm hiu trong số phận, trong tình duyên. Ðọc thơ bà, người đọc có cảm giác người phụ nữ trong thơ Xuân Hương gần như chưa một lần nhận diện được hạnh phúc. 2.1.2.2.Nỗi đau không được làm chủ cuộc đời. Nỗi đau này được tác tác giả tập trung khắc hoạ trong bài Bánh trôi nước và Tự tình III. Bài Bánh trôi nước: Thân em vừa trắng lại vừa tròn Bảy nổi ba chìm với nước non. Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn Mà em vẫn giữ tấm lòng son. -Hai câu khai thừa:
  31. +Câu1: Câu thơ như là sự bằng lòng, sự vừa ý của người phụ nữ ý thức được vẻ đẹp của mình. Ðó là vẻ đẹp của nước da trắng nõn nà, thân hình gọn gàng, xinh xắn. +Câu 2: Con người với vẻ đẹp ấy đáng lí phải được sống trong hạnh phúc nhưng không, người con gái ấy đã phải sống một cuộc đời bảy nổi ba chìm với nước non . -Hai câu chuyển hợp: +Câu 3: Rắn nát (cứng mềm), hạnh phúc hay đau khổ, đời minh ra sao, may mắn, rủi ro đến mức nào là hoàn toàn phụ thuộc vào người khác. Người khác đó là cha, là chồng, bởi xã hội phong kiến vốn là xã hội nam quyền. Mặc dầu, liên từ vừa nói sự phụ thuộc vừa hàm nghĩa đối lập, ta như nhận ra một thái độ bất chấp, bất cần cuã nhân vật trữ tình. Giọng thơ như thách thức. +Câu 4: Liên từ mà cũng hàm nghĩa đối lập (có nghĩa là nhưng). Từ này được đặt ở vị trí đầu câu thơ nên ý nghĩa đối lập càng mạnh. Mà em vẫn giữ tấm lòng son. Dù sống trong bất cứ hoàn cảnh nào người phụ nữ vẫn giữ được phẩm chất trong sạch, trắng trong của mình. Giọng thơ quả quyết, tự tin, tự hào. Người phụ nữ ý thức được một cách đầy đủ nỗi đau và vẻ đẹp-vẻ đẹp hình thức và vẻ đẹp tâm hồn của minh. 2.1.2.3.Nỗi đau của thân phận làm lẽ. -Bài thơ có giá trị nhất trong chùm thơ nói về nỗi đau khổ của người phụ nữ là bài Làm lẽ. + Hai câu đề: Câu phá đề: Nhà thơ nói thẳng ngay vào vấn đề một cách cụ thể bằng cách dựng lên cảnh: Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng Câu thơ được ngắt làm hai theo biện pháp đối ngẫu của thơ Ðường luật, nhằm đối lập hai cảnh sống trái ngược nhau, một bên thì ấm áp, một bên thì lạnh lẽo. Câu thừa đề: Tiếp tục ý của câu phá đề, mặt khác tác giả ném ngay cái bực bội, cái căm uất của mình lên cảnh sống bất công đó:
  32. Chém cha cái kiếp lấy chồng chung Lời, ý của câu thơ rất mạnh bởi độüng từ chém mang thanh trắc rất gọn, sắc. Ðây là một lời chửi trong khẩu ngữ của quần chúng. -Hai câu thực: Từ thái độ căm giận, Xuân Hương đã chuyển sang miêu tả mối quan hệ vợ chồng của cảnh làm lẽ. Cũng tiếp tục ý của hai câu đề, tác giả trình bày sự thiệt thòi của người vợ lẽ một cách cụ thể hơn. Quan hệ ái ân giữa người chồng và người vợ diễn ra trong tình trạng: Năm thì mười họa hay chăng chớ Một tháng đôi lần có cũng không -Hai câu luận: Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm Cầm bằng làm mướn, mướn không công +Xuân Hương đã vận dụng hai thành ngữ chịu đấm ăn xôi và làm mướn không công để nói lên thân phận người vợ lẽ. Sự láy lại xôi lại hẩm, mướn không công cùng với nghệ thuật tiểu đối đã cực tả được cảnh khổ nhục của người vợ lẽ. -Hai câu kết: Thân này ví biết nhường này nhỉ Thà trước thôi đành ở vậy xong. Ðây là lời tâm sự của người vợ lẽ, tự lòng mình nói với mình. Hai tiếng thân này cùng với những từ biểu thị ý hối hận buông xuôi đi liền nhau:Ví biết, thà, thôi đành, vậy xong nghe như một tiếng thở dài não ruột, nhưng tiếng thở dài này lại chứa đựng một sự phản ứng, một lời tố cáo đối với chế độ đa thê. Tóm lại bài thơ đã nói lên nỗi xót xa, tủi nhục của kiếp lấy lẽ và thái độ của tác giả trước thực trạng đó. 2.1.2.4.Nỗi đau của sự dở dang. Bài thơ Sự dở dang.
  33. Ở bài thơ này tác giả không trực tiếp phản ánh nỗi đau khổ, tủi nhục mà các cô gái lỡ làng phải chịu đựng nhưng qua bài thơ người đọc cũng có thể hình dung ra được sự tàn bạo, sự khắc nghiệt của lễ giáo phong kiến đối với họ. Tóm lại viết về nỗi khổ của người phụ nữ, Hồ Xuân Hương đã viết được những điều mà không mấy ai viết được. Nhà thơ chưa nói đến toàn bộ nỗi khổ của họ mà chủ yếu bà đi sâu vào những nỗi đau có tính chất giới tính nhưng không kém phần bi kịch. Nhưng những bài thơ trên của Hồ Xuân Hương đã hòa vào tiếng nói chung của văn học đương thời để nói lên tiếng nói về cuộc đời đầy bất hạnh của người phụ nữ. 2.1.3.Vẻ đẹp của hình tượng người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương. Viết về người phụ nữ, Hồ Xuân Hương còn có những bài thơ bày tỏ niềm kiêu hãnh của mình về vẻ đẹp tâm hồn; vẻ đẹp của tài năng, trí tuệ; vẻ đẹp thân thể của người phụ nữ. 2.1 3.1.Vẻ đẹp tâm hồn. -Trong bài thơ Ðề tranh tố nữ, tác giả đã ca ngợi vẻ đẹp bất diệt của tuổi xuân, sự trinh trắng của ho:ü Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình Chị cũng xinh mà em cũng xinh Ðôi lứa như in tờ giấy trắng Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh -Trong bài Bánh trôi nước, nhà thơ đã ca ngợi, đề cao, trân trọng phẩm chất kiên trinh của người phụ nữ. Dù sống trong hoàn cảnh nào họ cũng giữ được tấm lòng son. -Trong bài Làm lẽ, tác giả đã ca ngợi vẻ đẹp của sức chịu đựng, sức phản kháng cuả người phụ nữ. -Bài Mời trầu lại là cái nhìn về vẻ đẹp của khát vọng sống. -Bài Sự dở dang lại là vẻ đẹp của đức hi sinh, của sức phản kháng. 2.1.3.2.Vẻ đẹp của tài năng, trí tuệ.
