Tài liệu Kiến thức về thị trường chứng khoán
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu Kiến thức về thị trường chứng khoán", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- tai_lieu_kien_thuc_ve_thi_truong_chung_khoan.doc
Nội dung text: Tài liệu Kiến thức về thị trường chứng khoán
- KIẾN THỨC VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TP. HỒ CHÍ MINH THÁNG 8 NĂM 2006
- NỘI DUNG QUAN TRỌNG 2
- Giải thích thuật ngữ: Chứng khoán? Môi giới? Đầu tư: Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11-7-98 đã dành nguyên cả Điều 2, Chương I để giải thích các thuật ngữ về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Trong Nghị định này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau : 1. Chứng khoán là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận các quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu chứng khoán đối với tài sản hoặc vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán bao gồm : a. Cổ phiếu ; b. Trái phiếu ; c. Chứng chỉ quỹ đầu tư ; d. Các loại chứng khoán khác. 2. Phát hành chứng khoán ra công chúng là việc chào bán chứng khoán có thể chuyển nhượng được theo các điều kiện quy định. 3. Tổ chức phát hành là pháp nhân được phát hành chứng khoán ra công chúng theo quy định của Nghị định này. 4. Bản cáo bạch là bản thông báo của tổ chức phát hành trình bày tình hình tài chính, hoạt động kinh doanh và kế hoạch sử dụng số tiền thu được từ việc phát hành nhằm giúp công chúng đánh giá và đưa ra các quyết định mua chứng khoán. 5. Niêm yết chứng khoán là việc cho phép các chứng khoán có đủ tiêu chuẩn được giao dịch tại thị trường giao dịch tập trung. 6. Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian hoặc đại diện mua, bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. 7. Tự doanh là việc công ty chứng khoán mua và bán chứng khoán cho chính mình. 8. Phân phối chứng khoán là việc bán chứng khoán thông qua đại lý hoặc bảo lãnh phát hành trên cơ sở hợp đồng. 9. Bảo lãnh phát hành là việc tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, nhận mua chứng khoán của tổ chức phát hành để bán lại, hoặc mua số chứng khoán còn lại chưa được phân phối hết. 10. Giao dịch chứng khoán là việc mua, bán chứng khoán trên thị trường giao dịch tập trung. 11. Tư vấn đầu tư chứng khoán là các hoạt động phân tích, đưa ra khuyến nghị liên quan đến chứng khoán, hoặc công bố và phát hành các báo cáo phân tích có liên quan đến chứng khoán. 3
- 12. Quản lý danh mục đầu tư là hoạt động quản lý vốn của khách hàng thông qua việc mua, bán và nắm giữ các chứng khoán vì quyền lợi của khách hàng. 13. Công ty chứng khoán là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn được phép thực hiện một hoặc một số loại hình kinh doanh chứng khoán. 14. Vốn khả dụng là tiền mặt và tài sản lưu động có khả năng chuyển đổi thành tiền mặt trong một thời hạn nhất định. 15. Quỹ đầu tư chứng khoán là quỹ hình thành từ vốn góp của người đầu tư được ủy thác cho công ty quản lý quỹ quản lý và đầu tư tối thiểu 60% giá trị tài sản của quỹ vào chứng khoán. 16. Lưu ký chứng khoán là việc lưu giữ, bảo quản chứng khoán của khách hàng và giúp khách hàng thực hiện các quyền của mình đối với chứng khoán. 17. Đăng ký chứng khoán là việc ghi nhận quyền sở hữu, các quyền khác và nghĩa vụ liên quan của người nắm giữ chứng khoán bằng một hệ thống thông tin lưu giữ trong các tài khoản lưu ký chứng khoán. 18. Tài khoản lưu ký chứng khoán là tài khoản sử dụng để hạch toán việc gửi, rút hoặc chuyển nhượng chứng khoán ; hạch toán việc giao và nhận chứng khoán. 19. Thị trường giao dịch tập trung là địa điểm hoặc hệ thống thông tin, tại đó các chứng khoán được mua, bán hoặc là nơi tham khảo để thực hiện các giao dịch chứng khoán. 20. Người có liên quan là cá nhân hoặc tỗ chức có quan hệ với nhau trong các trường hợp dưới đây : a. Công ty mẹ và công ty con nếu có ; b. Công ty và những người quản lý công ty ; c. Nhóm người thỏa thuận bằng hợp đồng cùng phối hợp để thâu tóm công ty hoặc để chi phối việc ra quyết định của công ty ; d. Bố mẹ, vợ chồng, con, anh chị em ruột. 21. Người hành nghề kinh doanh chứng khoán là cá nhân được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cấp giấy phép tham gia các hoạt động kinh doanh chứng khoán. 22. Người đầu tư là người sở hữu chứng khoán, người mua hoặc dự kiến mua chứng khoán cho mình. 23. Người nắm giữ chứng khoán là cá nhân, tỗ chức đang kiểm soát chứng khoán. Người nắm giữ có thể là chủ sở hữu chứng khoán hoặc là người đại diện cho chủ sở hữu. 24. Đại diện người sở hữu trái phiếu là pháp nhân được ủy quyền nắm giữ trái phiếu và đại diện cho quyền lợi của chủ sở hữu trái phiếu. 4
- 25. Cổ đông thiểu số là người nắm giữ dưới 1% cổ phiếu có quyền biểu quyết của tổ chức phát hành. 26. Cổ đông lớn là người nắm giữ từ 5% trở lên cổ phiếu có quyền biểu quyết của tổ chức phát hành. Đọc và hiểu giá cổ phiếu Trên các nhật báo lớn nước ngoài đều có những trang dành riêng cho việc liệt kê giá cả thị trường cổ phiếu. Nếu không quen lối viết tắt để tiết kiệm chỗ, rất khó hiểu cặn kẽ những trang này. Ngày xưa khi chưa có mạng vi tính, các thị trường chứng khoán hoạt động nhờ vào ticker tape, là dải băng in chi tiết giá cả lên xuống của các cổ phiếu chính. Ngày nay, ticker tape biến mất, thay vào đó là the computerized quote machine, một màn hình vi tính nối mạng có thể cung cấp mọi chi tiết cần thiết cho người mua chứng khoán. Những dãy thông tin trên màn hình vẫn được gọi là tape. Trên màn hình thường có ký hiệu cổ phiếu của một công ty ví dụ GM là hãng General Mortors. GM L - 721/4 O 721/2 C 73 B 723/8 H 721/2 NC -3/4 A 721/2 L 721/4 V149 T1017 Các từ L last trade là giá giao dịch gần đây nhất với ký hiệu + là cao hơn giá của giao dịch trước đó, còn - là thấp hơn. B current bid price là giá mua trong khi A current ask price là giá bán. O, H, L opening, high, low cho giá mở cửa, giá cao nhất và giá thấp nhất. C closing price cho biết giá đóng cửa hôm trước. NC net price change cho biết chênh lệch giữa giá hiện nay so với giá đóng cửa hôm trước. V và T volume-time chỉ số lượng đang giao dịch và thời điểm phiên giao dịch trước đó. Chuyện đặt ký hiệu cho công ty có một điểm thú vị. Các mẫu tự I, O, Q và W không được dùng đứng riêng một mình vì I, O quá giống con số, Q dành riêng cho các công ty phá sản. Sau ký hiệu công ty có thể có ký hiệu Pr để chỉ lượng cổ phiếu đang mua bán là loại cổ phiếu ưu đãi preferred stock. Chuyện ticker tape có một giai thoại lý thú. Khi Charles Lindbergh lần đầu tiên bay vượt Đại Tây Dương trở về, vào ngày 13-6-1927, người ta đã dùng 750.000 cân Anh các ticker tape cũ xé ra thành những dải băng ném xuống đường để chào mừng ông. Thị trưởng New York thời đó, sau khi đọc diễn văn ca tụng chiến công của Lindbergh đã kết thúc bằng câu: “Before you go, will you provide us with a new street - cleaning department to clean up the mess ?” 5
- Ngoài ra, cần nhớ giá cổ phiếu được ghi thành phân số cho nên 81/2 là 8,5 USD; 81/4 bằng 8,25 USD. Trong phần niêm yết cổ phiếu thường có những từ 52 Weeks Hi Lo là nơi “highest and lowest prices of the stock are shown for the last 52 weeks”. Từ Div dividend là số cổ tức người mua cổ phiếu ước tính được chia cho năm đó. Kế tiếp là percent yield là tỷ suất lợi tức, nghĩa là cổ tức chia cho giá đóng cửa, tính bằng phần trăm. Ví dụ Công ty Harris ký hiệu HRS có cổ phiếu giá cao nhất và thấp nhất trong 52 tuần qua là 40,13 USD và 22 USD thay đỗi 181/8 điểm hay gần bằng 45%, cổ tức mỗi cổ phiếu năm nay là 1,12 USD, tỷ lệ cổ tức trên giá là 3,6% tức là lấy cổ tức 1,12 USD chia cho giá đóng cửa 307/8 được 0,036 hay tỷ lệ lãi 3,6%. Từ PE trong cột tiếp viết tắt từ price-earnings ratio là tỷ suất giá cả- lợi nhuận, tỷ lệ giữa giá cổ phiếu và lợi nhuận hàng năm của công ty trên mỗi cổ phiếu - the relationship between the price of one share of stocks and the annual earnings of the company. Đối với trường hợp của Công ty Harris có thể diễn tả : “The price of a Harris share is 11 times the company’s earning per share for the most recent four quarters”. Vol 100s volume of sales in hun-dreds chỉ số lượng cổ phiếu mua bán trong ngày hôm trước nhân cho 100 tức là hôm qua 41.700 cổ phiếu Công ty Harris được giao dịch. Nếu trước con số có mẫu tự Z thì đó là con số mua bán thật, không nhân lên 100. Net change so sánh giá đóng cửa hôm đó so với hôm trước. Cuối cùng sự khác biệt giữa giá cao nhất và giá thấp nhất được gọi là spread. Spread còn là sự khác biệt giữa giá mua và giá bán bid and ask prices. Chúng ta biết người môi giới chứng khoán là stockbrokers hay brokers. Nhưng bản thân nhân viên các công ty môi giới ghi trên danh thiếp bằng những từ khác nhau như financial consultant, institutional salesman, securities salesperson, account executive, investment executive, portfolio salesman. Chúng ta nên chú ý để dịch chức danh của họ cho đúng. Chứng khoán, cổ phiếu và trái phiếu Thuật ngữ thị trường chứng khoán có nhiều, thường rất khó hiểu dù bằng tiếng Anh hay đã dịch ra tiếng Việt nhưng, may mắn thay, chỉ những người chuyên ngành mới dùng. Ví dụ khi phân tích các dạng rủi ro khi tham gia vào một thị trường chứng khoán, người ta liệt kê nhiều hình thức rủi ro trong đó có translation risk. Mới nghe qua tưởng đâu là những bất trắc do bất đổng ngôn ngữ, dịch sai các tài liệu hay phán đoán sai các lệnh mua bán. Nhưng giới chuyên môn hiểu rất rõ translation risk là "a form of currency risk associated with the valuation of balance sheet assets and liabilities between financial reporting dates". Như vậy translation ở đây là sự khác biệt thời điểm báo cáo tài chính dẫn đến đánh giá khác nhau. Là những người dân bình thường sẽ có khả năng tham gia mua bán tại các trung tâm giao dịch chứng khoán trong tương lai, chúng ta chỉ giới hạn vào những từ căn bản thường dùng trên thị trường này. Từ thường gặp nhất là stock. Tiếng Mỹ gọi cổ phiếu là stock ; còn tiếng Anh gọi là share. Tuy nhiên tên gọi các thị 6
- trường chứng khoán ở Anh, Mỹ và nhiều nước khác nữa vẫn dùng từ stock nên chúng ta dễ bị lẫn lộn. Stock hay share tượng trưng cho sự sở hữu ở công ty đó và quyền thu về lợi nhuận mà công ty kiếm được (represents ownership in a company and the right to receive a share in the profits of that company.) Trong khi đó trái phiếu bond là giấy nợ mà nơi phát hành cam kết trả kèm lãi suất sau một thời gian. Hiện nay có những loại trái phiếu như T-bonds treasury bonds - trái phiếu kho bạc; corporate bonds trái phiếu công ty ; bank bonds trái phiếu ngân hàng hay infrastructure bonds trái phiếu công trình. Các loại stock, bond gọi chung bằng từ securities chứng khoán - dùng ở số nhiều. Vì vậy Ủy ban Chứng khoán Quốc gia được dịch thành State Securities Commission SSC. Còn Trung tâm Giao dịch Chứng khoán là Securities Transaction Centers sẽ chuẩn bị cho một thị trường chứng khoán - A Stock Exchange trong tương lai. Một thị trường chứng khoán đôi lúc còn được gọi là một bourse. Các công ty cổ phần muốn tham gia vào thị trường chứng khoán phải đăng ký để được niêm yết gọi là listing. Cho nên một listed company là một công ty có tên trên thị trường chứng khoán. Người dân muốn mua cỗ phiếu của các công ty này phải thông qua các công ty giao dịch chứng khoán gọi là securities companies, có một đội ngũ stockbrokers là những người môi giới chứng khoán. Một trong những vấn đề của thị trường chứng khoán nước ta là quá thiếu các listed companies-công ty niêm yết ; vì ngay cả các công ty vừa cổ phần hóa chưa chắc đã hội đủ điều kiện được niêm yết. "It is hard to spot more than three or four companies that might be in a position to list on the market". Chuẩn bị cho một thị trường chứng khoán Việt Nam, SSC cho biết nó có những đặc điểm ví dụ như : "Total foreign holdings in any one listed firm are likely to be capped at 30 percent." To be capped at 30% là giới hạn tối đa lên đến 30%. Thị trường này cũng ban short selling on its pilot stock markets to avoid speculation. Short selling là bán các cổ phiếu mình không nắm vì đoán trước giá sẽ hạ. Ví dụ bạn không có trong tay cổ phiếu nào của Microsoft nhưng đoán trước các vụ kiện sẽ làm cỗ phiếu công ty này sụt giá, bạn bán một triệu cổ phiếu này với giá hôm nay sau khi đăng ký mua một triệu cổ phiếu này với giá sẽ trả vào tuần sau. Inside trading là mua bán cổ phiếu dựa vào thông tin nội gián cũng bị cấm. Các đặc điểm khác có thể kể ra như sau Các bạn có thể đối chiếu với phần tiếng Việt trên các bài chuyên đề cùng số này : - A company or bank that wishes to list must have registered capital of 10 billion dong $770,000 and have been profitable for the last two years. (Một công ty hoặc ngân hang muốn lên sàn phải có lượng vốn là 10 tỉ vnd và phải kinh doanh có lãi trong vòng 2 năm trở lại đây) - At least 20 percent of a company’s listed shares must be held by more than 100 investors outside that issuing firm. - Securities companies authorised to trade are commercial banks and big corporations. (những công ty chứng khoán đuợc phép hoạt động là các ngân hang thương mại và tập đoàn lớn) 7