  34. -Trong bài Ðề đền Sầm Nghi Ðống, tác giả đã thể hiện đượcsự tự ý thức về mình, thể hiện được tài năng của người phụ nữ. Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo Kìa đền thái thú đứng cheo leo Ví đây đổi phận làm trai được. Thì sự anh hùng há bấy nhiêu. Ði qua ngôi đền thờ tên tướng bại trận, nhà thơ phụ nữ này đã không chịu cất nón, cúi đầu chào kính cẩn, trái lại còn buông lời chê cười, mỉa mai: ghé mắt tức là nhìn liếc, nhìn bằng nửa con mắt. Kìa là chỉ, trỏ, không đáng chú ý. Ðứng cheo leo: Thế đứng buồn tẻ, không có gì là vững chãi. Ðặc biệt ở hai câu kết nhà thơ đã dám nói một điều táo bạo: Nếu được làm trai thì sự nghiệp anh hùng của ta sẽ không xoàng, không tồi tệ như sự anh hùng của nhà ngươi đâu. 2.1.3.3.Vẻ đẹp thân thể. -Hồ Xuân Hương còn công khai ca ngợi và khẳng định vẻ đẹp thân thể của người phụ nữ. -Cách miêu tả của Xuân Hương thuộc vào loại độc đáo nhất của thời dại. Bà chú ý đến những bộ phận thân thể thường được dấu kín của con người. Những bộ phận đó văn học thời đại thường né tránh. Riêng Hồ Xuân Hương lại nhìn thấy đó chính là một trong những biểu hiện của vẻ đẹp thân thể của người phụ nữ. Cách miêu tả của bà cụ thể, không chung chung, mờ nhạt: Ðôi gò Bồng đảo hương còn ngậm Một lạch Ðào nguyên suối chửa thông Tất cả còn phong nhụy, trinh nguyên. Tóm lại viết về người phụ nữ Hồ Xuân Hương đã biểu thị một thái độ xót thương, thông cảm, tin yêu và đấu tranh bênh vực cho quyền sống của họ. Cũng vì thế mà thơ bà có giá trị nhân đạo sâu sắc. 2.Những vần thơ trữ tình yêu đời.
  35. Hồ Xuân Hương không phải chỉ là một con người nguyền rủa, đập phá mà bà còn là một con người chứa chan tình cảm, giàu khát vọng và thiết tha với đời. Con người trong thơ Hồ Xuân Hương luôn luôn sẵn sàng mở rộng tấm lòng của mình đễ chào đón tất cả những gì trẻ trung, tươi tắn. Ðiều này thể hiện tập trung nhất ở cách nhìn cảnh vật thiên nhiên của tác giả. Là một nhà thơ yêu đời Xuân Hương thường nhắc đến mùa xuân một cách trực tiếp hay gián tiếp với một tình cảm đằm thắm, lạc quan. Và bao giờ bà cũng tìm thấy ở mùa xuân một hứng thú mới để gắn bó hơn với cuộc sống. 3.Những vần thơ trào phúng. 2.3.1.Ðối tượng trào phúng. Ðó là những hiền nhân, quân tử, anh hùng, vua chúa, nhà sư, quan thị, những gương mặt nam nhi không xứng mặt nam nhi. So với các tác khác cùng thời, so với văn học dân gian, đối tượng phê phán trong thơ Hồ Xuân Hương phong phú hơn. 2.3.2.Nội dung trào phúng. -Hồ Xuân Hưỡng lên án, châm biếm thói đạo đức giả . -Hiền nhân, quân tử, anh hùng, vua chúa là những người theo đòi giáo lý của Khổng- Mạnh, là những người luôn rêu rao tinh thần khắc kỷ để phục lễ, luôn đề cao khẩu hiệu nam nữ thụ thụ bất thân, tự cho mình là người không lưu tâm đến sắc dục. Vậy mà trong thơ Xuân Hương, những hạng người cao quý này lại hiện lên với những ham muốn sắc dục mãnh liệt và duy nhất chỉ có ham muốn ấy mà thôi. Viết điều ấy, đúng là nữ sĩ đã hạ bệ đối tượng chóp bu này không chút thương tiếc. Tóm lại: Chùm thơ đả kích trào lộng này tuy chưa đề cập đến đời sống vật chất của xã hội nhưng ngòi bút trào lộng sắc sảo của Xuân Hương cũng đã có những đóng góp đáng quý. Cùng với thơ ca dân gian thời kỳ này, chùm thơ phê phán hiện thực trên chắc chắn đã hỗ trợ đắc lực cho phong trào đấu tranh của quần chúng bấy giờ. 4.Một số vấn đề về nghệ thuật. 2.4.1.Vấn đề tục và dâm trong thơ bà. Ðây là vấn đề từng gây nhiều tranh cãi và nói chung ở mỗi thời đại, mỗi giai cấp đều có những ý kiến khác nhau.
  36. *Trước Cách mạng tháng tám: -Giai cấp phong kiến cho thơ bà không đứng đắn, tà dâm. -Giai cấp tư sản tán thành cái tình trong thơ bà nhưng lại cho rằng thơ bà có ý lẳng lơ. *Sau Cách mạng tháng tám: -Nhờ có quan niệm mĩ học Mác-Lênin soi rọi các nhà nghiên cứu đều nhất trí cho rằng thơ Xuân Hương chứa chan tinh thần nhân đạo và giá trị phê phán xã hội nhưng vấn đề dâm và tục vẫn chưa nhất trí, tựu trung có ba loại ý kiến: -Tư tưởng chi phối tập thơ là tư tưởng dâm. (tiêu biểu cho loại ý kiến này là ý kiến cuả ông văn tânVăn Tần). -Thơ Xuân Hương có bài dâm có bài không dâm mà chỉ là tục (tiêu biểu cho loại ý kiến này là ý kiến cuả ôngTrần Thanh Mại). -Thơ Xuân Hương có những hình ảnh tục nên một số bài có bị hạn chế nhưng nhìn chung là tốt cả ( tiêu biêu cho loại ý kiến này là ý kiến cuả nhà thơXuân Diệu). *Chúng ta cần hiểu cơ sở để xác định một tác phẩm nghệ thuật, một tác phẩm văn chương có yếu tố dâm hay không là xác định cho được mục đích phản ánh của cái tục là gì? Tác phẩm văn học là dâm khi nó lấy cái tục làm mục đích và lúc đó cái tục sẽ trở thành nội dung của nghệ thuật. Nếu cái tục chỉ là phương tiện nghệ thuật để nhà văn biểu hiện cảm xúc, tình cảm lành mạnh nào đó thì không thể kết luận tác phẩm ấy có yếu tố dâm. Tóm lại: Tục và dâm khác nhau ở mục đích phản ánh của từng yếu tố ấy. Thực tế trong sáng, Xuân Hương đã sử dụng cái tục làm phương tiện nghệ thuật để phê phán, đả kích, trào lộng, để bộc lộ cảm xúc nhân đạo của mình. 2.4.2.Ngôn ngữ thơ ca. -Ngôn ngữ thơ bà được lựa chọn trong kho tàng ngôn ngữ của văn học dân gian. Trong kiến trúc câu thơ, yếu tố ca dao, tục ngữ được bà đặt rất đúng chỗ nên rất tự nhiên và nó có sức mạnh riêng của nó. -Tác giả dùng những vần khó gieo, thi pháp trung đại gọi là tử vận-vần chết, khó họa lại nhưng khi sử dụng thành công lại có giá trị độc đáo. Ví dụ vần ênh trong bài Tự
  37. tình số III, vần này đã gợi cảm giác bất định, mong manh về số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. -Thơ Ðường luật vốn được dùng trong thi cử, niêm luật chặt chẽ, hình thức đường bệ, nội dung cũng đường bệ. Hồ Xuân Hương đã đem đến cho thể thơ này một nội dung rất thông tục. III.KẾT LUẬN Xuân Hương thi tập cũng là một tập thơ của thời đại, thời đại cuối Lê- đầu Nguyễn, thời đại đấu tranh sôi nổi để đẩy lùi lễ giáo phong kiến vô nhân đạo, đấu tranh để đòi hỏi được xác nhận thân phận, đòi hỏi để được xác nhận quyền sống tự do và hạnh phúc. Xuân Hương thi tập đã thể hiện được phần nào những khát vọng đó của con người thời đại. Chương 5 TRUYỆN THƠ NÔM I.MỘT SỐ VẤN CHUNG VỀ TRUYỆN THƠ NÔM -Truyện Nôm là một bộ phận văn học khá độc đáo và có giá trị của nền văn học phong kiến Việt Nam. Ðây là một loại hình tự sự có khả năng phản ánh hiện thực với một phạm vi tương đối rộng, vì vậy có người gọi truyện thơ Nôm là trung thiên tiểu thuyết (tiểu thuyết vừa). Bộ phận văn học này được sáng tác bằng chữ Nôm và phần lớn được viết theo thể lục bát- thể thơ quen thuộc nhất với quần chúng. Một số ít khác viết theo thể thất ngôn bát cú (thơ Ðường luật), tác phẩm Lâm Tuyền kỳ ngộ thuộc loại này. Bộ phận văn học này có một số lượng khá lớn và có vị trí rất quan trọng trong đời sống tinh thần của quần chúng lao động. -Giá trị của truyện Nôm đã được khẳng định qua thời gian tồn tại của nó và lòng hâm mộ của quần chúng ở nhiều thế hệ. Song hiện tại khi nghiên cứu bộ phận văn học này chúng ta sẽ gặp một số vấn đề khó giải quyết như: Nguồn gốc, sự phát triển, thời điểm sáng tác. Cố nhiên các nhà nghiên cứu bước đầu cũng đã co đượcï những ý kiến về các vấn đề trên, tuy mới dừng lại ở mức độ của những giả thiết. 1.Vấn đề nguồn gốc và sự phát triển của truyện Nôm. -Hình thức đầu tiên của các truyện Nôm là những bài hát tự sự của các nghệ nhân hát rong (hiện tượng hát rong xuất hiện ở nước ta từ thế kỷ nào thì chưa xác định
  38. được, chỉ biết rằng khi có các đô thị thì đã có nhiều người sống bằng nghề này, nhất là sau thế kỷ XV). Những bài hát tự sự này phần lớn đưọc các nghệ nhân sáng tác hoặc dựa trên cơ sở của truyện cổ dân gian, hoặc rút ra từ một truyện Nôm đã có trước. Càng về sau, những bài hát này càng được bồi bổ thêm về mặt nội dung cũng như nghệ thuật và đến một lúc nào đố bài hát đã được ghi vào trong sách, từ đó chính thức trở thành một truyện Nôm (lọai này có thể kể đến truyện: Trương Chi, Tấm Cám). -Nơi thứ hai sản sinh ra các truyện Nôm là các nhà chùa của đạo phật. Ðể tuyên truyền đạo phật cho các tín đồ mà phần đông là không biết chữ, một số nhà sư có học đã nghĩ ra cách diễn Nôm một số sự tích trong kinh phật, hình thức này ngày càng phát triển và nhiều truyện Nôm đã xuất hiện theo con đường này. Trên đây là nguồn gốc ra đời của truyện Nôm, trong hai hình thức trên cái nào có trước, cái nào có sau chúng ta vẫn chưa xác định được. -Các hình thái của truyện