- - SSC inspectors must report big changes in stock prices.( những người giám sát của SSC phải báo cáo những thay đổi lớn ở giá chứng khoán) Bình luận về các bước chuẩn bị của Việt Nam liên quan đến thị trường chứng khoán, các quan sát viên nước ngoài cho biết : "With a stock market Vietnam will start to appear on more fund managers radar screens around the world". Các quỹ đầu tư sẽ chú ý hơn ; "The fact that the decree has actually been approved will damp some of the cynicism". Nghị định ra đời sẽ giúp nhiều nhà đầu tư tin tưởng hơn. Các nhà đầu tư trong nước cũng có thể tin rằng thị trường này sẽ thúc đẩy quá trình cổ phần hóa going public giúp nhiều công ty lần đầu tiên phát hành cổ phần ra công chúng initial public offering. Nói tiếp chuyện chứng khoán Tuần trước có nhiều bạn hỏi thêm về chuyện thị trường chứng khóan với nhiều câu đi khá sâu vào chuyện chuyên môn. Bạn Khánh Tâm hỏi lưu ký chứng khóan tiếng Anh là gì. Việc mua bán chứng khóan không như nhiều bạn hình dung là đến quầy trao tiền và nhận về chứng khoán ; phải dùng một dịch vụ gọi là custody service the storing and safekeeping of securities together with maintaining accurate records of their ownership nhằm lưu giữ, bảo quản chứng khoán cùng với việc ghi nhận quyền sở hữu bằng hệ thống thông tin lưu trữ trong tài khoản lưu ký chứng khoán. Ngày nay dịch vụ lưu ký này bao trùm nhiều thị trường của nhiều nước. Nếu không có tài khoản lưu ký chứng khoán, thử tưởng tượng làm sao giải quyết khối lượng hàng tỉ đô- la Mỹ trị giá chứng khoán luân chuyển hàng ngày. Bạn Thanh Tùng cho biết các bản tin nước ngoài viết về thị trường chứng khoán Việt Nam cho rằng giai đoạn đầu chủ yếu sẽ là over-the-counter trading và hỏi ý nghĩa của cụm từ này. Bên Anh, over-the-counter market OTC là một thị trường trao đổi cổ phiếu của những công ty chưa được niêm yết chính thức trên thị trường chứng khóan, việc mua bán diễn ra trực tiếp giữa người phát hành và người mua chứ không qua thị trường chính thức. Các nhà bình luận nói vậy vì thời gian đầu sẽ có rất ít công ty cổ phần hội đủ điều kiện để được niêm yết chính thức. Tuy nhiên over-the-counter được dùng với nghĩa thị trường chứng khoán nước ta giai đoạn đầu sẽ chủ yếu là trao đổi trái phiếu theo dạng tiền trao cháo múc. Trong ngành dược, over-the-counter để chỉ loại thuốc thông thường bán trực tiếp không cần toa bác sĩ. Bạn Trần Thị Lý hỏi tiếng Anh có từ bản cáo bạch như trong Nghị định 48 hay không ? Prospectus - a document provided by the issuing companies giving detailed terms and conditions of a new stock offering là một tài liệu không thể thiếu được nếu công ty phát hành muốn bán cổ phiếu ra công chúng. Lưu ý rằng "Any statement by experts in a prospectus must be published with the approval of these experts and there are substantial penalties for making false statements in a prospectus". Bạn Ngô Thanh Hải thắc mắc vì sao không thấy liệt kê từ debentures. Debentures thực chất là một giấy nợ, trong đó nêu rõ khi nào nơi phát hành sẽ trả với những điều khoản nào Nó linh động hơn bonds. Ví dụ như một trường học muốn xây 8
- dựng thêm một cơ sở mới có thể phát hành debentures mà người mua có thể dùng nó cấn trừ vào học phí phải trả cho con em họ. Bạn Thành Ngữ cho biết trong các tài liệu nói về một số quỹ đầu tư thường thấy từ open-ended companies. Đây là các công ty cổ phần có quyền nâng vốn đầu tư bằng cách phát hành thêm cổ phiếu. Từ này thường dùng cho các quỹ đầu tư chứng khoán mutual fund - tiếng Mỹ ; và unit trust - tiếng Anh. Còn closed-end company là "investment company with a fixed capital structure with a fixed number of shares outstanding which are traded in the secondary market".( công ty đau tư Loại trừ những câu hỏi mang tính kỹ thuật, chúng ta xem tiếp một số từ dùng trong các bài báo miêu tả thị trường chứng khoán tương lai của Việt Nam. "Equitised companies are too small to list and would be hard-pressed to produce audited accounts". Hard-pressed là gặp khó khăn chứ không phải là bị thúc bách. Các công ty cổ phần hóa quy mô nhỏ không đủ điều kiệm niêm yết và khó lòng cung cấp tình hình tài chính có kiểm toán xác nhận. "The lessons from the world markets and the regional markets have made us more cautious in our steps and that also covers the means for foreign participation". Phần sau của câu phát biểu này mang ý sự cẩn trọng bao hàm cả chuyện xác lập cơ chế cho nhà đầu tư nước ngoài tham gia. Đọc báo chúng ta thường thấy các stock index share index. Đây chính là "an index number based on the prices of a particular parcel of shares supposed to be representative and intended as a guide to overall market fluctuations". Tùy theo thị trường mà chỉ số này là trị giá bình quân chứng khoán của một số công ty tiêu biểu, cho biết sức khỏe của thị trường đó. Những chỉ số quen thuộc có Dow Jones Index, Financial Times Industrial Ordinary Share Index, Nikkei 225 Average. Cần phân loại chứng khoán trước khi nhập cuộc Chứng khoán là giấy tờ có giá trị kinh tế hay nói cách khác đó là công cụ tài chính có giá trị tương ứng như tiền mặt và được mua bán hoặc chuyển nhượng. Chứng khoán là một loại hàng hóa rất tiêu biểu trong cơ chế kinh tế thị trường tự do. Trong mỗi thị trường chứng khoán các loại chứng khoán có những phẩm chất khác nhau. Tại các thị trường chứng khoán của Mỹ, giới kinh doanh và đầu tư chứng khoán phân ra bốn loại hàng chính và mỗi loại có một phẩm chất khác nhau như sau: Loại hàng hóa cổ phiếu - vốn cổ phần Cỗ phiếu phẩm chất cao - blue chips : Từ lóng blue chips để ám chỉ những cổ phiếu của các công ty lớn, có ảnh hưởng trong nền kinh tế, có những phẩm chất nhất định về thị trường và quản lý, mệnh giá mỗi cổ phần tương đối cao từ 100.000 - 2 triệu đồng và giá cả không bị dao động mạnh. Số lượng mua bán các loại cổ phiếu này chiếm một tỷ trọng khá lớn trong mỗi phiên giao dịch, có đặc tính chuyển thành tiền mặt nhanh chóng. Mức độ rủi ro tương đối thấp và trung bình. 9
- Cỗ phiếu phẩm chất thấp - penny stocks : Từ penny stocks để ám chỉ những cổ phiếu của các công ty nhỏ chưa có tiềm năng phát triển lớn, hoặc mới thành lập đang tìm chỗ đứng trong thị trường, hoặc thuộc loại khá tốt nhưng bị sự cố và đưa đến hậu quả tồi hoặc gần như phá sản ; thông thường mệnh giá mỗi cổ phần rất thấp 9.000 đồng hoặc cao từ 10.000-30.000 đồng. Mức độ rủi ro tương đối cao. Hàng hóa trái phiếu - vốn nợ Trái phiếu chính phủ : Chính phủ trung ương thông qua ngân khố hoặc các chính quyền các thành phố lớn phát hành trái phiếu để tài trợ cho ngân sách hoặc cho một dự án công ích nào đó. Rủi ro rất thấp và người đầu tư thường được hưởng những ưu đãi về thuế. Mệnh giá mỗi trái phiếu thường là 10 triệu đồng. Giá cả dao động và gắn chặt theo chỉ số lãi suất trên thị trường. Trái phiếu loại này còn được gọi là fixed income bond - trái phiếu có lợi nhuận cố định. Trái phiếu công ty : Các công ty phát hành trái phiếu tài trợ các dự án phát triển hoặc chương trình bành trướng. Tùy bối cảnh, các công ty chọn phát hành trái phiếu để ứng phó với những tình hình bất lợi cho sự sống còn của công ty, đôi khi được gọi là junk bonds - trái phiếu có rủi ro cao. Mức lãi suất cao hơn của chính phủ và rủi ro tương đối cao. Mua chứng khoán chính là một sự chuyển dạng từ tiết kiệm sang đầu tư. Thị trường chứng khoán mở cho tất cả mọi người có nguồn tiết kiệm hoặc có khả năng tiết kiệm và muốn đầu tư. Tuy nhiên đầu tư chứng khoán cũng như bất cứ một cuộc đầu tư nào khác cũng có những rủi ro. Có ít nhất 14 loại rủi ro có thể nhận định được trong quyết định mua chứng khoán. Có một quy luật chung trong tất cả các cuộc đầu tư đó là rủi ro càng cao thì lợi nhuận càng cao. Tóm lại yếu tố rủi ro sẽ khống chế người tiết kiệm theo ba dạng : người đầu tư, mua chứng khoán theo nghĩa đầu tư thực sự và không chịu rủi ro cao - mua chứng khoán blue chips hoặc trái phiếu chính phủ ; người đầu cơ, chấp nhận và tính toán với rủi ro, chọn thời điểm vì thời gian dài không quan trọng - mua bán loại chứng khoán giá cả dao động nhiều, penny stocks hoặc các junk bonds ; người mua bán, tìm lợi nhuận nhanh bằng sự chênh lệch giá cả bất kể loại chứng khoán nào trong thị trường, và mua qua bán lại nhiều lần. Thế nào là người "đầu cơ" chứng khoán: “Speculator” ở TTCK không mua gom chứng khoán, tạo khan hiếm giả tạo, để làm cho nó lên giá như ở thị trường hàng hóa. Giá chứng khoán lên hay xuống là do có ít hay nhiều người mua. Khác biệt về ý niệm Nhiều sách vở và bài báo ở ta đã cảnh báo về người đầu cơ speculator trong thị trường chứng khoán TTCK. Gần đây, có ý kiến đề nghị rằng trong các cuộc hội thảo có tính cách quốc tế cần thuyết phục các nước sửa luật chứng khoán theo hướng cấm bán khống và hạn chế mạnh mẽ đầu cơ. Chúng ta trân trọng những ý kiến này về sự quan tâm đối với nền kinh tế, tuy nhiên về mặt khoa học, cần tìm 10
- xem quan niệm về người đầu cơ ở TTCK của các nước phát triển là thế nào để hiểu cho đúng về họ khi ta lập TTCK. Thường chúng ta nghĩ về người đầu cơ như là một người tạo ra sự khan hiếm giả tạo mua vét hàng hóa nhằm bán lại, thu lợi bất chính. Ta cũng thường giải thích sự tăng giá hàng là do đầu cơ. Đó là quan niệm về người đầu cơ ở thị trường hàng hóa mà nơi đó có những khi cung không đủ cầu. Trái lại, ở các nước phát triển, hàng hóa không hề khan hiếm, cung vượt xa cầu, nên nếu hiểu “speculator” của họ như trong bối cảnh kinh tế của ta thì rõ ràng là sai. Hơn nữa, nếu lấy điển hình George Soros trong thị trường ngoại tệ để hô hào chống “speculator” trong TTCK là nguy hiểm cho tiền đổ của TTCK. Tại sao vậy? Gốc gác của người “đầu cơ” Người “đầu cơ” ở các nước phát triển xuất hiện đầu tiên tại thị trường hàng hóa lúa, bắp, cà-phê nơi có sử dụng hợp đồng “forward contract” bán bây giờ - sau này giao ; hợp đồng cho hàng sẽ đến. Bán như thế không phải là bán non, vì bán non bắt nguồn từ việc nhà sản xuất thiếu vốn. Ở “forward contract”, để cầm tin, người ta chỉ trả cho nhau từ 5-10% trị giá món hàng. Cách mua bán này chỉ xuất hiện khi sản xuất phát triển, nông sản và nguyên liệu thừa mứa ; nhà sản xuất phải tìm cách đem bán sang những khu vực xa xôi khác. Khi ấy rủi ro kinh doanh thu không đủ chi sẽ xảy ra ; vì không kiểm soát được giá cả do thời gian bán dài, cung cầu có thể thay đổi; và nơi giao hàng rất xa mà giá cả ở đó có khi khác. Khi bên bán bị rủi ro thì bên mua cũng bị lây ; người này sợ phải trả giá nguyên liệu cao trong khi giá bán sản phẩm phải thấp. Do mối lo chung này, cả hai cùng tìm cách khắc phục và họ nghĩ ra “hợp đồng hàng sẽ đến”. Loại hợp đồng này thịnh hành ở Mỹ từ những năm 1830 trở đi. Hai bên cam kết sẽ giao và nhận một mặt hàng nào đó vào hai, ba tháng nữa, với một giá có xê xích với thời giá. Tuy nhiên, vào lúc giao hàng, do thời gian ký đã lâu, chưa chắc món hàng có chất lượng như đã thỏa thuận, hoặc người mua có thể không còn đồng ý với cái giá trước do mức cung hiện có. Vẫn có rủi ro dù đã có hợp đồng ! Cả hai cần phải “hắt rủi ro” đi hedge. Họ sợ rủi ro, nên được gọi là “hedger” người hắt rủi ro. Nhưng ai sẽ nhận rủi ro cho họ đây? May mắn thay ! Khi số lượng “forward contract” gia tăng sẽ có nhiều thời gian giao hàng khác nhau. Hơn nữa vì việc chuyên chở và tồn trữ hàng hóa tự nhiên sẽ được tập trung về một nơi trung chuyển ở Mỹ là Chicago và nơi đó trở thành chợ. Ở đó có nhiều người muốn “hắt hủi ro”, nên do bá nhân bá tánh, có người lại thích chơi với rủi ro để kiếm tiền. Loại người “thích may rủi” này xuất hiện và được gọi là “speculator”. Vì chỉ phải trả một phần nhỏ của giá mua, nên những người “speculator” mua bán với nhau các “forward contract” để kiếm lời trước khi hợp đồng kia đến hạn giao hàng. Ai mà nắm hợp đồng đến hạn thì sẽ lời hay lỗ khi giá nguyên thủy giữa người sản xuất và tiêu thụ thực sự cao hơn hay thấp hơn giá họ đã mua từ đồng nghiệp. Số lượng hợp đồng ấy lớn, vì - theo tính toán - chỉ có 5% của số “forward contract” là có giao hàng thật sự, số còn lại được thanh lý, bù trừ giữa các “speculator” trên thị trường nên rủi ro của người sản xuất và tiêu thụ thực không còn nữa. Do đó, phải có người “thích may rủi” thì người “muốn hắt rủi ro” mới hắt đi được. Cho mục đích này, dần dần các nhà buôn họp nhau lại, chấn chỉnh “forward contract”, tiêu chuẩn hóa hàng hóa, và biến nó thành hợp đồng giao hàng trong tương lai future contract. 11