Nôm. +Truyện Nôm ra đời và tồn tại với hình thái đầu tiên là truyện Nôm truyền khẩu. Sau một thời gian dài, khi phong trào truyện Nôm truyền khẩu phát triển mạnh mẽ thì các nho sĩ bình dân và bác học đã mạnh dạn sử dụng loại hình văn học này để sáng tác, hoặc ghi chép lại những truyện Nôm đã có. Từ đó truyện Nôm viết được xuất hiện. Cũng như mọi hình thái sáng tác, truyện Nôm không phải là đã kế tiếp nhau một cách dứt khoát mà mỗi cái khi xuất hiện đều tồn tại song song với những cái xuất hiện trước hoặc sau nó. +Cho đến nay chúng ta vẫn chưa xác định được truyện Nôm viết xuất hiện vào thời gian nào và sự phát triển của nó trong lịch sử văn học. Bởi vì cho đến nay hầu hết các truyện Nôm còn lại đều không có tên tác giả và thời điểm sáng tác. +Các nhà nghiên cứu đã căn cứ vào mối quan hệ giữa nội dung tác phẩm và hiện thực đời sống xã hội, căn cứ vào tài liệu cấm đoán của giai cấp thống trị, căn cứ vào hình thức ngôn từ và thể loại mà đi đến một nhận định sơ bộ về sự phát triển của bộ phận văn học này như sau: Chính giai đoạn lịch sử từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX là giai đoạn bộ phận văn học này ra đời và phát triển, thời kỳ cực thịnh của nó là thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX. Phần lớn các truyện Nôm lưu hành hiện nay cũng ra đời trong hai thế kỷ này. Sang đầu thế kỷ XX việc sáng tác truyện Nôm dần dần chấm dứt vì thể loại văn xuôi mới ra đời đã đủ sức thay thế nó. 2.Vấn đề khuyết danh.
  39. -Hiện nay chúng ta còn một số lượng khá lớn truyện Nôm không còn tên tác giả và thời điểm sáng tác, người ta gọi bộ phận văn học này là truyện Nôm khuyết danh.Nguyên nhân của hiện tượng văn học này? Có ba nguyên nhân. +Do tâm lý coi thường các sáng tácbằng chữ Nôm của các nhà nho. Tâm lý này đã ảnh hưởng đến nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội kể cả những người sáng tác. Do bị coi thường (bị coi là loại văn học nhảm nhí, nôm na, mách qué) cho nên khi các sáng tác bằng chữ Nôm ra đời tác giả của chúng không được chú ý đến và dần dần bị quên lãng. +Do sự cấm đoán, thái độ thù địch của giai cấp thống trị. Ðể tránh búa rìu của bọn chúng, nhiều tác giả đã không dám lưu danh trong sáng tác. Ðây là một nguyên nhân quan trọng. +Nguyên nhân văn học:Trước khi được ghi chép bằng chữ quốc ngữ, truyện Nôm được lưu hành trong nhân dân chủ yếu là bằng miệng. Qua một thời gian dài lưu hành từ người này sang người khác, từ vùng này sang vùng khác nhiều truyện Nôm dần dần mất tên tác giả ban đầu và trở thành tác phẩm khuyết danh, có truyện đã trở nên rất gần gũi với các truyện cổ dân gian. 3.Vấn đề phân loại. Truyện Nôm có một số lượng khá lớn hơn nữa lại do nhiều tầng lớp khác nhau sáng tác cho nên nội dung cũng như nghệ thuật của nó đều không thuần nhất. Ðể tiện cho việc nghiên cứu người ta đã tiến hành phân loại bộ phận văn học này. Dựa theo những căn cứ khác nhau mà có những cách phân loại khác nhau. Có thể phân loại theo ba cách sau: 1.3.1.Dựa vào nguồn gốc đề tài có ba loại. -Loại lấy đề tài từ các truyện cổ dân gian. Ví dụ: Trương Chi, Tấm Cám, Thạch Sanh. -Loại lấy đề tài, cốt truyện từ văn học Trung Quốc. Ví dụ: Truyện Hoa Tiên, Nhị độ mai, Phan Trần. -Loại lấy đề tài, cốt truyện từ những sáng tác chữ Hán hoặc những sự tích có thật ở Việt Nam. Ví dụ: Tống Trân-Cúc Hoa, Bích Câu kỳ ngộ. 1.3.2.Dựa vào nội dung và hình thức, có hai loại.
  40. -Truyện Nôm bình dân: Loại này do các nho sĩ bình dân sáng tác. +Về nội dung loại truyện này mang đậm tính chất quần chúng. +Về nghệ thuật: mộc mạc , giản dị. +Ví dụ: Tống Trân- Cúc Hoa, Phạm Công-Cúc Hoa, Phạm Tải-Ngọc Hoa. -Truyện Nôm bác học: Lọai này do các nhà nho thuộc tầng lớp trên sáng tác. +Về nội dung, tư tưởng có phần phức tạp hơn truyện Nôm bình dân. +Về nghệ thuật điêu luyện hơn truyện Nôm bình dân. +Ví dụ: Phan Trần, Nhị độ mai. 1.3.3.Dựa vào mối quan hệ với tác giả: phân làm hai loại. -Truyện Nôm hữu danh (còn tên tác giả, ví dụ truyện Hoa Tiên của Nguyễn Huy Tự), loại này còn lại không nhiều. Truyện Nôm hưũ danh phần lớn là truyện Nôm bác học. -Truyện Nôm khuyết danh (không còn tên tác giả). Phần lớn các truyện Nôm khuyết danh là truyện Nôm bình dân. .Cả ba hình thức phân loại trên chỉ có tính chất tương đối, trong đó hình thức thức thứ hai là hình thức phân loại có giá trị khoa học. II.ÐẶC ĐIỂM NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT CỦA TRUYỆN THƠ NÔM BÌNH DÂN. 1.Nội dung. Vấn đề trung tâm đặt ra trong hầu hết các truyện Nôm bình dân là cuộc đấu tranh của những người bị áp bức chống cường quyền bạo chúa bảo vệ tình yêu thủy chung, bảo vệ hạnh phúc gia đình, bảo vệ nhân phẩm. Qua cuộc đấu tranh nhiều khi không cân sức ấy, tác giả truyện Nôm bình dân có ý thức làm nổi bật hai vấn đề cơ bản sau: -Tố cáo bộ mặt thối nát, tàn bạo của xã hội phong kiến trên bước đường suy vong của nó.
  41. -Ðề cao phẩm chất tốt đẹp của quần chúng lao động. -Ngoài ra các tác giả truyện Nôm bình dân cũng thường đưa ra những cách giải quyết tích cực, tiến bộ các vấn đề xã hội. Ba vấn đề này được coi là ba đặc điểm chính về nội dung của truyện Nôm bình dân. Ba đặc điểm này cũng đã nói lên rằng truyện Nôm bình dân có một nội dung gần gũi với quan niệm đạo đức, thẩm mĩ của quần chúng lao động. 2.1.1.Tố cáo bộ mặt cực kỳ thối nát, tàn bạo của xã hội phong kiến. -Trong vấn đề phản ánh hiện thực, tố cáo tội ác của giai cấp thống trị, vạch rõ bản chất của xã hội phong kiến, nói lên những nỗi thống khổ của quần chúng lao động, tác giả của những truyện nôm giàu tính quần chúng này cũng chưa có được cái nhìn đầy đủ, sâu sắc và toàn diện. Kẻ thù giai cấp của quần chúng hiện lên trong trụuyện chưa phải là cả hệ thống giai cấp phong kiến thống trị đã cấu kết với nhau để bóc lột nhân dân mà chỉ hiện lên lẻ tẻ. Hình thức bóc lột chính là bóc lột về mặt kinh tế vẫn chưa được các tác giả của bộ phận văn học này đề cập đến. Song ở một mức độ nào đó các tác giả này cũng đã chung sức vạch rõ bản chất thối nát , tàn bạo của xã hội phong kiến. Họ cũng đã dũng cảm làm cái công việc mà những nhà thơ, nhà văn đại diện cho quyền lợi của giai cấp thống trị không dám làm hoặc che dấu để dối mình, lừa người. Ðó là phơi bày chân dung thực vốn hết sức bẩn thỉu của giai cấp thống trị. Có thể nói, cùng với bộ phận văn học dân gian, truyện Nôm bình dân đã giúp chúng ta tìm hiểu thêm được nhiều mặt thuộc về bản chất của xã hội phong kiến, một xã hội mà lịch sử dân tộc ta mãi còn lên án. -Những truyện Nôm khuyết danh đã xây dựng được một hệ thống nhân vật phản diện từ vua chúa, quan lại, bọn nhà giàu ở nông thôn cho đến cả thần thánh (những thần thánh tàn ác). Qua hệ thống nhân vật phản diện này các tác giả đã vạch trần, tố cáo bản chất xấu xa của giai cấp bóc lột, áp bức đồng thời nói lên tình trạng thống khổ của các tầng lớp nhân dân với một thái độ đồng tình sâu sắc -Vua chúa. +Nếu như trong văn học bác học vua chúa thường được nhắc đến với một thái độ tôn kính hoặc được coi như những thần tượng thiêng liêng tôn quý thì ở truyện Nôm bình dân chúng chỉ là những tên hôn quân, bạo chúa đáng lên án nhất. Loại truyện này nói rất nhiều đến việc vua chúa ép duyên trắng trợn. Hoặc chúng ép các tân khoa trạng nguyên phải bỏ vợ tào khang (người vợ đã cùng chung sống trong cảnh nghèo hèn) để lấy con gái mình (hai tên vua trong Tống Trân-Cúc Hoa đã lần lượt ép Tống Trân lấy con gái mình, bỉ ổi nhất là tên vua nước Việt sau khi không ép được Tống Trân hắn đã đẩy chàng đi xa). Hoặc những tên vua như Trang vương trong Phạm Tải-Ngọc Hoa, vua Hung Nô trong Lý Công đã ép những người con gái đẹp bỏ chồng để lấy mình. Tàn bạo
  42. nhất vẫn là Trang Vương, hành động ép buộc của y đã đẩy Ngọc Hoa-một cô gái đang yêu vào chỗ chết. Cái chết của nhân vật này đã gieo vào lòng người đọc một nỗi thương tâm vô hạn và càng thấy căm thù hơn giai cấp phong kiến thống trị. +Có quyền, có lực bọn vua chúa tự cho phép mình làm những việc trái với luân thường, đạo lý nhằm thỏa mãn dục vọng đen tối của mình nhưng mặt khác đối với quần chúng lao động- những con người bị áp bức- bọn chúng lại ra sức kìm hãm tình cảm chân chính của họ. Tên vua Bảo Vương trong Lý Công đã cương quyết cắt đứt tình cha con, nhẫn tâm bắt con gái độc nhất cho voi giày, không được thì đem thả bể trôi sông chỉ vì công chúa đã tự tiện yêu đương ngoài sự kiểm soát của cha mẹ. -Quan lại: Trong truyện Nôm bình dân, bon quan lại hiện lên chỉ là những kẻ bất tài, bất lực, chỉ giỏi việc xu nịnh vua, giỏi ức hiếp dân. Cả lũ triều thần trong Phạm Tải- Ngọc Hoa không ngăn cản nổi vua làm điều xằng bậy lại con xúi giục vua đi sâu vào tội lỗi. Tên quan trong Phương Hoa chỉ vì không lấy được người con gái đã hứa hôn đã đem tay chân đến giết hại, cướp của, phá nhà của cô gái ấy. -Bọn nhà giàu ở nông thôn. Những phú ông, những trưởng giả-bọn giàu có ở nông thôn được phản ánh trong các truyện Nôm khuyết danh bình dân khá sâu sắc. Nét nổi bật ở bọn người này là tâm lý tham tiền. Vì tiền, bọn chúng có thể làm tất cả. Có độc giả nào lại không căm ghét tên trưởng giả trong Tống Trân-Cúc Hoa. Vì tiền mà hắn đã coi con gái như một món hàng có thể đánh mõ, rao làng, gả bán mấy lần cũng được. Chẳng cần giữ một chút liêm sĩ nào cả, y ép Cúc Hoa phải bỏ chồng đi vắng để lấy một người triệu phú trong làng. Khi con gái kháng cự lại, y đã hành hạ con không tiếc tay và cuối cùng vẫn gả bán con cho bằng được mặc cho cô gái tội nghiệp kêu than. *Tóm lại: Tất cả những bọn này để đạt được mục tiêu ích kỷ, đê hèn của mình đã không từ một âm mưu, một thủ đoạn đen tối, hiểm độc nào. Chúng đã giày xéo lên những đạo đức, luân lý cơ bản nhất, giày xéo lên những pháp luật mà chúng đặt ra, giày xéo lên tính mạng của người dân và phá hoại hạnh phúc của bao nhiêu người vô tội. Ðồng thời với việc tố cáo tội ác của giai cấp thống trị, tác giả của bộ phận văn học này đã nói lên được nỗi thống khổ của quần chúng lao động (hạnh phúc tan vỡ, tính mạng bị đe dọa .) với một thái độ đồng tình sâu sắc. 2.1.2.Ðề cao những phẩm chất tốt đẹp của quần chúng lao động. Truyện Nôm bình dân có một giá trị nhân đạo khá sâu sắc bởi nó không chỉ tố cáo những tội ác của giai cấp thống trị với quần chúng lao động , với những con người bị áp bức, đè nén mà các tác giả của bộ phận văn học này còn có ý thức đề cao phẩm chất tốt