- Nhờ có “future contract”, người “hedger” đã chuyển rủi ro kinh doanh sang người “speculator”. Rủi ro đã có người gánh, chi phí kinh doanh của “hedger” nhờ đó tính toán được ; giá hàng trở nên rẻ hơn so với khi chưa tính toán được thí dụ trước kia phải để số phần trăm cho việc gì đó cao ; vậy là người tiêu dùng được hưởng lợi. Đó là cách mà nền kinh tế thị trường bình ổn giá cả cho người tiêu thụ ; giống như trong thời bao cấp ta có ủy ban vật giá thực hiện cùng mục đích. Tuy nhiên, cách làm có khác ; họ sử dụng các “người thích may rủi” cho tranh nhau ôm cái họ thích. Trong ngữ nghĩa của nó “speculate” là tính toán, quyết định và chịu rủi ro. Người nông dân quyết định năm nay trồng lúa Nàng Hương mà chưa biết sẽ lời lỗ thế nào thì cũng là “speculate”. Người “speculator” khác người đánh bạc ; vì sau khi con xúc xắc đã được xóc rồi, người đánh bạc có quyền chọn bỏ tiền hay không, vào quả bầu hay con cọp ; và họ có thể tránh cái thua nếu muốn. Trái lại, “speculator” không tránh được, phải nhận cái gì họ đã quyết. Các “hedger” về sau này là các công ty và các ngân hàng, họ cũng đều muốn tránh rủi ro ; và họ không phải chính phủ lập ra những thị trường “future” khác từ những năm sau 1970. Thị trường cho ngoại tệ sẽ giao foreign currencies futures dành cho những ai sẽ phải trả tiền bằng ngoại tệ trong vài tháng nữa mà sợ đồng tiền lên hay xuống ; thị trường lãi suất sẽ trả interest rates futures cho những ai đang vay nợ mà sợ lãi suất thay đổi ; thậm chí thị trường “stock index futures” dành cho ai quản lý quỹ đầu tư mà sợ chứng khoán xuống giá theo cả khối. “Hedger” cần “speculator”. Nhờ có “speculator” mà công ty các loại mới tính được chuyện điều phối rủi ro risk management qua các thị trường “future” hoạt động 24/24 giờ mỗi ngày trên thế giới. “Người đầu cơ” trong TTCK Trong TTCK giá mua bán được định bằng cách đấu giá ở sàn giao dịch và bằng cách mặc cả ở bàn giao dịch. Ở nơi sau, người làm giá là người môi giới loại “market maker” tạo mua bán hay tạo thị trường. “Speculator” ở TTCK không mua gom chứng khoán, tạo khan hiếm giả tạo, để làm cho nó lên giá như ở thị trường hàng hóa. Giá chứng khoán lên hay xuống là do có ít hay nhiều người mua. Tại sao họ mua lại là một yếu tố tâm lý. Thường khi thấy giá xuống người ta mua vào, khi giá lên thì bán ra. Đó là cách ăn lời thường tình của những người đầu tư bình thường. Từ người đầu tư bình thường trở thành “speculator” rất dễ. Nó tùy vào cách ra lệnh mua bán, và vào việc trả tiền được công ty hay người môi giới đồng ý. Sự khác biệt chính giữa hai loại người này là tâm lý dám chơi với may rủi nằm trong giá cả của chứng khoán hay không. Bởi vậy, trong diễn tiến bình thường đã nêu, người “speculator” làm ngược lại. Họ có hàng trong tay đã mua trước kia với giá thấp nay bán ra khi thấy giá lên để kiếm lời; như thế là làm cho số cung chứng khoán tăng khiến giá tụt xuống. Khi nghĩ giá sẽ còn xuống, đang 5 USD chẳng hạn, họ sẽ vay hàng của công ty môi giới để bán. Lúc giá xuống đến 3 USD, họ mua vào để trả nợ. Vậy là khi giá xuống họ mua vào, làm cho mức cầu tăng, giúp giá lên lại. Trong cả hai trường hợp họ góp phần bình thường hóa giá cả. Rủi ro của họ là khi mua vào để trả nợ mà giá lên là lỗ. Cho nên, cơ chế của TTCK đã công nhận họ là người làm giảm biến động giá cả của chứng khoán ; đỡ cái rủi ro cho người đầu tư nhỏ khi vì sợ mà bán đi thì có người mua ; và do tính thích may rủi nên họ mua chứng khoán của các công ty nhỏ mới ra, hay mới phục hổi giúp các công ty này có vốn khi khởi đầu. 12
- Người “thích may rủi” theo dõi diễn tiến của giá cả để hành động chứ không tạo ra giá cả. Họ không làm giá. Giả sử họ mua vét chứng khoán, tạo khan hiếm giả tạo, đẩy cho giá lên và bán đi thu lợi bất chính, nhưng nếu không bán được thì sao ? Chứng khoán có hàng ngàn loại, nó đâu có hiếm, lại không phải là thóc gạo mà bảo rằng lên đến giá nào người ta cũng phải mua. Vì thế, luật pháp các nước phát triển cấm làm giá manipulate chứ không cấm “speculate” Đến đây ta thấy, dịch “speculator” là “người đầu cơ” gây hiểu lầm một cách tai hại. Có thể do hiểu “người đầu cơ” theo Luật Hình sự của ta, nên Luật Chứng khoán cấm bán khống ; và được nhận xét như là “may mắn đi sau và nhận ra cái ảo của đầu cơ”. Chúng ta chờ luật sẽ định nghĩa chi tiết hơn về việc bán khống. Nhưng nếu hiểu bán khống là không sở hữu chứng khoán vào lúc giao dịch mà bán như quy định hiện nay thì việc ấy không bao giờ có trên thực tế. Bởi lẽ một người mua chứng khoán đã trả tiền đủ thì bao giờ họ cũng đòi hàng ngay. Nếu không, ngày hôm sau chứng khoán đó lên giá mà họ không có hàng trong tay để bán thì mất dịp kiếm lời ư ? Thành ra tùy cách giao dịch với công ty hay người môi giới chứ không phải với người mua bán chứng khoán là đối tác của mình ; người đầu tư sẽ nhận được tiền đủ từ người môi giới khi bán, nếu khi mua họ trả đủ tiền. Đây là luật của thị trường. Người môi giới phải luôn luôn trả đủ cho người môi giới bên kia. Nếu người đầu tư không trả đủ hàng hay tiền, tức là được cho trả tiền theo định mức margin account thì họ nợ người môi giới của họ, và người sau này phải ứng tiền hay hàng để trả đủ cho bên kia. Như vậy là không có chuyện nhà đầu tư bán khống mà chỉ có việc họ mượn hàng để bán. Từ khi mượn hàng đến khi trả hàng cho người môi giới là một khoảng cách, và nó tạo ra một thời gian “sẽ giao” hay “sẽ đến” giống như ở trong hợp đổng “forward” hay hợp đồng “future” trong chợ hàng hóa. Nếu ở hai hợp đồng kia người bán chỉ trả cho người mua 5-10% giá bán, thì “speculator” phải trả lãi cho người môi giới trong thời gian vay ; khi đến hạn phải mua hàng trả nợ. Khi vay chứng khoán 5 USD, thời gian vay là ba tuần, trong những ngày đó “speculator” hy vọng giá xuống còn 3 USD để mua vào trả nợ ; nhưng nếu hàng lên 6 USD thì cũng phải mua để trả. Rủi hay may của họ nằm ở chỗ chứng khoán xuống 3 USD hay lên 6 USD. Như thế thì có phải là bán khống không, luật của ta chưa quy định nếu giải thích chặt chẽ. TTCK của người ta chấp nhận cách này là để lúc nào chợ cũng có nhiều vụ mua bán, nhờ đó khả năng thanh toán tiền bạc cao tính thanh khoản cao, và thu hút được nhiều người, đông người thì chi phí giảm thời gian, tiền bạc, sự mong đợi và lại có thêm người nữa. Hơn nữa quy định về mua chịu hàng của môi giới để bán cũng có giới hạn, tiền nằm trong tài khoản sụt quá 25% trị giá tổng số chứng khoán sở hữu thì người vay phải châm thêm tiền vào. Ngoài ra, để được mượn hàng như thế thì, theo nguyên tắc chọn mặt gửi vàng, chỉ những người có uy tín đã được thử thách mới được công ty môi giới cho vay. Tóm lại, nếu quả thực luật của ta sẽ coi “vay mượn chứng khoán để bán” là bán khống thì chúng ta xóa bỏ “người thích rủi may”. Không có họ thì không ai - nhất là các nhà đầu tư nhỏ - sẽ hắt rủi ro đi được. Nào sẽ có ai mua ? TTCK của ta khi ấy có nguy cơ chỉ có toàn người bán. Thị trường tài chính và sự phân loại 1.1. Khái niệm Thị trường tài chính 13
- Thị trường tài chính là thị trường trong đó nguồn tài chính được chuyển từ người có vốn dư thừa sang người thiếu vốn. Thị trường tài chính là tổng hoà các mối quan hệ cung cầu về vốn. Chức năng cơ bản nhất của thị trường tài chính là dẫn vốn từ người dư thừa vốn tới người cần vốn, ngoài ra nó còn thể hiện chức năng giám sát thông qua sự vận động của các nguồn tài chính. 1.2. Phân loại thị trường tài chính Dựa vào các tiêu thức khác nhau ta có thể phân loại thị trường tài chính như sau: 1.2.1. Dựa vào cách thức huy động vốn trên thị trường tài chính trên cơ sở sử dụng các công cụ tài chính ta có thị trường nợ và thị trường cổ phần. a Thị trường nợ - Công cụ nợ ngắn hạn: là công cụ nợ có thời gian đáo hạn từ 1 năm trở xuống - Công cụ nợ trung hạn: là công cụ nợ có thời gian đáo hạn từ 1 năm tới 10 năm - Công cụ nợ dài hạn: là công cụ nợ có thời gian đáo hạn trên 10 năm. b Thị trường cổ phần Là thị trường trong đó người cần vốn huy động vốn bằng cách phát hành các cổ phiếu. Các cổ phiếu này là quyền được chia phần trên lãi ròng và tài sản của các công ty phát hành cổ phiếu. 1.2.2. Dựa vào việc mua bán chứng khoán lần đầu chứng khoán mới và mua bán chứng khoán sau khi phát hành lần đầu người ta chia làm thị trường cấp 1 và thị trường cấp 2. a Thị trường cấp 1 thị trường sơ cấp: là thị trường tài chính trong đó những phát hành mới của chứng khoán được tổ chức phát hành bán cho người mua đầu tiên. b Thị trường cấp 2 thị trường thứ cấp: là thị trường tài chính nơi diễn ra các hoạt động mua bán lại các chứng khoán được phát hành trên thị trường cấp 1. Dựa vào phương thức giao dịch trên thị trường tài chính, thị trường cấp 2 được chia làm 2 loại: Sở giao dịch và thị trường phi tập trung. 14
- 1.2.3. Căn cứ vào bản chất, chức năng và phương thức hoạt động của các chủ thể tài chính và các công cụ tài chính giao dịch trên đó, hệ thống tài chính được phân làm 3 thị trường cơ bản: Thị trường tiền tệ, thị trường hối đoái và thị trường vốn. a Thị trường tiền tệ: Thị trường tiền tệ là thị trường phát hành và mua bán lại các công cụ tài chính ngắn hạn, thông thường dưới 1 năm như tín phiếu kho bạc, khoản vay ngắn hạn giữa các ngân hàng, thoả thuận mua lại, chứng chỉ tiền gửi, thương phiếu, b Thị trường hối đoái: Tương tự như thị trường tiền tệ, thị trường hối đoái là nơi giao dịch các công cụ tài chính tương đối ngắn hạn, nhưng chúng được định giá bằng các loại đồng tiền khác nhau, và ở thị trường hối đoái cũng chỉ có các giao dịch giữa các đồng tiền khác nhau mới được thực hiện. c Thị trường vốn Thị trường chứng khoán: Thị trường vốn là thị trường phát hành và mua bán lại các công cụ tài chính có kỳ hạn trên 1 năm hay chính là nơi giải quyết quan hệ cung-cầu về vốn dài hạn. Ba loại thị trường trên hình thành hệ thống thị trường tài chính. Hoạt động của mỗi thị trường có ảnh hưởng, tác động tới các thị trường kia. Thị trường tiền tệ và Thị trường vốn muốn hoạt động có hiệu quả và phái triển thì phải có Thị trường hối đoái, ngược lại hai thị trường kia phát triển và mở rộng sẽ thúc đẩy thị trường hối đoái hoạt động sôi động hơn. Ngoài ra, sự phái triển của Thị trường tiền tệ là cơ sở cho sự phát triển của thị trường chứng khoán, cũng như một Thị trường chứng khoán phát triển tạo điều kiện cho Thị trường tiền tệ phát triển lên theo. 1.3. Vai trò của nhà nước trên các thị trường tài chính Nhà nước có chức năng quản lý và điều tiết mọi mặt hoạt động của nền kinh tế trong đó thị trường tài chính là một bộ phận rất quan trọng. Đồng thời, trong quá trình vận động, bản thân thị trường tài chính cũng đặt ra yêu cầu được sự quản lý và giám sát của nhà nước. Trong mỗi loại thị trường tài chính khác nhau, nhà nước thể hiện vai trò của mình bằng các biện pháp và công cụ khác nhau. Nói chung, sự tác động của nhà nước vào thị trường tài chính thể hiện trên 3 mặt cơ bản sau: 15
- 1 Nhà nước tạo môi trường pháp lý cho sự hình thành và hoạt động của thị trường tài chính 2 Nhà nước tạo ra môi trường kinh tế cho sự hình thành và phát triển của thị trường tài chính 3 Nhà nước giám sát các hoạt động của thị trường tài chính Thị trường chứng khoán: Sơ lược lịch sử ra đời và phát triển 1.1. Khái niệm: Thị trường chứng khoán là một bộ phận của thị trường tài chính mà tại đó diễn ra việc mua bán các công cụ tài chính dài hạn. 1.2. Sơ lược lịch sử ra đời và phát triển Thị trường chứng khoán ban đầu phát triển một cách tự phát và rất sơ khai, xuất phát từ một sự cần thiết đơn lẻ của buổi ban đầu. Vào giữa thế kỷ 15 ở tại những thành phố trung tâm buôn bán ở phương Tây, các thương gia thường tụ tập tại các quán cà phê để trao đổi việc mua bán trao đổi các vật phẩm hàng hoá. Lúc đầu chỉ một nhóm nhỏ, dần dần sau đó tăng dần và hình thành một khu chợ riêng. Cuối thế kỷ 15, để thuận tiện hơn cho việc làm ăn, khu chợ trở thành "thị trường" với việc họ thống nhất các quy ước và dần dần các quy ước được sửa đổi hoàn chỉnh thành những quy tắc có giá trị bắt buộc chung cho mọi thành viên tham gia " thị trường". Phiên chợ riêng đầu tiên được diễn ra vào năm 1453 tại một lữ điếm của gia đình Vanber ở Bruges Bỉ, tại đó có một bảng hiệu hình ba túi da với một tiếng Pháp là "Bourse" tức là "mậu dịch thị trường" hay còn gọi là "Sở giao dịch". Vào năm 1547, thành phố ở Bruges Bỉ mất đi sự phồn thịnh do eo biển Even bị cát lấp nên mậu dịch thị trường ở đây bị sụp đổ và được chuyển qua thị trấn Auvers Bỉ, ở đây thị trường phát triển rất nhanh và giữa thế kỷ 16 một quan chức đại thần của Anh quốc đã đến quan sát và về thiết lập một mậu dịch thị trường tại London Anh, nơi mà sau này được gọi là Sở giao dịch chứng khoán London. Các mậu dịch thị trường khác cũng lần lượt được thành lập tại Pháp, Đức và Bắc Âu. Sự phát triển của thị trường ngày càng phát triển cả về lượng và chất với số thành viên tham gia đông đảo và nhiều nội dung khác nhau. Vì vậy theo tính chất tự nhiên nó lại được phân ra thành nhiều thị trường khác nhau như: Thị trường giao dịch hàng hoá, thị trường hối đoái, thị trường giao dịch các hợp đồng tương 16