  43. đẹp của quần chúng lao động, đặc biệt là đề cao người phụ nữ- con người thấp hèn nhất trong xã hội xưa. -Khuynh hướng đề cao quần chúng lao động đều thể hiện rất rõ trong mọi truyện Nôm bình dân. Ta thấy rằng các nhân vật chính bao giờ cũng là những người lao động, những người bị áp bức, bóc lột. Truyện viết về họ nên tác giả thường lấy tên họ đặt cho tác phẩm: Thạch Sanh, Tấm Cám, Trương Chi . -Ðề cao phẩm chất tốt đẹp của quần chúngü, tác giả của bộ phận văn học này chủ yếu viết về những tình cảm tốt đẹp và lòng nhân đạo cao quý của họ. Trước hết là lòng thương người, một tình thương hết sức mộc mạc, chân thành mà cảm động và vững bền. -Ðó là những con người như Cúc Hoa, Ngọc Hoa sẵn sàng yêu thương kẻ nghèo khó khốn cùng (mẹ con Phạm Công, Phạm Tải). Ðó là tấm lòng cưu mang những con người sa cơ, lỡ vận; là tấm lòng chí hiếu của những nàng dâu đối với mẹ chồng như Thoai Khanh đối với mẹ Châu Tuấn, Cúc Hoa đối với mẹ Phạm Công. Quan hệ mẹ chồng-nàng dâu ở đây được khẳng định là một tình cảm tốt đẹp, đáng quý chứ không phủ định như ở ca dao. -Nổi bật nhất vẫn là tình cảm, tình yêu của những cặp vợ chồng, họ yêu thương thắm thiết và chung thủy hết mực với nhau. Sự chung thủy của vợ chồng Phạm Công- Cúc Hoa, Phạm Tải-Ngọc Hoa đã giúp họ vượt qua mọi thử thách, mọi cảnh ngộ éo le mà xã hội phong kiến đã bày ra, giúo họ vượt lên trên sự cám dỗ của giàu sang, phú quý, đứng vững trước sự đe dọa của cường quyền, bạo lực. -Ðề cao quần chúng lao động, tác giả của bộ phận văn học này cũng đặc biệt chú ý đề cao người phụ nữ. Ðây cũng là một nét đặc sắc của văn học giai đoạn này đồng thời nó cũng là sự phản ánh vai trò, chức năng của người phụ nữ vào văn học. Các nhân vật phụ nữ xuất hiện trong các truyện Nôm bình dân có nhiều nét đổi mới: Họ xuất hiện với một tư thế của người vươn lên làm chủ vận mệnh. Thường xuất thân từ lá ngọc cành vàng (con nhà triệu phú trở lên như Cúc Hoa) nhưng các nhân vật nữ này lại có thân phận cụ thể của quần chúng lao động (họ cũng bị áp bức, đè nén; giàu lòng trắc ẩn, giàu lòng thương người). Các điểm cần lưu ý. +Các nhân vật nữ đã dám hành động theo suy nghĩ của mình chứ không theo đạo đức phong kiến. Hành động của Cúc Hoa, Ngọc Hoa quả là những hành động táo bạo. Hai cô gái này đã cương quyết lấy người con trai mà mình đã thương yêu dù những chàng trai đó là những người ăn mày nghèo nàn. Quan niệm về hôn nhân của Cúc Hoa, Ngọc Hoa là một quan niệm hết sức tiến bộ, nó vượt xa quan niệm môn đăng hộ đối của
  44. các cô gái quý tộc xưa. Hai cô dám nhìn thẳng vào chân giá trị của những con người nghèo hèn nhất, đến với họ và đến với cả một tấm lòng yêu thương và thông cảm. +Hoàn toàn khác với các cô gái trong truyện Nôm bác học, đến với tình yêu bằng sự rung động của giới tính, cac cô gái của truyện Nôm bình dân đã đến với tình yêu bằng sự rung động của đạo đức-lòng yêu thương những người nghèo. Ðây chính là cơ sở của nhiều mối tình son sắt, thủy chung bất chấp những ngang trái của cuộc đời cũ. +Một số nhân vật nữ không chỉ dám chủ động xây dựng hạnh phúc mà còn tích cực đấu tranh để bảo vệ hạnh phúc và tình yêu đẹp đẽ của mình (nên nhớ rằng các nhân vật này bảo vệ tình yêu, hạnh phúc của bản thân chứ không phải để bảo vệ đạo đức phong kiến). Và trong cuộc đấu tranh đó họ đã bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp (lòng vị tha, đức hi sinh, nghị lực phi thường, trí thông minh quyết đoán ) mà nội dung phản ánh còn được mở rộng, ý nghĩa xã hội của chủ đề được nâng cao. Cuộc đấu tranh của họ ngoài ý nghĩa bảo vệ hạnh phúc, tình yêu còn có ý nghĩa bảo vệ nhân phẩm, bảo vệ chính nghĩa, bảo vệ công lý. +Cố nhiên những phẩm chất đạo đức trên thường bị tác giả quy vào những quan niệm: trung, hiếu, tiết, nghĩa của hệ thôïng luân lý Nho giáo. Nhưng xét cho cùng những khái niệm đạo đức đó căn bản đã có một nội dung nhân đạo được nhân dân tán thành và ưa chuộng. 2.1.3.Cách giải quyết các vấn đề xã hội. -Truyện Nôm bình dân không chỉ đặt ra những vấn đề lớn lao mà truyện Nôm còn đưa ra được cách giải quyết tích cực là để những người lương thiện chiến thắng các lực lượng bạo tàn. Ðây là phần lãng mạn tích cực của bộ phận văn học này vì thực ra trong chế độ phong kiến nói chung nhân dân lao động làm gì kiếm ra được hạnh phúc trọn vẹn bởi các cuộc khởi nghĩa của nông dân thường đi đến thất bại hoặc chỉ đưa đến một sự thay đổi triều đại rồi đâu lại vào đấy. -Nhưng có một điều là sống trong xã hội đen tối đó quần chúng lao động bao giờ cũng có một ước mơ về một xã hội không có sự bất công, bất bình đẳng, một xã hội thái bình trong đó người ta sống yêu thương nhau và có hạnh phúc đầy đủ, họ ước mơ một xã hội có vua tốt, tôi hiền. (Văn học dân gian nói đến vấn đề này rất rõ). Ðó là những mơ ước chính đáng (xét trong hoàn cảnh xã hội) chứ chưa phải là nhữnh mơ ước đúng đắn nhất, đầy đủ nhất. Tác giả của bộ phận văn học này là những người có cuộc sống khá gần gũi với quần chúng lao động nên họ hiểu được quần chúng nhiều hơn và phản ánh được những ước mơ đẹp đẽ, phản ánh được tinh thần lạc quan mạnh khỏe của quần chúng vào sáng tác của mình. Vì thế các sáng tác của các tác giả bình dân này đã tiếp thêm sức sống
  45. cho con người lao động trong xã hộ xưa, quần chúng tìm đến những sáng tạo nghệ thuật này một phần cũng vì lý do trên. -Chúng ta cũng cần biết thêm rằng: Do những hạn chế của lịch sử cho nên các tác giả cũng chưa nhìn thấy ở quần chúng cái động lực để giải quyết các vấn đề thời đại đặt ra, cho nên trong đấu tranh họ phải nhờ đến những lực lượng siêu hình như thần phật giúp đỡ. Nhưng thần phật cũng chỉ có mặt để cho con người chiến đấu hết mình với hoàn cảnh. Trong cuộc đấu tranh sinh tử ấy, con người vẫn phải chủ động, vẫn phải nỗ lực rất nhiều. 2.Ðặc điểm nghệ thuật. 2.2.1.Kết cấu cốt truyện. -Truyện Nôm bình dân có một phong cách gần giống với truyện cổ dân gian, có thể coi nó là gạch nối giữa văn học dân gian và văn học bác học. -Phần lớn các truyện bình dân này đều mượn kết cấu, cốt truyện của truyện cổ dân gian và bảo lưu khuôn dạng của truyện cổ. Cơ sở cốt truyện là xung đột xã hội, xung đột giữa thiện, ác nhưng các truyện Nôm bình dân chỉ biểu hiện ở góc độ bảo vệ tình yêu, hạnh phúc; chống lại sự thống trị của giai cấp phong kiến; kết cấu theo đường thẳng; kết thúc có hậu; tình tiết phát triển theo sự phát triển của nhân vật chính. -Tuy nhiên so với văn học dân gian, truyện Nôm bình dân cũng có một số nét khác biệt thể hiện của một thể loại có khả năng phản ánh hơn truyện cổ như tác giả đã chú ý mô tả một số cảnh sinh hoạt xã hộivà con người, yếu tố trữ tình ít nhiều đã có vị trí đáng kể, thỉnh thoảng có tác giả đã chú ý miêu tảí tâm trạng của nhân vật. Ngoài ra truyện Nôm bình dân cũng không còn những lời bình luận, triết lý về cuộc đời của tác giả ở đầu hay cuối truyện như ở truyện cổ. 2.2.2.Nhân vật. Nhà văn quan tâm đến việc dựng câu chuyện, đến hành động chứ không chú ý đến tâm ly ïnhân vật. Thường nhân vật phản diện thành công hơn nhân vật chính diện. Nhiều nhân vật còn rất đơn giản mặc dù đã đúng về bản chất. 2.2.3.Phương pháp sáng tác. Ðã có sự kết hợp giữa yếu tố hiện thực và lãng mạn nhưng sự kết hợp này còn non nớt vô cùng, nó chưa phản ánh được một cách chân thực quá trình phát triển biện chứng của nhân vật, mỗi truyện đều chưa có được phong cách riêng, nhiều chuyện còn có chung
  46. môtip về nhân vật chính diện (nho sĩ nghèo đỗ trạng nguyên(bị ép duyên rồi vì từ chối mà bị hãm hại hoặc đi sứ xa, sau được sum họp). III.MỘT SỐ NÉT HẠN CHẾ -Thể hiện cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt trong xã hội mới ở khía cạnh đấu tranh bảo vệ tình yêu, hạnh phúc lứa đôi. -Chưa phản ánh khía cạnh giai cấp thống trị cấu kết với nhau để bóc lột nhân dân về kinh tế. -Chưa gắn được cuộc đấu tranh giữa những người bị áp bức vào cuộc đấu tranh của quần chúng lao động trong xã hội. -Ước mơ cuối cùng của tác giả là thay đổi triều đại chứ chưa phải là thay đổi chế độ xã hội. Những hạn chế trên là tất yếu vì sống trong xã hội phong kiến các tác giả không thể thoát khỏi ảnh hưởng nhiều hay ít của tư tưởng thống trị xã hội cũng như không thể vượt qua được hạn chế của lịch sử. IV.KẾT LUẬN Tuy còn có một số hạn chế nhất định nhưng Truyện bình dân vẫn là một bộ phận văn học có giá trị, là vốn quý trong gia tài văn hóa chung của dân tộc. Bộ phận văn học này đã đóng góp tiếng nói vào loại hình tự sự của nền văn học nước nhà. Cùng với các bộ phận truyện Nôm khác, bộ phận truyện Nôm khuyết danh tạo nên một nền rộng rãi để trên cơ sở đó xuất hiện kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du. Chương 6 Nguyễn Du và Truyện Kiều. Phần thứ nhất. VÀI NÉT VỀ CUỘC ĐỜI, CON NGƯỜI VÀ SỰ NGHIỆP VĂN CHƯƠNG CỦA NGUYỄN DU I.CUỘC ĐỜI VÀ CON NGƯỜI 1.Thời đại.