- lai và thị trường chứng khoán với đặc tính riêng của từng thị trường thuận lợi cho giao dịch của người tham gia trong đó. Quá trình các giao dịch chứng khoán diễn ra và hình thành như vậy một cách tự phát cũng tương tự ở Pháp, Hà Lan, các nước Bắc Âu, các nước Tây Âu và Bắc Mỹ. Các phương thức giao dịch ban đầu được diễn ra sơ khai ngay cả khi ở ngoài trời với những ký hiệu giao dịch bằng tay và có thư ký nhận lệnh của khách hàng. Ở Mỹ cho đến năm 1921, khu chợ này được chuyển từ ngoài trời vào trong nhà, Sở giao dịch chứng khoán chính thức được thành lập. Ngày nay, theo sự phát triển của công nghệ khoa học kỹ thuật, các phương thức giao dịch ở các Sở giao dịch chứng khoán cũng được cải tiến dần theo tốc độ và khối lượng yêu cầu nhằm đem lại hiệu quả và chất lượng cho giao dịch, các Sở giao dịch đã dần dần sử dụng máy vi tính để truyền các lệnh đặt hàng và chuyền dần từ giao dịch thủ công kết hợp \/ói máy vi tính sang sử dụng hoàn toàn hệ thống giao dịch điện tử thay cho thủ công trước kia. Lịch sử phát triển các thị trường chứng khoán Thế giới trải qua một sự phát triển thăng trầm lúc lên, lúc xuống, vào những năm 1875-1913, thị trường chứng khoán Thế giới phát triển huy hoàng cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế Thế giới lúc đó, nhưng rồi đến "ngày thứ năm đen tối " tức ngày 29/10/1929 đã làm cho thị trường chứng khoán Tây, Bắc Âu và Nhật bản khủng hoảng mất lòng tin. Cho mãi tới chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, các thị trường chứng khoán cũng hồi phục dần và phát triển mạnh và rồi cho đến năm 1987 một lần nữa đã làm cho các thị trường chứng khoán. Thế giới điên đảo với "ngày thứ hai đen tối" do hệ thống thanh toán kém cỏi không đảm đương được yêu cầu của giao dịch, sụt giá chứng khoán ghê gớm, mất lòng tin và phản ứng dây chuyền mà hậu quả của nó còn nặng hơn cuộc khủng hoảng năm 1929. Theo quy luật tự nhiên, sau gần hai năm mất lòng tin, thị trường chứng khoán Thế giới lại đi vào giai đoạn ổn định và phát triển đến ngày nay. Cứ mỗi lần khủng hoảng như vậy, giá chứng khoán của tất cả các thị trường chứng khoán trên Thế giới sụt kinh khủng tuy ở mỗi khu vực và mỗi nước ở những mức độ khác nhau gây ra sự ngừng trệ cho thị trường chứng khoán toàn cầu và cũng ảnh hưởng trực tiếp tới nền kinh tế mỗi nước. 17
- Cho đến nay, phần lớn các nước trên Thế giới đã có khoảng trên 160 Sở giao dịch chứng khoán phân tán khắp các châu lục bao gồm cả các nước trong khu vực Đông nam Á phát triển vào những năm 1960 -1970 vào ở các nước ở Đông Âu như Balan, Hunggari, Séc, Nga, và Châu Á như Trung quốc vào những năm 1980 - đầu năm 1990. Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán trên Thế giới cho thấy thời gian đầu, thị trường hình thành một cách tự phát, đối tượng tham gia chủ yếu là các nhà đầu cơ, dần dần về sau mới có sự tham gia ngày càng đông đảo của công chúng. Khi thị trường bắt đầu xuất hiện sự trục trặc và bất ổn, chính phủ buộc phải can thiệp bằng cách thành lập các cơ quan quản lý nhằm bảo vệ quyền lợi của công chúng đầu tư và sau đó dần dần hệ thống pháp lý cũng bắt đầu được ban hành. Kinh nghiệm đối với những thị trường mới hình thành về sau này cho thấy thị trường sau khi thiết lập chỉ có thể hoạt động có hiệu quả, ổn định và nhanh chóng nếu có sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt về hàng hoá, luật pháp, con người, bộ máy quản lý và đặc biệt sự giám sát và quản lý nghiêm ngặt của Nhà nước. Song cũng có một số thị trường chứng khoán có sự trục trặc ngay từ ban đầu như thị trường chứng khoán Thái Lan, Inđônêsia, hoạt động trì trệ một thời gian dài do thiếu hàng hoá và do không được quan tâm đúng mức, thị trường chứng khoán Philippine kém hiệu quả do thiếu sự chỉ đạo và quản lý thống nhất hoạt động của 2 Sở giao dịch chứng khoán Makita và Manila, thị trường chứng khoán Balan, Hungari gặp trục trặc do việc chỉ đạo giá cả quá cao hoặc quá thấp, Có thể nói, Thị trường chứng khoán là một định chế tài chính không thể thiếu được trong đời sống kinh tế của những nước theo cơ chế thị trường và nhất là những nước đang phát triển đang cần thu hút luồng vốn lớn dài hạn cho nền kinh tế quốc dân. Thị trường Chứng khoán - Tổng quan 1. Chứng khoán – Hàng hoá của thị trường Chứng khoán là bằng chứng dưới hình thức giấy tờ hay ghi trên hệ thống điện tử xác nhận quyền sở hữu hay quyền chủ nợ hợp pháp có thể chuyển nhượng của người sở hữu chứng khoán đối với vốn tài sản và các lợi ích khác của người phát hành. 1.1. Hai loại chứng khoán chủ yếu 18
- Chứng khoán được chia làm hai loại chính: cổ phiếu và trái phiếu. Với sự phát triển ngày càng cao của công nghệ chứng khoán và hình thức phát hành, ngày nay khái niệm về chứng khoán đã có sự thay đổi, nó không chỉ là một chứng từ hiện vật dưới hình thức giấy tờ mà còn có thể được thể hiện trên hệ thống điện tử. Cổ phiếu: Là một loại chứng từ dưới hình thức giấy tờ hay ghi trên hệ thống điện tử do các công ty cổ phân phát hành xác nhận quyền sở hữu hợp pháp của người có cổ phiếu đối với tài sản của người phát hành. Trái phiếu: Trái phiếu là một loại chứng từ chứng nhận quyền đòi nợ gốc và lãi của trái chủ đối với người phát hành, nó có thể dưới hình thức giấy tờ hay được ghi trên hệ thống điện tử do các công ty, tổ chức hay Chính phủ trung ương, địa phương phát hành. So sánh cổ phiếu và trái phiếu Một công ty có nhiều cách để huy động vốn, có thể vay vốn ngân hàng hoặc phát hành cổ phiếu hay trái phiếu. Cổ phiếu hay trái phiếu có thể bao gồm nhiều loại khác nhau, tuy nhiên những điểm khác nhau cơ bản giữa cổ phiếu và trái phiếu được phân biệt như sau: a Xét về phía các nhà đầu tư: Cổ phiếu Trái phiếu Vốn gốc Không được Nói chung giá trị ban đảm bảo được đảm đầu bảo Giá cả biến động Thứ tự Được hoàn trả Được ưu tiên hoàn trả sau cùng trong trong các tiền khi Cty số tài sản còn hình thức vay bị phá sản lại nợ thông thường Thời điểm Chỉ khi Cty bị Thời điểm hoàn trả giải thể hoặc hoàn trả được vốn gốc phá sản. xác định vào lúc phát hành 19
- Quyền Với mỗi cổ Trừ khi Cty bị tham gia phần là một phá sản, vào quản phiếu bầu, cổ không được lý Công ty đông có thể tham gia vào tham gia vào quản lý Cty các quyết định của Cty tại đại hội cổ đông b Xét về phía các nhà kinh doanh: Cổ phiếu Trái phiếu Vốn gốc Sau khi phát Phải chuẩn bị hành không bị tiền hoàn trả yêu cầu mua lại khi trái phiếu do đó là khoảng đáo hạn tiền vốn an toàn Hoạt động Tiền cổ tức do Dù việc kinh kinh đại hội cổ đông doanh của Cty doanh của quyết định. Do như thế nào thì Công ty vậy, trường hợp vẫn phải trả lãi hoạt động kinh và vốn gốc doanh của Cty theo các điều không ổn định, kiện được quy không nhất thiết định khi phát công ty phải hành. chia tiền cổ tức. Tham gia Cơ quan ra Trái chủ không vào quản quyết định cao được tham gia lý kinh nhất Cty là đại vào quản lý Cty doanh hội cổ đông. Trừ trường Thông thường hợp Cty phá có quá nửa số sản, tuy nhiên phiếu đồng ý thì trên thực tế quyết định không thể bỏ được thông qua ý kiến của qua. người giữ trái phiếu. Theo mức độ giảm dần của khả năng thanh toán và mức độ tăng dần của rủi ro, trật tự các loại chứng khoán được xếp loại như sau: 20
- - Các chứng khoán nợ ngắn hạn tín phiếu kho bạc. - Trái phiếu chính phủ - Trái phiếu công ty - Cổ phiếu ưu đãi - Cổ phiếu thường. Xuất phát từ trật tự thanh toán khi doanh nghiệp bị phá sản thì trái phiếu sẽ được xử lý trước. Khi công ty trong quá trình thanh lý thì trật tự thanh toán được xếp như sau: - Phí giải quyết phá sản, lương công nhân viên. - Trả thuế - Thanh toán nợ, trong đó: Nợ ngắn hạn Nợ dài hạn - Cổ đông: Cổ phiếu ưu đãi Cổ phiếu thường 1.2. Phân loại cổ phiếu và trái phiếu 1.2.1. Cổ phiếu Khi một công ty đăng ký phát hành, nó sẽ được trao thẩm quyền phát hành một số cổ phần nhất định. Hầu hết các công ty phát hành có phần ít hơn so với con số đã được giao thẩm quyền nhằm duy trì một lượng chứng khoán nhất định sử dụng trong tương lai. Các cổ phiếu được phát hành: Là số lượng các chứng khoán thực sự đã được bán ra. Cổ phần chưa được bán ra hoặc chưa được lưu hành gọi là các chứng khoán chưa được phát hành. Cổ tức là một phần lợi nhuận của công ty chia cho cổ đông tỷ lệ với số cổ phiếu của họ. Cổ tức thường được công bố hàng năm và trả theo quý. Một công ty có thể công bố trả cổ tức bằng tiền mặt, bằng cổ phiếu hay bằng tài sản. Để phù hợp với tâm lý của người đầu tư, người ta chia cổ phiếu ra một số loại như sau: 21
- a Cổ phiếu thường Cổ phiếu thường thể hiện quyền sở hữu được bỏ phiếu của một công ty cổ phần. Mỗi cổ phiếu thường thể hiện quyền lợi sở hữu của cổ đông trong công ty. Số lượng cổ phiếu mà cổ đông nắm càng nhiều, quyền lợi sở hữu của anh ta trong công ty càng lớn. Đôi khi, một công ty cổ phần có thể phát hành phiếu loại cổ phiếu thường khác nhau như loại A và B. Hai loại này có một số điểm khác nhau. Một loại cổ phiếu có thể có quyền bỏ phiếu bầu Hội đồng quản trị còn loại kia thì không. Hoặc khi công ty trả cổ tức cho cổ đông, một loại có thể nhận được cổ tức lớn hơn loại kia. Ngoài ra, nếu công ty bị thanh lý thì một loại có thể nhận được phần tài sản nhiều hơn loại kia. Các quyền của cổ đông có cổ phiếu thường: Người sở hữu cổ phiếu thường thông thường được hưởng một số quyền lợi nhất định như sau: - Quyền bỏ phiếu bầu HĐQT. - Quyền nhận cổ tức theo công bố của HĐQT. - Quyền chuyển nhượng sở hữu cổ phiếu. - Quyền bỏ phiếu cho các vấn đề có ảnh hưởng đến toàn bộ công ty - Quyền kiểm tra sổ sách của công ty - Quyền được chia tài sản khi công ty thanh lý hay giải thể Mệnh giá của cổ phiếu thường: Hầu hết các công ty cổ phần ấn định mệnh giá cho mỗi cổ phiếu thường và mạnh giá thường được in trên tờ cổ phiếu. Mệnh giá cổ phiếu không liên quan đến giá thị trường của cổ phiếu đó. Mệnh giá thể hiện tầm quan trọng duy nhất của nó vào thời điểm cổ phần lần đầu tiên được phát hành. Giá thị trường của cổ phiếu thường Khi cổ phiếu bán ra công chúng, giá của nó được xác định bởi giá mà các nhà đầu tư mua nó; giá này được coi là giá thị trường hay giá trị thị trường; nó phụ thuộc vào sự tin tưởng của người đầu tư với công ty phát hành. Trên thực tế, giá thị trường của cổ phiếu không phải do công ty ấn định và cũng không phải do một người nào khác quyết định. Giá thị trường của cổ phiếu được xác định bởi giá thấp nhất mà người bán sẵn sàng bán nó và giá cao nhất mà người mua sẵn sàng mua nó. 22
- b Cổ phiếu ưu đãi Cổ phiếu ưu đãi cũng thể hiện quyền lợi sở hữu trong một công ty. Nó được gọi là cổ phiếu ưu đãi vì những cổ đông nắm loại cổ phiếu này được hưởng một số ưu đại hơn so với những cổ đông thường. Những cổ đông ưu đãi có thể có quyền nhận cổ tức trước cổ đông thường hay có quyền ưu tiên được nhận tài sản trong trường hợp công ty bị giải thể. Tuy nhiên, không giống với các cổ đông thường, các cổ đông ưu đãi thường không được bỏ phiếu bầu ra HĐQT và quyền hưởng lợi tức cổ phần bị giới hạn theo một số lượng nhất định. Mệnh giá của cổ phiếu ưu đãi Giống như cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi có thể có mệnh giá hoặc không có mệnh giá, ở đây mệnh giá cũng có mối liên quan đến giá thị trường. Nếu một cổ phiếu ưu đãi có mệnh giá thì cổ tức sẽ được tính dựa vào mệnh giá đó. Nếu cổ phiếu ưu đãi không có mệnh giá thì cổ tức sẽ được công bố bằng một số đô la nào đó trên mỗi cổ phiếu mà công ty phát hành ấn định. Các loại cổ phiếu ưu đãi: Nếu một công ty cổ phần phát hành nhiều sêri cổ phiếu ưu đãi, họ có thể chỉ định một loại là ưu đãi thứ nhất, loại kia là ưu đãi thứ hai. Hoặc họ cũng có thể phân biệt các cổ phiếu ưu đãi thông qua sự ưu tiên của nó đối với việc hưởng lợi tức cổ phần. Cổ phiếu ưu đãi tham dự và không tham dự chia phần Cổ phiếu ưu đãi không tham dự chia phần là loại chỉ được hưởng lãi cổ phần ưu đãi ngoài ra không được hưởng thêm bất cứ phần lợi nhuận nào. Ngược lại, cổ phiếu ưu đãi tham dự chia phần thì cổ đông được hưởng một phần lợi tức phụ trội theo quy định khi công ty làm ăn có lãi cao. Cổ phiếu ưu đãi tích luỹ và không tích luỹ Cồ tức trên cổ phiếu ưu đãi cũng có thể được tích luỹ hoặc không tích luỹ. Một cổ phiếu ưu đãi được tích luỹ có nghĩa là nếu cổ tức không được công bố trả trong một năm nào đó thì cổ tức này sẽ được tích luỹ hay cộng dồn. Cổ tức gộp này phải được trả trước khi công bố trả cổ tức cho các cổ phiếu thường. Mặt khác, nếu cổ tức không được tích luỹ và công ty đã bỏ qua cổ tức của một năm nào đó thì cổ tức đó không phải cộng thêm trước khi cổ tức thanh toán cho những cổ phiếu thường. 23
- Cổ phiếu ưu đãi có thể chuyển đổi Là loại cổ phiếu ưu đãi có quyền chuyển sang một loại chứng khoán khác của chính công ty đó. Công thức để thực hiện việc chuyển đổi cổ phiếu ưu đãi có thể chuyển đổi sang cổ phiếu thường do công ty quy định tại thời điểm cổ phiếu ưu đãi có thể chuyển đổi được phát hành. Chứng khoán ngân quỹ: Vì nhiều lý do, công ty mua về những cổ phần mà họ đã phát hành. Các cổ phần đã được phát hành mà hiện tại do công ty đó sở hữu được gọi là các chứng khoán ngân quỹ, nó không có quyền bỏ phiếu và không được nhận cổ tức. Chứng khoán trôi nổi: Là tổng số các chứng khoán đã được phái hành trừ đi số chứng khoán đã được công ty mua lại chứng khoán ngân quỹ. Các chứng khoán trôi nổi có quyền nhận cổ tức và có quyền bỏ phiếu. 1.2.2. Trái phiếu Đặc điểm của trái phiếu: Mệnh giá: Trên bề mặt của trái phiếu, thường công bố số tiền mà người phát hành cam kết trả cho người có trái phiếu. Số tiền này gọi là mệnh giá của trái phiếu. Ngày đáo hạn: Ngày đáo hạn cũng được ghi trên bề mặt trái phiếu. Đây là ngày người phát hành sẽ thanh toán mệnh giá cho người có trái phiếu. Kỳ hạn của trái phiếu rất đa dạng, có thể lên tới 30 năm hay hơn nữa. Lãi suất: Lãi suất được công bố theo tỷ lệ phần trăm với mệnh giá trái phiếu. Mặc dù lãi suất được tính theo hàng năm nhưng nó được thanh toán nửa năm một lần. Phân biệt theo tiêu thức người phát hành, có hai loại trái phiếu là trái phiếu công ty và trái phiếu Chính phủ Trái phiếu công ty Trái phiếu vô danh Tên trái chủ của trái phiếu vô danh không được đăng ký tại công ty phát hành. Trái phiếu này được thanh toán cho những ai mang nó, tức là người chủ sở hữu 24
- trái phiếu đó. Trái phiếu vô danh có gắn các cuống phiếu trả lãi, trái chủ xé một cuống phiếu vào ngày trả lãi và gửi cho đại lý của công ty để thanh toán. Trái phiếu ghi tên Tên của trái chủ được đăng ký tại công ty phát hành. Người có trái phiếu này không phải gửi các cuống phiếu cho đại lý thanh toán để nhận phần lãi của mình. Mà thay vào đó, vào ngày đến hạn, người đại lý sẽ tự động gửi cho anh ta một tờ séc trả cho khoản lãi đó. Trái phiếu có thể thu hồi Một số công ty có quy định trong trái phiếu một điều khoản cho phép họ mua lại trái phiếu trước khi đến hạn. Thông thường, công ty chấp nhận trả cho người có trái phiếu theo giá gia tăng tức là, lớn hơn mệnh giá của trái phiếu khi công ty muốn mua lại trái phiếu đó. Trái phiếu có thể chuyển đổi Trái phiếu chuyển đổi cho người sở hữu quyền đổi trái phiếu của anh ta sang một loại chứng khoán nào đó. Chứng khoán này có thể là cổ phiếu ưu đãi hay cổ phiếu thường của công ty phát hành. Trái phiếu bảo đảm Cũng như những người đi vay khác, công ty thường đưa ra một thứ có giá trị làm vật bảo đảm cho các khoản vay. Khi công ty thực hiện điều này, ta nói rằng nó đã phát hành một trái phiếu có bảo đảm. Có một số loại trái phiếu bảo đảm chủ yếu là: Trái phiếu có tài sản cầm cố: một trái phiếu có tài sản cầm cố là việc công ty phát hành thế chấp bất động sản để đảm bảo khả năng thanh toán nợ. Trái phiếu có tài sản thế chấp: công ty phát hành đưa ra các chứng khoán dễ chuyển nhượng mà công ty sở hữu của người khác để bảo đảm cho việc phát hành trái phiếu. Trái phiếu không bảo đảm Một công ty có khả năng tín dụng cao có thể phát hành trái phiếu chỉ trên uy tín của mình. Những trái phiếu này được gọi là giấy nhận nợ và công ty không phải thế chấp tài sản làm đảm bảo cho nó. Các chứng khoán nhận nợ do ngân hàng phát hành 25
- Các ngân hàng có thể tham gia thị trường với các công cụ ngắn hạn như: Chứng chỉ tiền gửi: cung cấp cho ngân hàng các nguồn vốn để thực hiện cho vay ngắn hạn. Phiếu chấp nhận thanh toán của ngân hàng: được phát hành để tài trợ cho buôn bán quốc tế. Trái phiếu Chính phủ Để tài trợ cho chi tiêu ngân sách, các chính phủ có thể phát hành trái phiếu thông qua kho bạc nhà nước. Trái phiếu chính phủ có thể là ngắn hạn, trung và dài hạn. Kỳ phiếu kho bạc ngắn hạn Phổ biến nhất là các loại 3 tháng và 6 tháng, các kỳ phiếu ngắn hạn là những công cụ chiết khấu, thường không có mức lãi suất cố định. Các kỳ phiếu ngắn hạn thường được mua bằng một số tiền và người mua sẽ nhận được một số tiền lớn hơn bằng mệnh giá khi đến hạn. Khoản chênh lệch giữa hai số tiền trên gọi là khoản chiết khấu, lãi suất thu được chính là lãi suất chiết khấu Trái phiếu kho bạc trung và dài bạn Các trái phiếu kho bạc trung và dài hạn là các công cụ có kỳ hạn dài hơn kỳ phiếu kho bạc. Trái phiếu trung hạn được phát hành với thời gian đáo hạn từ 1 đến 10 năm. Trái phiếu dài hạn được phát hành từ 10 đến 30 năm. Các trái phiếu trung và dài hạn có mức lãi suất cố định và được trả lãi trên cơ sở nửa năm. Những công cụ này được tính toán trên cơ sở 1 năm 365 ngày mà không phải 360 ngày như đối với các kỳ phiếu ngắn hạn và các công cụ khác Trái phiếu địa phương Kỳ phiếu địa phương ngắn hạn Các chính quyền địa phương phát hành những công cụ ngắn hạn để ứng trước nhu cầu về vốn. Những công cụ này được gọi là kỳ phiếu, thường có kỳ hạn 6 tháng hoặc ít hơn. Các kỳ phiếu được phát hành trên cơ sở dự tính trước các khoản thuế gọi là kỳ phiếu ứng trước thuế. Các loại phát hành dựa trên dự tính thu nhập tương lai gọi là kỳ phiếu ứng trước thu nhập. Các kỳ phiếu ứng trước đợi phát hành trái phiếu mới gọi là kỳ phiếu ứng trước cho phát hành trái phiếu. Trái phiếu địa phương trung và dài hạn 26
- Thường có một số loại sau: Trái phiếu trách nhiệm chung: được bảo đảm bàng những lực thu thuế của chính quyền địa phương. Trái phiếu bảo đảm bằng thuế cụ thể: được bảo đảm bằng một loại thuế nhất định của địa phương. Trái phiếu thu nhập: được bảo đảm bằng thu nhập từ dự án xây dựng bằng tiền bán trái phiếu. 1.3 - Chứn g quyền và trái quyền: - Chứng quyền: Chứng quyền là một quyền mua hay đặt mua cổ phiếu mới được phát hành tại một giá xác định thường thấp hơn giá thị trường hiện hành theo tỷ lệ thuận với số cổ phiếu mà họ đang sở hữu. Chứng quyền thường có thời hạn ngắn từ 2 tuần đến 30 ngày. Trong thời gian đó người có chứng quyền có thể sử dụng để mua cổ phiếu mới hoặc bán nó trên thị trường Thí dụ: Một công ty có 100.000 cổ phần nay muốn phát hành thêm 10.000 cổ phiếu mới. Khi đó tỷ lệ chuyển đổi là 1/10- tức là cứ có 10 cồ phiếu cũ thì được mua 1 cổ phiếu mới. - Chứng khế: hay trái quyền Một chứng khế gắn với 1 chứng khoán cho phép người giữ nó được quyền mua cổ phiếu thường theo một giá nhất định. Giá xác định trên chứng khế cao hơn giá thị trường hiện hành của cổ phiếu thường. Ví dụ: Một công ty A có cổ phiếu thường đang lưu hành với giá 40$/1 cổ phiếu, chứng khế phát hành cho phép người giữ nó mua cổ phiếu của công ty A Với giá là 60$/1 cổ phiếu vào bất kỳ thời điềm nào cho đến này 31/12/2000. Nếu công ty A đang rất có triển vọng và người ta dự đoán đến năm 2000, giá cổ phiếu của công ty có thể vượt mức 60$ thì chứng khế sẽ rất hấp dẫn. Bởi vậy, người ta thường sử dụng chứng khế đi kèm với trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi để làm cho việc chào bán lần đầu hấp dẫn hơn. 2.1.4. Các công cụ khác của thị trường chứng khoán Derivatives - Hợp đồng kỳ hạn: là một hợp đồng tài chính, trong đó hai bên cam kết chắc chắn mua hoặc bán một công cụ tài chính vào một thời điểm trong tương lai với giá được xác định vào thời điểm ký hợp đồng. Người mua hoặc người bán phải gánh chịu rủi ro hoặc mọi khoản lãi tuỳ thuộc khả năng phân tích đánh giá thị trường 27
- - Hợp đồng lựa chọn: theo hợp đồng lựa chọn, người mua quyền lựa chọn có quyền được thực hiện đó bằng cách trả cho người bán một khoản tiền đặt cược. Đổi lại, người bán phải gánh chịu mọi rủi ro do biến động giá của thị trường gây ra. Còn người mua chỉ chịu rủi ro trong giới hạn đặt cược. Có hai loại quyền lựa chọn là: Quyền lựa chọn mua Quyền lựa chọn bán Những điều cấm kỵ trong thị trường chứng khoán - Các thủ thuật gian lận và giả tạo - Tư vấn cho khách hàng không phù hợp, thiếu cơ sở. - Mua bán quá mức cần thiết. - Bán cổ tức. - Bán chứng khoán tại điểm phân biệt giá. - Vay mượn tiền. - Nguỵ tạo bản chất. - Sử dụng kết luận nghiên cứu của người khác. - Xung đột quyền lợi. - Đảm bảo lời lỗ hoặc chia chác với khách hàng. - Lạm dụng thông tin nội bộ. - Tiết lộ thông tin khách hàng. - Lợi dụng chức năng để thu vốn cho mình. - Giao dịch giả tạo. - Gài thế. - Mua bán đột biến. - Dùng các phương tiện truyền thông để gây ảnh hưởng thị trường. - Phao tin thất thiệt hoặc gây lạc hướng. - Chạy trước. - Ép giá, trợ giá, chốt giá. Mỗi giao dịch trong thị trường chứng khoán TTCK là một cuộc làm ăn, nhiều khi đó là một cuộc làm ăn lớn. Các giao dịch thường diễn ra và kết thúc cực kỳ nhanh, có thể chỉ tốn vài giây để gút một hợp đồng bạc tỷ. Ở các thị trường lớn, hàng triệu giao dịch phát sinh mỗi ngày, trị giá hàng tỷ đô la Sự sôi động của loại thị trường nhạy cảm này vừa thách thức vừa đặt tiền đề cho các nhà quản lý về khả năng duy trì một nề nếp trật tự và đạo đức kinh doanh. Để đảm bảo một thị trường lành mạnh, TTCK được xây dựng trên nền tảng thi hành trung thực và công bình. Người đầu tư được bảo vệ tối đa. Sự an toàn chính là nhân tố thuyết phục cho thị trường tồn tại và được duy trì bởi: một hành lang pháp luật, một hệ thống quy chuẩn và nghiệp vụ được chuẩn hoá chi li và những điều cấm kỵ có tính nguyên tắc. Về pháp luật và nghiệp vụ đầu tư, người đầu tư có thể dễ dàng nếu không muốn nói là luôn luôn cần đến các cố vấn và các công ty chứng khoán lo liệu cho mình. Riêng những điều cấm kỵ thì chẳng những giới chuyên nghiệp phải thuộc lòng 28
- mà người đầu tư cũng cần biết để tránh, để cảnh giác, tự bảo vệ mình và còn có ý nghĩa làm tai mắt giúp thị trường hoàn thiện. Trình bày dưới đây chủ yếu cung cấp hiểu biết về các cấm kỵ và hạn chế đối với các thành viên trong TTCK cũng như bất cứ ai tham gia vào thị trường này. CÁC THỦ THUẬT GIAN LẬN VÀ GỈA TẠO Người tham gia, nhất là nhân sự trực tiếp làm việc trong TTCK tuyệt đối không được dùng các mưu kế hay phương pháp vận hành giả tạo nhằm đánh lừa hoặc gian lận để tác động theo ý mình khi giao dịch hoặc nhằm để chiêu dụ việc mua hay bán một chứng khoán nào đó. Ví dụ đưa ra các nhận định có dụng ý và sai sự thật hoặc thực hiện các động tác giả. Điều này giúp cho cơ chế mua bán trong TTCK tuân thủ các động cơ tự nhiên theo nhiệt độ của thị trường và chống lửa đảo. Theo luật giao dịch chứng khoán của Mỹ thì giới hạn truy cứu là 3 năm và hiệu lực phát hiện trong vòng một năm, với sự đền bù thiệt hại không hạn chế và tuỳ theo mức độ. TƯ VẤN CHO KHÁCH HÀNG KHÔNG PHÙ HỢP, THIẾU CƠ SỞ Khi khách hàng tìm đến nhà tư vấn hoặc quan hệ với công ty chứng khoán, họ mặc nhiên phó thác niềm tin vào những nơi này. Mỗi khách hàng có những nhu cầu đầu tư riêng. Các điều kiện tài chính, nhân thân, thể trạng tâm lý, mức chịu đựng rủi ro của họ khác nhau. Họ cần được điều tra đầy đủ, được giải thích cặn kẽ, gồm cả các phân tích rủi ro đúng mực và báo họ biết trước. Bất cứ sự thiếu tận tuỵ, qua loa lấy lệ nào gây hậu quả xấu cho khách hàng đều được xem là vi phạm nguyên tắc hành xử trong TTCK. Sự hành xử trung thực fair dealing này có thể đo lường được dễ dàng bằng một số tình huống được liệt kê. Ví dụ không thể có chuyện khách hàng của một công ty môi giới bị mắc quai vào một quyết định đầu tư mà có thể đặt họ vào rủi ro vượt quá khả năng tài chính của họ. Hoặc một phụ nữ đang mang thai, một người bệnh tim, lại được hướng dẫn đầu tư vào các chứng khoán hay chiến lược có độ rủi ro cao, dù có thể sẽ mang lại lợi nhuận nhiều,. MUA BÁN QUÁ MỨC CẦN THIẾT Trong cơ chế TTCK các nhà đầu tư do không có thời giờ hoặc không tinh thông bằng các nhà môi giới, họ có thể mở một trương mục uỷ thác discretionary account giao trọn quyền mua bán lại cho nhà môi giới. Hoạt động mua bán quá mức xảy ra khi người môi giới làm như thế để gia tăng tiền huê hồng của mình chứ không phải vì mục đích kiếm lời cho khách hàng đầu tư. Hành động "tạo sóng" để thủ lợi - "hay đành sữa vớt bơ" – này thuật ngữ gọi chung là "churning". Churning vừa có thể là mua bán quá nhịp độ bình thường hoặc quá quy mô để rồi lại phải thanh lý phát sinh nghiệp vụ! mới kết thúc giao dịch đó được. BÁN CỔ TỨC Việc mua chứng khoán ngay trước đợt phân phối cổ tức mới nghe tưởng ngon ăn như "mua gà cho trứng". Thật ra người đầu tư bị đặt trước hai bất lợi: thứ nhất chứng khoán sẽ bị rớt giá ít ra là bằng với khoản cổ tức được phân phối - 29