  47. Thời đại là một cơ sở sâu xa tạo nên sự xuất hiện gương mặt thiên tài văn học Nguyễn Du. -Nguyễn Du sinh ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu (tính ra dương lịch là ngày 3 tháng 1 năm 1766) tại kinh đô Thăng Long và lớn lên ở đấy. Ông mất ngày 16 tháng 9 năm 1920 tại Huế. Nhà thơ sống vào giai đoạn lịch sử xã hội Việt Nam có nhiều biến động dữ dội, nhất là khoảng 30 năm đầu của cuộc đời nhà thơ. Nguyễn Du đã có dịp chứng kiến những biến cố lịch sử trọng đại nhất: Sự sụp đổ thảm hại của tập đoàn phong kiến thống trị Lê-Trịnh, vận mệnh ngắn ngủi nhưng rạng rỡ của phong trào Tây Sơn và triều đại Quang Trung, công cuộc trung hưng của nhà Nguyễn. -Ông đã sống trong một thời đại mà truyền thống nhân văn và tinh thần dân tộc được kết tinh một cách rực rỡ. -Những biến cố xã hội, truyền thống nhân văn và tinh thần dân tộc của thời đại đã để lại những âm hưởng, những màu sắc trong nhân cách cũng như sáng tác của nhà thơ. 2.Gia đình. -Nguyễn Du xuất thân trong một gia đình phong kiến đại quý tộc, trí thức, tài hoa và có danh vọng vào bậc nhất đương thời. Không những thế, gia đình này còn có một truyền thống về văn học. Hoàn cảnh gia đình đã có những tác động rõ rệt đối với sự hình thành thiên tài văn học ở Nguyễn Du. -Gia đình Nguyễn Du có nhiều người đậu đạt cao và làm quan to tại triều đình: +Thân sinh của Nguyễn Du đậu tiến sĩ, từng làm tể tướng. +Nguyễn Khản, anh cùng cha khác mẹ với Nguyễn Du đậu tiến sĩ giữ chức lớn dưới cả hai thời Trịnh Sâm và Trịnh Tông . +Nguyễn Huệ, bác ruột Nguyễn Du, đậu tiến sĩ. +Theo Phạm Ðình Hổ thì dòng họ này có 12 tiến sĩ và 5 quận công. Hoàn cảnh gia đình đã để lại những dấu ấn vàng son trong tâm hồn nhà thơ và cũng chắc chắn rằng qua thực tiễn của gia đình, ông cũng đã nhận thức được nhiều điều về giới quan lại đương thời. -Dòng họ này còn có truyền thống văn học.Thân sinh của ông là Nguyễn Nghiễm là một sử gia cũng là một nhà thơ. Nguyễn Khản giỏi thơ Nôm, tương truyền có dịch
  48. Chinh phụ ngâm. Nguyễn Hành, Nguyễn Thiện (cháu gọi Nguyễn Du bằng chú) đều là những nhà thơ, nhà văn nổi tiếng đương thời. 3.Bản thân Nguyễn Du. -Là một con người tài năng. -Xuất thân trong một gia đình phong kiến đại quý tộc có danh vọng vào loại bậc nhất đương thời nhưng Nguyễn Du sống trong cuộc sống nhung lụa không được bao lâu. Bởi vì nhà thơ lớn lên giữa lúc gia đình đang sụp đổ nhanh chóng theo đà sụp đổ của tập đoàn phong kiến thống trị Lê-Trịnh. Nguyễn Du phải sớm đương đầu với những biến cố lớn lao của gia đình và xã hội. Có lúc nhà thơ cũng bị hất ra giữa cuộc đời, đã từng chịu nhiều nỗi bất hạnh. Ông có một thời gian dài khoảng 16 năm sống lưu lạc ở quê vợ ở Thái Bình, quê cha Hà Tĩnh. Những năm tháng bất hạnh này có ảnh hưởng trực tiếp quyết định đến sự hình thành con người nghệ sĩ vĩ đại ở ông. -Nguyễn Du là một nhà thơ có tấm lòng nhân đạo sâu xa. Qua thơ chữ Hán, Văn chiêu hồn, Truyện Kiều ta thấy ông luôn day dứt về số phận con người, trong tác phẩm của mình đã hơn một lần nhà thơ thốt lên: Ðau đớn thay phận đàn bà *Tóm lại: Nguyễn Du đã có những yếu tố cơ bản đêí trở thành một nghệ sĩ thiên tài: tài năng, tri thức, vốn sống, tâm hồn, tư tưởng tình cảm. II.SỰ NGHIỆP VĂN CHƯƠNG Nhà thơ đã để lại nhiều tác phẩm nổi tiếng bằng chữ Hán và chữ Nôm. 1.Về chữ Hán. Ông có ba tập thơ: -Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên) 1786-1804. -Nam trung tạp ngâm: 1805-1812. -Bắc hành tạp lục: 1813-1814. Cả ba tập thơ đã được tập hợp lại thành tập Thơ chữ Hán của Nguyễn Du do nhóm Lê Thước và Trương Chính giới thiệu, xuất bản năm 1965 gồm 243 bài thơ.
  49. 2.Về chữ Nôm. -Ðoạn trường tân thanh (tên Truyện Kiều là do quần chúng đặt cho tác phẩm). -Văn chiêu hồn (còn gọi là Văn tế thập loại chúng sinh). -Sinh tế Trường Lưu nhị nữ. -Thác lời trai phường nón.