- sự rớt giá vì bất cứ lý do nào luôn kèm theo một động thái tâm lý bất ổn - và thứ hai, người đầu tư sẽ phải gánh chịu trách nhiệm về khai thuế theo đợt phân phối cổ tức đó. Các công ty chứng khoán bị cấm khuyến khích người đầu tư mua các cổ phần vào thời điểm tế nhị này nhằm để tránh một sự chạy trách nhiệm đối với nghĩa vụ thuế. BÁN CHỨNG KHOÁN TẠI ĐIỂM PHÂN BIỆT GÍA Sẽ có các loại chứng khoán, cổ phần các đợt phát hành mới, hoặc cổ phần của các quỹ đầu tư, được bán bởi một khung giảm giá theo đó giá được giảm thấp hơn sau mỗi nấc thang số lượng cao hơn. Khách hàng có thể không nắm được các thông tin này, do đó vô tình có thể mua một lượng ngay sát dưới giá được giảm. Như vậy họ mặc nhiên chịu thiệt hại ngay khi mua. Các nhà môi giới và tư vấn thu xếp cho khách hàng đầu tư mua ở múc như thế hoặc lờ đi trước một yêu cầu giao dịch vô ý của khách hàng với lượng mua ngay dưới điểm phân biệt breakpoint của một thang giá là không chân chính và vi phạm nguyên tắc tri hành trung thực trong TTCK. VAY MƯỢN TIỀN Các đại diện của công ty chứng khoán và các nhà tư vấn đầu tư bị cấm vay tiền hoặc chứng khoán của một khách hàng, ngoại trừ khách hàng đó đồng thời là một ngân hàng hoặc một đơn vị có chức năng kinh doanh tài chính. Đồng thời họ cũng bị cấm không được cho khách hàng vay tiền hoặc chứng khoán nếu họ không được phép hoạt động như vậy. NGUỴ TẠO BẢN CHẤT Những người hành nghề trong TTCK không được trình bày sai lệch ra công chúng về thực chất và các dịch vụ của họ để loè khách hàng cũ hoặc câu khách hàng mới, các cấm kỵ kiểu này bao gồm: - Phẩm chất nghề nghiệp, kinh nghiệm, trình độ. - Bản chất các dịch vụ được cung ứng. - Phí dịch vụ. Bất cứ một sự phô trương nào vượt quá thực chất cũng mắc tội nguỵ tạo, vì sẽ làm sai lệch quyết định chọn mặt gởi vàng của người đầu tư. SỬ DỤNG KẾT LUẬN NGHIÊN CỨU CỦA NGƯỜI KHÁC Các nhà tư vấn đầu tư và kinh doanh môi giới bị cấm không được cung cấp cho khách hàng các báo cáo nghiên cứu, phân tích hay khuyến nghị do người khác thực hiện mà không nói thẳng ra đó không phải là lập luận của mình. Nhưng họ có thể dựa vào các thông tin, khuyến nghị hoặc phân tích của người khác để đưa ra các kết quả tư vấn cho khách hàng của mình, miễn là họ phải tiết lộ là họ đã dùng các nguồn đó. XUNG ĐỘT QUYỀN LỢI 30
- Các nhà tư vấn đầu tư phải công khai bằng văn bản các thực trạng tế nhị dễ gây ra hoặc tiềm ẩn khả năng xung đột quyền lợi với khách hàng như: - Mối quan hệ trực tiếp giữa nhà tư vấn với bất cứ nhà cung ứng sản phẩm chứng khoán nào. - Các khoản tiền trả phí thu xếp mà khách hàng phải chịu thêm vào phí tư vấn cho cùng dịch vụ. - Nhận phí tư vấn của khách hàng trong khi tiền huê hồng thực hiện nghiệp vụ chứng khoán, dựa trên kết quả tư vấn đó, cũng có thể về tay nhà tư vấn hay công ty của họ. ĐẢM BẢO LỜI LỖ HOẶC CHIA CHÁC VỚI KHÁCH HÀNG Những người kinh doanh và tư vấn không được cam kết bất cứ một khoản chạy lỗ hoặc kiếm lời nào sẽ được thực hiện cho tài khoản của khách hàng, ngoại trừ trong vài trường hợp hạn chế. Những người hoạt động trong kỹ nghệ chứng khoán cũng không được chia lãi, chia lỗ với khách hàng. Các ngoại lệ nếu có - ví dụ: đối với một tài khoán liên kết joint account - thì phải được công ty quản lý trực tiếp chấp thuận trước bằng văn bản, và họ chỉ được chia phần tương đương với vốn góp. Các quan hệ gia đình trực tiếp sẽ được áp dụng linh động hơn. LẠM DỤNG THÔNG TIN NỘI BỘ Đây là cấm kỵ cực kỳ nghiêm khắc. Các thông tin không được công bố ra công chúng được quan tâm đặc biệt vì đây chính là một nguyên nhân quan trọng bậc nhất tạo ra sự bất công, tiêu cực, mờ ám, làm vẩn đục thị trường. Các công ty và nhà tư vấn chứng khoán bị bắt buộc phải lập các "bức tường cách ly" Chinese wall trong nội bộ, soạn quy chế để duy trì và ràng buộc các chế độ về quản lý thông tin, thiết lập thủ tục và hạn chế nhằm tích cực ngăn ngừa các vi phạm luật lệ về quản lý thông tin nội bộ. Luật lệ về TTCK dành nhiều điều khoản chế định hành vi phi đạo đức này. TIẾT LỘ THÔNG TIN KHÁCH HÀNG Thông tin có liên quan đến khách hàng có quan hệ với công ty chứng khoán phải được giữ kín. Các nhân viên của công ty chứng khoán không được tiết lộ bất cứ chi tiết nào của khách hàng cho người khác không có thẩm quyền nếu không có sự đồng ý của khách hàng đó. Các thông tin này có thể là các vị thế mua bán, tình trạng nhân thân, tình hình tài chính, các ý đồ chiến lược, Một nguyên tắc quan trọng có tính sống còn của TTCK là niềm tin của khách hàng. Chính những nhân viên làm việc trong công nghệ chứng khoán phải có nghĩa vụ giữ lại niềm tin đó. Trong trường hợp được yêu cầu, được pháp lý xác nhận và cho phép, tài khoản của khách hàng có thể giao dịch bằng mã số hoặc mã chữ thay vì bằng chính tên của họ. LỢI DỤNG CHỨC NĂNG ĐỂ THU VÉN CHO MÌNH Khi các công ty thành viên và cơ quan trong TCCK dám nhận các công đoạn trong hệ thống vận hành như đại diện chi trả, chuyển nhận, bảo lãnh phát hành 31
- chứng khoán, là đã cam kết trong một quan hệ uỷ thác đối với các công ty phát hành. Do vai trò như vậy, các đơn vị này đương nhiên có được các thông tin riêng, chi tiết về những ai đang làm chủ loại chứng khoán mà họ đang phục vụ. Đây không phải là lợi thế kinh doanh. Các thành viên liên quan bị cấm không được sử dụng các thông tin dạng này cho mục đích vụ lợi. Họ chỉ được sử dụng theo yêu cầu cụ thể hoặc sự cho phép của công ty phát hành. Chẳng hạn, một đơn vị thành viên giữ nhiệm vụ chuyển nhuận transfer agent trong các giao dịch về cổ phần thường của một công ty không được liên hệ với các sở hữu chủ cổ phần đó để mồi chài hoặc thu vén riêng. CÁC HOẠT ĐỘNG MUA BÁN PHI ĐẠO ĐỨC GIAO DỊCH GIẢ TẠO Tương tự như việc đưa ra chào mua, chào bán ảo, việc dựng lên các giao dịch nguỵ tạo có thể được một sổ người sử dụng nhằm tạo các đột biến thị trường cho một loại chứng khoán nào đó ngõ hầu phục vụ cho dụng ý cá nhân. Các động tác giả artificial transactions này dù được vận dụng dưới bất cứ hình thức nào đều bị nghiêm cấm. GÁI THẾ Cũng nhằm nguỵ tạo cảm giác thị trường của một chứng khoán nào đó sôi động, cùng lúc có hai người đưa ra hai lệnh mua và bán giống hệt nhau thông qua cùng một công ty môi giới và được thực hiện. Kết quả mua bán được báo cáo trên các hệ thống thông tin nhưng kỳ thực đây chỉ là một một mánh khoé tạo xung động giá chứ không có mua bán theo cung cầu trung thực. Các cá nhân cũng có thể tự thực hiện thủ thuật này hoặc do các nhóm cùng cánh làm ăn bất chính tạo ra. Các công ty chứng khoán buộc phải lưu ý và phát hiện các lệnh đối ứng kiểu này và không được thực hiện nghiệp vụ khi biết rằng đó là một hoạt động gài thế matching. Ví dụ mua và bán cùng loại chứng khoán, cùng số lượng, gần như cùng giá tại cùng thời điểm, MUA BÁN ĐỘT BIẾN Mua bán đột biến tăng lên được xác định khi một thành viên có thể cấu kết với khách hàng - thực hiện các lượng mua bán một lượng chứng khoán vượt trội, tại một thời điềm nào đó, khác xa với diễn biến bình thường, hoặc vượt quá sự cân đối nguồn tài chính của mình một cách lộ liễu. Hoạt động này có thể bị kết tội hoặc bị truy cứu đã gây nhiễu loạn thị trường. DÙNG CÁC PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG ĐỂ GÂY ẢNH HƯỞNG THỊ TRƯỜNG Các công ty chứng khoán, hoặc các cá nhân, đơn vị liên quan, không được dùng tiền mua chuộc và tạo ra các bài viết, các nhận định thuận lợi theo ý mình hoặc các đề cập có dụng ý khác trên báo chí, các ấn phẩm tài chính, Tất nhiên điều cấm kỵ này không bao gồm các quảng cáo bình thường trên các phương tiện truyền thông và được phân biệt rõ như vậy. PHAO TIN THẤT THIỆT HOẶC GÂY LẠC HƯỚNG 32
- Các nhà kinh doanh giao dịch chứng khoán bị cấm sử dụng vị thế của mình để tạo ra các trung tâm ảnh hưởng và nơi đưa ra ý kiến nhằm lung lạc khách hàng bằng việc truyền bá hoặc cung cấp các thông tin sai lạc hoặc thất thiệt phục vụ cho mục tiêu lôi kéo quần chúng mua hay bán một loại cố phiếu cụ thể nào đó. CHẠY TRƯỚC FRonT-RUNNING Hành động chạy trước liên quan tới những tình huống theo đó một nhà kinh doanh môi giới chứng khoán trong khi đang giữ một lệnh mua hay bán của khách hàng đặc biệt là các khối lượng lớn có chiều hướng làm biến đổi thị trường lại thực hiện mua hoặc bán cho mình cùng phía với lệnh của khách hàng, trước khi đưa lệnh đó ra thị trường. Nếu là lệnh mua, nhà kinh doanh môi giới không được mua riêng cho mình với giá bằng hay thấp hơn giá sau đó sẽ thực hiện cho khách hàng. Tương tự trường hợp khách hàng ra lệnh bán thì công ty đó không được bán chứng khoán cùng loại cho tài khoản công ty mình bằng hoặc cao hơn giá sau đó sẽ thực hiện cho khách hàng. ÉP GÍA CAPPING, TRỢ GÍA PEGGING, CHỐT GÍA FlXING Bất cứ nỗ lực chủ quan nào nhằm để tạo một áp lực làm cho giá một chứng khoán nào đó bị hãm lại ở mức thấp, hoặc đẩy giá xuống thấp hơn, được xem là hành động ép giá. Điều này bị lên án và cấm kỵ trong TTCK. Tương tự các tác động chủ ý nhằm để duy trì một giá cao giả tạo hoặc chốt giá ổn định một cách không bình thường đối với một chứng khoán đều là các hành vi sai phạm và bị cấm. Bên cạnh các biện pháp giám sát và duy trì sự tuân thủ các điều cấm cụ thể trên đây, có thể nói, toàn bộ TTCK được vận hành dựa vào một hệ thống nghiệp vụ, kỹ thuật, quy phạm, được chuẩn hoá cao độ. Các hoạt động trong TTCK hầu như tất cả đều dựa trên những "đường ray" theo một trật tự ăn khớp nhau. Sự tinh tế và nhạy cảm phát đi từ hiệu lực của hệ thống. giúp cho người ta có thể đo được độ trung thực theo yêu cầu "fair play" cho cả những thương vụ cực kỳ ngắn dù phải tính bằng giây. Tính kỷ luật trong TTCK do được thể hiện từ các chuẩn mực chuyên sâu và cương kỷ như vậy, người đầu tư khi giao dịch trong thị trường này cần thiết phái nhờ đến chuyên viên tư vấn hoặc các broker. Các rủi ro trong đầu tư chứng khoán - Tự biết mình. - Nhu cầu nào mua loại đó. - Các rủi ro trong đầu tư chứng khoán. Có lẽ cần phải nói thật sớm rằng khi mua cổ phần công ty hoặc tại thị trường chứng khoán TTCK là ta đã bỏ vốn ra làm ăn chứ không phải bỏ ống hay gởi tiết 33
- kiệm. Chuyện tưởng đơn giản như thế mà hiện nay - và biết đâu sẽ còn lâu nữa - làm nhiều công ty đã cổ phần hoá đang phải nhức đầu Bối cảnh có thể là những người lao động, tay làm hàm nhai, ki cóp những đồng bạc dành dụm khó khăn đi mua cổ phần công ty. Cũng có thể đó là những người khá hơn, chỉ vì suy nghĩ quá đơn giản nên đã đinh ninh rằng sở hữu công ty rồi là bảnh lắm, cứ "tới kỳ là có bánh mì" Nhưng có trường hợp đã tới mấy kỳ mà chẳng thấy "bánh mì"! Công ty vừa cổ phần hoá xong thì khủng hoảng khu vực ập đến. Kết quả cân đối âm, đành phải cắn vào đuôi mà tồn tại, lấy lời đâu để mà chia? Bức bách quá quý vị ấy đi bán cổ phần. Lại gặp ê chề: chấp nhận bán lỗ cũng không phải dễ tìm được người mua. Thế là tàn một giấc mơ?. . . Chưa chắc. Hãy đợi đấy TỰ BIẾT MÌNH: Nếu ta tạm quên TTCK - hoặc giả sử cơ chế thị trường này còn lâu mới thành hiện thực - thì hành động mua cổ phần chẳng khác nào một quyết định hùn hạp kinh doanh. Do đó phải tính tới yếu tố lời ăn lỗ chịu. Liệu cơm gắp mắm hoặc lượng sức mình là điều cần thiết. Mua cổ phần là tham gia vào loại hình hoạt động kinh tế thứ ba của thị trường - Loại thứ nhất là tư doanh sole proprietorship; loại thứ hai là hợp danh partnership và loại thứ ba là công ty hợp vốn corporation. Đó là một loại hình làm ăn dài hơi và đầy biến động, có khi bất trắc không chừng. Quyền định đoạt của người tham gia sau khi bỏ đồng vốn vào đó có khi chỉ còn một phần triệu hay nhỏ hơn. Điều này gần đồng nghĩa với khả năng bị lệ thuộc hay mất quyền tự chủ - cho đến khi nào chưa có một TTCK hữu hiệu. Tự biết mình là khả năng nhận ra được mong đợi riêng của một cá nhân khi đặt mình vào cuộc chơi đó. Do vậy mà sẽ chẳng quá đáng nếu có thể nói mua cổ phần công ty là để mong khám phá hơn chứ không phải để kiếm sống. Vậy thì mình là ai? Làm buổi sáng đong gạo buổi chiều, nuôi con nhỏ mẹ già, chuẩn bị cho một phương trình đại học, sắp lập gia đình, xây nhà, về hưu, nay mai sẽ cần một khoản tiền nhất định, thì hãy cân nhắc trước khi mua cổ phần. Ngoại trừ trường hợp được ưu đãi nếu không việc giảm giá vài chục phần trăm cũng đừng nên vội, đừng vội Đôi khi hỏng chuyện ngay ở chỗ tiếc của rẻ này. Việc mua hàng giảm giá đó có thể không có ý nghĩa gì nếu chỉ vì do ta bị cuốn vào chứ không phải do một quá trình tính toán và quyết định. 34
- NHU CẦU NÀO MUA LOẠI ĐÓ Tiền đầu tư vào cổ phần phải là tiền dư của để. Đó là món tiền cần thiết phải được quản lý một cách hiệu quả để kiếm của sinh lời. Lượng tiền nào không dùng cho các nhu cầu sinh sống cơ bản và cũng không nằm trong kế hoạch sử dụng ngắn hạn. Thể trạng tâm lý vững vàng và một khả năng nhận thức tối thiểu về kinh tế là những yêu cầu cần thiết. Bởi vì không thể có chuyện "không biết đâu bắt đền” khi có một sự trì trệ hoặc thậm chí mất trắng xảy ra. Nếu ta không được như vậy thì tốt nhất nên chọn một cách đầu tư khác dựa vào thế thủ - từ vừa vừa cho tới gần như chắc cú - đó là mua cổ phần ưu đãi, mua trái phiếu nhà nước, trái phiếu đô thị, trái phiếu công ty hoặc gởi tiết kiệm. Cách đầu tư sau an toàn hơn, bảo đảm tới kỳ là có lãi để chi dùng và tính được thời gian lấy vốn ra. Ngoại trừ cổ phần ưu đãi thì không được vì đây là dạng đã dấn thân vào sân chơi nhưng còn "thủ công", không chịu thắng thua mà chỉ muốn “lấy xâu”. Ở đây quy luật thị trường thể hiện rất rõ, rủi ro ít nhận được lợi ít và ngược lại. Rủi ro risk trong đầu tư không nên được hiểu theo nghĩa "liều" thông thường, mà phải được quan niệm là sự suy tính xa hoặc, dễ hiểu hơn, đó chính là sự mạo hiểm. Riêng trong TTCK, một nguyên tắc hành xử bắt buộc, mà các thành viên chuyên nghiệp phải tuân thủ, đó là phải điều tra thật kỹ lưỡng tình trạng nhân thân, tình hình tài chính, nhu cầu của người đầu tư trước khi mở tài khoản cho họ mua chứng khoán. Nhà môi giới và kinh doanh chứng khoán nào không trưng ra được bằng chứng là mình đã thực hành tận tuỵ thủ tục nào sẽ bị truy cứu trách nhiệm trước pháp luật. THUỘC BÀI RỦI RO Gọi là đầu tư nghĩa là đã chơi trò chơi trí tuệ. Nhưng thói thường, khi say sưa nghĩ đến chiến thắng người ta dễ rơi vào trạng thái mất cảnh giác. Họ quên rằng tài thao lược của họ, hoặc ngay cả của các chuyên gia cố vấn cho họ, có thể bị "vô hiệu" bất cứ lúc nào tại hàng chục cửa ải, và nếu bất phước có ông kẹ rủi ro xuất hiện thì chí nguy. Do đó mà đừng quên nghĩ đến những thực tế phũ phàng, để thay vì “ngẫm lại mà đau” ta chấp nhận nó như là một “thứ đau thương”. Tốt hơn hết người đầu tư cần nằm lòng càng nhiều rủi ro sau đây càng tốt: 35
- Rủi ro lạm phát: Trước tiên là khả năng kiếm lời không đuổi kịp sự mất giá của đồng tiền đã bỏ ra đầu tư. Và khi sức mua của đồng bạc giảm sút do giá tiêu dùng tăng sẽ kéo theo lãi suất tăng. Tác động của lạm phát lên cổ phần và cổ phiếu, theo đó, thể hiện ở nhiều chừng mực khác nhau và rất phức tạp. Khái quát có thể nên biết rằng các trái phiếu càng dài hạn càng bị mất giá nhiều hơn loại ngắn hạn, các cổ phần thuộc về các công ty tiện ích có thể bất lợi vì không dễ tăng giá, cổ phần ưu đãi bị mất giá nhiều so với cổ phần thường, Rủi ro bị cụt vốn: Nhà đầu tư – đặc biệt là trong TTCK- có thể bị mất một phần hoặc toàn bộ vốn đã bỏ ra do tiên đoán trật, hoặc do những hoàn cảnh bất lợi ập đến từ bên ngoài chứ không phải vì sức khoẻ công ty. Ví dụ một ảnh hưởng tâm lý xa lánh, tẩy chay đối với một sản phẩm hay ngành sản xuất, sự thay đổi tập quán tiêu dùng, Rủi ro do chọn nhầm đối tượng: Người ta vẫn có thể bị lầm lẫn trước một quyết định tồi, ngay cả khi mọi thứ đã bày công khai ra trước mắt. Sự chủ quan hoặc hời hợt có thể cũng xui khiến ta làm sai mong đợi. Đó là lúc người đầu tư quyết định khi mua phải một loại chứng khoán không sinh lợi hoặc thậm chí lỗ. Rủi ro do bất phùng thời: Mua hoặc bán cổ phần hoặc chứng khoán sai thời điểm cũng được xem là một rủi ro vì nó có thể dẫn đến lỗ lã hoặc bị hớ giá mất ăn. Bán quá bèo hoặc mua quá cao ngay ở các ngưỡng biến động có khi là một thiệt hại đáng kể. Rủi ro về lãi suất: Người ta còn gọi đây là rủi ro mất khả năng tái đầu tư. Loại rủi ro này thường xảy ra đối với người đầu tư vào chứng khoán có thu nhập đều đặn, do họ không thể dùng tiền lãi hoặc tiền gốc để mua lại loại chứng khoán cùng mức cũ. Khi lãi suất thị trường tăng, giá thị trường của các chứng khoán có thu nhập ổn định sẽ giảm. Các trái phiếu dài hạn và cổ phiếu ưu đãi bị rủi ro cao nhất do bị mất giá. Ngược lại các chứng khoán ngắn hạn, do sẽ được đáo hạn trong một thời gian ngắn, khả năng tái tạo nhanh, nên không bị ảnh hưởng nhiều so với biến động của lãi suất cổ phần thường cũng sẽ có biến động mặc dù mối liên hệ không có gì là rõ ràng. Rủi ro do biến động thị trường market risk: Là do áp lực của thị trường TTCK - làm cho giá trị đầu tư bị biến động xấu, bị sụt giảm một phần. Rủi ro này gây thiệt hại nhiều với các loại chứng khoán có độ biến động ví dụ hệ số biến động beta của Mỹ cao hơn trung bình, và thấp nhất đối với các loại chứng khoán ổn định, ví 36
- dụ trái phiếu kho bạc Nhà Nước. Tuy nhiên các rủi ro do biến động không gây tác hại đáng kể đối với những người đầu tư có ý định cầm giữ lâu dài. Rủi ro về tài chính: Đây là rủi ro trực tiếp và đôi khi thảm hại do công ty phát hành làm ăn thất bại hoặc phá sản, đe doạ người đầu tư thiệt hại một phần hoặc mất trọn số tiền đã bỏ ra mua chứng khoán. Rủi ro về khả năng thanh khoản: Khi người đầu tư muốn bán một lượng chứng khoán đang sở hữu, .không phải ông ta luôn luôn có thể thực hiện theo một thời điểm như ý mình. Đối với các chứng khoán có thị trường lạnh nhạt dễ gây khó khăn cho người đầu tư khi họ muốn thanh lý vị thế của mình. Hiện tượng “dội chợ” này được xem là một rủi ro vì muốn thanh lý có khi phải chịu một khoản giảm giá đáng kể. Rủi ro pháp chế: Sự thay đổi của luật pháp hiện hành có thể tác động xấu đến một số hoạt động đầu tư đang tồn tại. Sự thay đổi về chính sách của chính phủ cũng có thể là rủi ro của nhiều nhà đầu tư. Tuy nhiên, đây lại chính là công cụ điều hành vĩ mô của Nhà nước. Ngoài ra còn phải kể đến loại rủi ro do ảnh hưởng dây chuyền hoặc lây lan, ví dụ như các cơn trào khủng hoảng. Một sự kém hiệu quả của bộ máy và thị trường cũng có thể gây nên thiệt hại cho người đầu tư. Một thực tế có tính đúc kết là mua cổ phiếu của công ty vào thời điểm TTCK chuẩn bị ra đời thường rất dễ thắng. Bởi vì trong giai đoạn này chứng khoán ít, trong khi lượng cầu chứng khoán thì sẽ gia tăng liên tục trong một thời gian nhất định. Tuy nhiên người mua phải đủ sức cầm cự trong một thời gian có thể dài. Những biến động bất lợi đoản kỳ chưa phải là chiều hướng xác quyết của một loại cổ phiếu nào đó. Như ta đã phân tích loại rủi ro do chọn sai thời điểm - ví dụ cần tiền bán quá sớm - có thể gây thiệt hại đáng kể. Vậy ta tạm mượn "niệm khúc" của dân "xoè" để ví von minh hoạ: "cờ bạc ăn về sáng" là vậy. Một đặc điểm khác cũng cần nêu để người mua chứng khoán tham khảo, đó là mua cổ phiếu mà chỉ nghĩ tới cổ tức cao thấp thôi thì chưa phải là dân chơi! Làm chủ ai lại đi đòi hưởng "lương"!. Cổ tức chẳng qua chỉ là một dạng "sinh hoạt phí". Phần thưởng do đầu tư mang lại nằm chủ yếu ở giá trị gia tăng. Nhưng khoản này lại không thể nào có sớm được trong vài ba năm đầu đối với 1 doanh nghiệp mới được tạo lập hoặc tái cấu trúc. 37
- Cũng cần xác định bản lĩnh cho một chuyến về không hoặc may mắn hơn chỉ vớt vát "đủ trả tiền xe", chữ "ngờ" thật khó học, cho nên mới luôn có kẻ khóc người cười. Chẳng hạn vụ bò điên làm ngành công nghiệp chăn nuôi và chế biến thịt bò bên Anh điêu đứng, những tay kếch xù nhanh chóng bị mất trắng, thì ngược lại, một số ông chủ cà tàng nuôi đà điểu có thể bỗng chốc lên hương, đơn giản từ một nhận định có tính tình thế đăng trên báo: thịt đà điểu thay thịt bò! Mua cổ phần là một hoạt động đầu tư trực tiếp. Đó là kết quả của một chuỗi tìm hiểu, cân nhắc và suy tính, gồm cả động tác sờ lại túi mình. Không nên quyết định như đi mua trứng cút. Ai muốn "cho khoẻ" thì đi gởi tiết kiệm. Hoặc có máu đầu tư mà ghét suy nghĩ "rắc rối quá" thì nên nhờ đến các nhà phân tích và cố vấn đầu tư. Và hãy thử, ngay trong các đợt cổ phần hoá rầm rộ, quý vị tham khảo xem sẽ quyết định thế nào để có dịp sử dụng những đồng tiền còn ướt mồ hôi của mình một cách hiệu quả nhất. Rủi ro trong đầu tư chứng khoán: Rủi ro là gì? Rủi ro trong đầu tư chứng khoán được định nghĩa là sự dao động của lợi nhuận. Dao động càng cao thì rủi ro càng cao và ngược lại. Nguyên nhân của rủi ro: Chúng ta biết rằng sự dao động của thu nhập, dao động của giá chứng khoán hay cổ tức lãi suất là những yếu tố gây ra rủi ro. Một số rủi ro nằm ngoài sự kiểm soát của công ty phát hành và ảnh hưởng đến một số lượng lớn chứng khoán. Một số rủi ro phát sinh từ nội tại của công ty và công ty có thế kiểm soát ở mức tương đối. Trong đầu tư, những rủi ro do các yếu tố nằm ngoài công ty, không kiểm soát được và có ảnh hưởng rộng rãi đến cả thị trường và tất cả mọi loại chứng khoán được gọi là rủi ro hệ thống. Ngược lại, những rủi ro do các yếu tố nội tại gây ra, nó có thể kiểm soát được và chỉ tác động đến một ngành hay tới một công ty, một hoặc một số chứng khoán, gọi là rủi ro không hệ thống. Rủi ro hệ thống ảnh hưởng đến giá của tất cả các loại chứng khoán. Những thay đổi về kinh tế, chính trị, xã hội và những yếu tố tạo ra rủi ro hệ thống. Rủi ro không hệ thống do các yếu tố như khả năng quản lý, thị hiếu tiêu dùng, đình công hay những yếu tố khác gắn với những thay đổi trong thu nhập của một công ty gây ra. Các yếu tố rủi ro không hệ thống thường độc lập với các yếu tố rủi ro liên quan đến toàn bộ thị trường nói chung. Do những rủi ro này thường 38
- ảnh hưởng đến một công ty cụ thể nên nó phải được xem xét cho từng công ty một cách riêng biệt. Những công ty chịu ảnh hưởng cao của rủi ro hệ thống là những công ty mà doanh số, lợi nhuận và giá chứng khoán thường theo sát các diễn biến kinh tế và những diễn biến trên thị trường chứng khoán. Phần lớn các công ty trong những ngành công nghiệp cơ bản và khai khoáng, những ngành có định phí lớn thì chịu ảnh hưởng nhiều của các loại rủi ro này. Trong các ngành công nghiệp, người ta thấy những ngành liên quan đến sản xuất ô tô chịu ảnh hưởng rất cao của rủi ro hệ thống, đó là những ngành: thép, cao su, kính,. Các công ty trong lĩnh vực sản xuất hàng tiêu dùng, định phí bé thường có rủi ro không hệ thống cao hơn. Ví dụ như những công ty cung cấp nhu yếu phẩm như điện thoại, năng lượng, dệt, thực phẩm. Doanh số, lợi nhuận và giá cả cổ phiếu của những công ty này không phụ thuộc nhiều vào các diễn biến kinh tế hay tình hình chung của thị trường chứng khoán. Rủi ro hệ thống và rủi ro không hệ thống lại có thể chia nhỏ thành các rủi ro khác nhau. Rủi ro hệ thống đổi với trái phiếu nói chung thường được xác định là rủi ro về lãi suất; đối với cổ phiếu gọi là rủi ro thị trường. Đối với chứng khoán nói chung, có thể có thêm rủi ro về sức mua. Có thể chia rủi ro không hệ thống thành rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính. Rủi ro hệ thống Rủi ro thị trường Giá cả cổ phiếu có thể dao động mạnh trong một khoảng thời gian ngắn mặc dù thu nhập của công ty vẫn không thay đổi. Nguyên nhân của nó có thế rất khác nhau nhưng phụ thuộc chủ yếu vào cách nhìn nhận của các nhà đầu tư về các loại cổ phiếu nói chung hay về một nhóm các cổ phiếu nói riêng. Những thay đổi trong mức sinh lời đối với phần lớn các loại cổ phiếu thường chủ yếu là do sự hy vọng của các nhà đầu tư vào nó thay đổi và gọi là rủi ro thị trường. Rủi ro thị trường xuất hiện do có những phản ứng của các nhà đầu tư đối với những sự kiện hữu hình hay vô hình. Sự chờ đợi đối với chiều hướng sụt giảm lợi nhuận của các công ty nói chung có thể là nguyên nhân làm cho phần lớn các 39
- loại cổ phiếu thường bị giảm giá. Các nhà đầu tư thường phản ứng dựa trên cơ sở các sự kiện thực, hữu hình như các sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội. Các sự kiện vô hình là các sự kiện nảy sinh do yếu tố tâm lý của thị trường. Rủi ro thị trường thường xuất phát từ những sự kiện hữu hình, nhưng do tâm lý không vững vàng của các nhà đầu tư nên họ hay có phản ứng vượt quá các sự kiện đó. Những sự sút giảm đầu tiên trên thị trường là nguyên nhân gây sợ hãi đối với các nhà đầu tư và họ sẽ cố gắng rút vốn. Những phản ứng dây chuyền làm tăng vượt số lượng bán, giá cả chứng khoán sẽ rơi xuống thấp so với giá trị cơ sở. Chúng ta đã nói nhiều về tác động tiêu cực, tuy nhiên vẫn có thể có hiệu tượng mua vào rất nhiều khi có những sự kiện bất thường xẩy ra, lúc đó giá cả chứng khoán sẽ tăng lên. Rủi ro lãi suất Rủi ro lãi suất nói đến sự không ổn định trong giá trị thị trường và số tiền thu nhập trong tương lai, nguyên nhân là dao động trong mức lãi suất chung. Nguyên nhân cốt lõi của rủi ro lãi suất là sự lên xuống của lãi suất Trái phiếu Chính phủ, khi đó sẽ có sự thay đổi trong mức sinh lời kỳ vọng của các loại chứng khoán khác, đó là các loại cổ phiếu và trái phiếu công ty. Nói cách khác, chi phí vay vốn đối với các loại chứng khoán không rủi ro chứng khoán Chính phủ sẽ dẫn đến sự thay đổi về chi phí vay vốn của các loại chứng khoán có rủi ro chứng khoán công ty. Các nhà đầu tư thường coi trái phiếu Chính phủ là không rủi ro. Lãi suất của trái phiếu Chính phủ được coi là lãi suất chuẩn, là mức phí vay vốn không rủi ro. Những thay đổi trong lãi suất trái phiếu Chính phủ sẽ làm ảnh hưởng tới toàn bộ hệ thống chứng khoán, từ trái phiếu cho đến các loại cổ phiếu rủi ro nhất. Lãi suất trái phiếu Chính phủ cũng thay đổi theo cung cầu trên thị trường. Ví dụ, khi ngân sách thâm hụt thì Chính phủ sẽ phát hành thêm chứng khoán đế bù đắp, như vậy sẽ làm tăng mức cung chứng khoán trên thị trường. Các nhà đầu tư tiềm năng sẽ chỉ mua các trái phiếu này nếu lãi suất cao hơn lãi suất các loại chứng khoán đang được lưu hành. Nếu giả sử, lãi suất trái phiếu chính phủ tăng từ 12 lên 12,5% thì những người đang nắm giữ trái phiếu có lãi suất 12% sẽ bị thiệt hại 40
- do giá chứng khoán giảm xuống. Vì lãi suất đã cố định là 12% ngay từ lúc phát hành nên những người nắm giữ chứng khoán chỉ có thể bán được nếu họ chịu giảm giá xuống tới mức đảm bảo cho lãi suất đáo hạn của những trái phiếu này đạt được mức 12,5%. Do lãi suất trái phiếu Chính phủ tăng, nó sẽ trở nên hấp dẫn hơn và các loại chứng khoán khác sẽ bị kém hấp dẫn đi. Hệ quả là, những người mua trái phiếu sẽ mua trái phiếu Chính phủ thay vì trái phiếu công ty, và do vậy lãi suất trái phiếu công ty cũng phải tăng lên. Lãi suất trái phiếu công ty tăng sẽ dẫn đến giá của các loại cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi giảm xuống như một phản ứng dây chuyền. Như vậy, ta thấy có một cơ cấu hợp lý về lãi suất do các loại công cụ có liên hệ với nhau. Sự tăng lên của lãi suất chuẩn sẽ làm ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống. Hệ quả trực tiếp của việc tăng lãi suất chuẩn là giá cả của các loại chứng khoán khác giảm xuống. Tương tự, lãi suất chuẩn giảm lại làm cho giá của các loại chứng khoán tăng lên. Ngoài hệ quả trực tiếp đối với giá chứng khoán, lãi suất chuẩn còn có ảnh hưởng gián tiếp đến giá cổ phiếu thường. Thứ nhất, lãi suất chuẩn tăng hay giảm sẽ làm cho các giao dịch ký quỹ kém hấp dẫn đi hay hấp dẫn hơn. Thí dụ, khi lãi suất tăng sẽ làm giá cổ phiếu giảm vì các nhà đầu cơ bằng hình thức vay mua ký quỹ cảm thấy việc mua bán kém hấp dẫn hơn. Thứ hai, rất nhiều công ty kinh doanh chủ yếu bằng vốn đi vay. Nhiều công ty khác, ví dụ các tổ chức tài chính, tham gia vào các hoạt động cho vay khi lãi suất tăng, các công ty vay nợ nhiều sẽ phải trích từ thu nhập của mình nhiều hơn để trả lãi, dẫn đến sự sút giảm thu nhập, cổ tức và giá cổ phiếu. Việc tăng lãi suất lại mang đến thu nhập cao hơn cho những người cho vay do nguồn thu chính của họ là lãi thu được từ các khoản cho vay. Đối với những công ty này thu nhập tăng lại làm cho cổ tức và giá cổ phiếu của nó tăng. Rủi ro sức mua Rủi ro thị trường và rủi ro lãi suất có thể được định nghĩa là những biến cố về số tiền thu được hiện nay của nhà đầu tư. Rủi ro sức mua là biến cố của sức mua của đồng tiền thu được. Rủi ro sức mua là tác động của lạm phát đối với khoản đầu tư. 41
- Nếu chúng ta coi khoản đầu tư là một khoản tiêu dùng ngay, ta có thể thấy rằng khi một người mua cổ phiếu, anh ta đã bỏ mất cơ hội mua hàng hoá hay dịch vụ trong thời gian sở hữu cổ phiếu đó. Nếu, trong khoảng thời gian nắm giữ cổ phiếu đó, giá cả hàng hoá dịch vụ tăng, các nhà đầu tư đã bị mất một phần sức mua. Giá cả hàng hoá và dịch vụ tăng gọi là lạm phát, giá cả hàng hoá giảm gọi là giảm phát. Cả lạm phát và giảm phát đều liên quan đến khái niệm rủi ro sức mua. Nói chung, rủi ro sức mua thị trường đi kèm với lạm phát, hiện tượng giảm phát ở các nước hiếm khi xảy ra. Nguyên nhân chính của lạm phát là do giá thành sản phẩm và nhu cầu về hàng hoá, dịch vụ tăng so với mức cung. Lạm phát tăng là do nhu cầu tăng lên khi nền kinh tế có nhiều công ăn việc làm hơn. Tại lúc này, mức cung không tăng kịp cho đến khi sản xuất được mở rộng. Với nhu cầu nhiều lên, các loại hàng hoá và dịch vụ sẽ phải được phân bổ theo một mức giá nào đó tăng lên mà làm cho cung cầu cân bằng tại đó. Lạm phát do tăng giá thành phẩm: Giá nguyên vật liệu và tiền công tăng lên, các nhà sản xuất cố gắng bù đắp lại bằng cách tăng giá cả hàng hoá. Trong một môi trường kinh tế có nhiều công ăn việc làm, tiền công được trả cao thì giá cả hàng hoá sẽ tăng, ngược lại giá cả hàng hoá tăng cũng đòi hỏi tiền công tăng lên, chu trình này cứ lặp đi lặp lại. Ta đã nói rủi ro sức mua thường đi kèm với sự thay đổi giá hàng hoá, dịch vụ thì câu hỏi đặt ra là sự thay đổi giá những hàng hoá cụ thể nào sẽ được coi là thước đo tính lạm phát. Thức đo thông dụng nhất sử dụng để xác định mức thay đổi giá cả hàng hoá, dịch vụ là chỉ số giá hàng tiêu dùng. Chỉ số này sử dụng một số loại hàng hoá và dịch vụ để tính toán, gồm thức ăn, đồ dùng và rất nhiều các loại dịch vụ, từ y tế đến tiền học để tính toán. Các nhà đầu tư cần tính kèm cả lạm phát vào thu nhập kỳ vòng để bù đắp rủi ro sức mua, mức này được đo bằng % biến động giá. Nếu như chỉ số hàng tiêu dùng là 100 vào đầu năm và cuối năm là 103 thì ta nói lạm phát là 3%. Nếu từ năm thứ 2 đến năm thứ 3, chỉ số biến động từ 103 lên 109 thì tỷ lệ lạm phát sẽ vào khoảng 5,8% [1 09-103/103]. Sự cần thiết phải điều chỉnh thu nhập kỳ vọng theo những biến động giá cả có thể chứng minh bằng ví dụ đơn giản sau. Giả sử bạn vay 100 đồng ngày hôm nay và hứa trả 105 đồng vào cuối năm, lãi suất là 5%. Tuy nhiên nếu giá cả trong năm 42
- tăng lên tới 6%, khi đó 105 đồng nhận được vào cuối năm sẽ chỉ có sức mua bằng khoảng 98 đồng so với đầu năm. Như vậy, bạn phải cộng thêm tỷ lệ lạm phát vào lãi suất, tức là 11% để cuối năm bạn nhận được lãi suất thực là 5%. Cũng giống như lãi suất có ảnh hưởng đến giá của tất cả các loại chứng khoán, sự thay đổi sức mua cũng làm ảnh hưởng đến chúng. Nếu chỉ số giá hàng tiêu dùng vào khoảng 8% hàng năm và năm sau dự kiến là 9% thì mức thu nhập đối với chứng khoán cũng đòi hỏi phải tăng lên. Điều đó sẽ tác động đến giá của các loại trái phiếu Chính phủ, trái phiếu và cổ phiếu công ty. Rủi ro không hệ thống Rủi ro không hệ thống là một phần trong tổng rủi ro gắn liền với một công ty hay một ngành công nghiệp cụ thể nào đó, ngoài những rủi ro gắn liền với toàn bộ thị trường. Những yếu tố này có thể là khả năng quản lý, thị hiếu tiêu dùng, đình công và nhiều yếu tố khác là nguyên nhân gây ra sự thay đổi trong thu nhập từ cổ phiếu công ty. Do những yếu tố này chỉ ảnh hưởng tới một ngành hay một công ty cụ thể nên chúng phải được xem xét cho từng công ty. Sự không chắc chắn đối với khả năng thanh toán của công ty có thể là do 1 môi trường của hoạt động kinh doanh và 2 tình trạng tài chính của công ty. Những rủi ro này có thể gọi là rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính. Ở đây, chúng ta sẽ chỉ ra những khía cạnh chung về rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính. Rủi ro kinh doanh Rủi ro kinh doanh là do tình trạng hoạt động của công ty, khi có những thay đổi trong tình trạng này công ty có thể sẽ bị sút giảm lợi nhuận và cổ tức. Nói cách khác, nếu lợi nhuận dự kiến tăng 10% hàng năm trong những năm tiếp theo, rủi ro kinh doanh sẽ cao hơn nếu như lợi nhuận tăng tới 14% hay giảm xuống 6% so với lợi nhuận nằm trong khoảng 11-9%. Mức độ thay đổi so với xu hướng dự kiến được coi là rủi ro kinh doanh. Rủi ro kinh doanh có thể được chia làm hai loại cơ bản: Bên ngoài và nội tại. Rủi ro kinh doanh nội tại phát sinh trong quá trình vận hành hoạt động của công ty. Mỗi công ty có một loại rủi ro nội tại riêng và mức độ thành công của mỗi công ty thể hiện qua hiệu quả hoạt động. 43
- Trong phạm vi rộng hơn, rủi ro kinh doanh bên ngoài là những trường hợp xảy ra nằm ngoài sự kiểm soát của công ty và làm ảnh hưởng đến tình trạng hoạt động của công ty. Mỗi công ty có một kiểu rủi ro bên ngoài riêng, phụ thuộc vào các yếu tố môi trường kinh doanh cụ thể của công ty. Các yếu tố bên ngoài, từ chi phí tiền vay đến sự cắt giảm ngân sách, từ mức thuế nhập khẩu tăng đến sự suy thoái của chu kỳ kinh doanh. , và có lẽ yếu tố quan trọng nhất là chu kỳ kinh doanh. Doanh số của một số ngành công nghiệp thép, ô tô có xu hướng bám sát chu kỳ kinh doanh trong khi doanh số của một số ngành khác lại có xu hướng đi ngược lại nhà cửa. Dân số cũng có thể làm ảnh hưởng đến thu nhập thông qua những thay đổi về lứa tuổi, giới tính, sự phân bố theo địa dư. Các chính sách chính trị cũng là một phần của rủi ro bên ngoài, các chính sách tiền tệ và tài khoá có thể làm ảnh hưởng đến thu nhập thông qua tác động về chi phí và nguồn vốn. Nếu giá trị của đồng tiền càng cao thì những người mua trả góp sẽ hoãn mua và các chính quyền địa phương sẽ không bán trái phiếu để tài trợ cho các dự án cấp nước. Tình hình kinh tế chung cũng có ảnh hưởng đến mức thu nhập chung. Đây là tác động bên ngoài hay gọi là rủi ro. Nhưng, đứng tại giác độ rủi ro nội tại, công ty có thể điều chỉnh chu kỳ kinh doanh như thế nào? Nếu chúng ta tách chi phí hoạt động ra làm chi phí bất biến và chi phí khả biến, chúng ta sẽ thấy rằng khi thu nhập thay đổi, nếu chi phí bất biến chiếm một phần quan trọng trong tổng chi phí, công ty sẽ rất khó cắt giảm chi phí khi kinh tế suy thoái và nó cũng rất chậm chạp trong việc đáp ứng nhu cầu vào lúc kinh tế tăng trưởng. Những công ty như vậy có rủi ro nội tại lớn do khả năng đáp ứng không nhanh những thay đổi trong tình hình kinh doanh. Mặt khác, nếu tổng thu nhập là từ một loạt các loạt sản phẩm, chúng ta thấy rõ ràng là các sản phẩm sẽ không bị biến động theo cùng một chu kỳ kinh doanh, không bị biến động cùng mức độ và cùng thời gian. Trong phạm vi này, rủi ro nội tại được giảm xuống do sự trải rộng về sản phẩm hay loại sản phẩm. Phạm vi của những thay đổi lên xuống trong tổng thu nhập dẫn đến sự thay đổi trong lợi nhuận có thể được gọi là rủi ro nội tại. Nếu có một sự sụt giảm trong thu nhập từ một loại sản phẩm có thể được bù đắp bằng một loại sản phẩm khác, làm cho tổng thu nhập không thay đổi thì có thể coi là công ty đã sử dụng việc đa dạng hoá sản phẩm để bảo vệ mình chống lại rủi ro kinh doanh. Sự sút giảm về thu nhập có thể giảm thiểu trong tác động vào lợi nhuận thông qua sự cắt giảm chi phí và sản xuất. 44
- Rủi ro tài chính Rủi ro tài chính liên quan đến việc công ty tài trợ cho hoạt động của mình. Người ta thường tính toán rủi ro tài chính bằng việc xem xét cấu trúc vốn của một công ty. Sự xuất hiện của các khoản nợ trong cấu trúc vốn sẽ tạo ra cho công ty những nghĩa vụ trả lãi. Và vì những nghĩa vụ trả lãi này phải được thanh toán cho công ty trước khi kinh doanh cổ tức cho cổ phiếu thường nên nó có tác động lớn đến cổ tức. Rủi ro tài chính là rủi ro có thể tránh được trong phạm vi mà các nhà quản lý có toàn quyền quyết định vay hay không vay. Một công ty không vay nợ chút nào sẽ không có rủi ro tài chính. Bằng việc đi vay, công ty đã thay đổi dòng thu nhập đối với cổ phiếu thường. Cụ thể là, việc sử dụng hệ số đòn bẩy tỷ lệ vay nợ có 3 hệ quả quan trọng đối với những người nắm giữ cổ phiếu thường, đó là 1 làm tăng mức biến động trong thu nhập của họ, 2 ảnh hưởng đến dự kiến của họ về thu nhập, và 3 làm tăng rủi ro của họ. Giả sử chúng ta có hai công ty có hoạt động kinh doanh như nhau, chỉ khác nhau về cơ cấu vốn: Công ty C, nguồn vốn hoàn toàn từ 1 triệu cổ phiếu thường, bán với giá 20 đôla/1cổ phiếu. Công ty khác, công ty D, có nguồn một nửa là từ cổ phiếu thường 500.000 cổ phiếu, bán với giá 20 đô la/ cổ phiếu và một nửa là từ vay nợ 10 triệu USD với lãi vay là 5%. Như vậy, tài sản có của mỗi công ty là 20 triệu USD, dự kiến sẽ có lợi nhuận 1 triệu USD, hay là 5% trên tổng tài sản. Chúng ta giả sử rằng không có thuế thu nhập công ty. Thu nhập 1 triệu USD có thể dễ dàng chuyển đổi sang thu nhập cho mỗi cổ phiếu. Công ty C sẽ có lãi 1 đô la/1 cổ phiếu. Công ty D phải trả lãi 500.000 đô la 10 triệu x 5% và phần còn lại chia cho cổ phiếu cũng được lãi 1 đô la/1cổ phiếu. Tại điểm này, cả hai công ty đều có mức thu nhập trên cổ phiếu là 1 đô la. Như vậy ta không thấy có hệ quả của việc vay nợ đối với thu nhập của cổ đông. Chúng ta sẽ xem xét hệ quả của việc vay nợ đối với cả hai công ty trong một năm kinh doanh tốt và một năm kinh doanh xấu, khi thu nhập tăng lên 50% hay giảm đi 50%, như trong bảng sau: Chỉ tiêu Năm tốt Năm xấu Mức thu nhập trên tài 7.5% 2.5% sản 1.5 triệu 5 triệu 45
- Lợi nhuận Lợi nhuận trên 1 cổ 1.5 đôla 0.5 đôla phiếu: 2.0 đôla 0.0 đôla Công ty C Công ty D Chúng ta nhớ lại rằng mỗi công ty có lãi 1 cổ phiếu là 1 đô la. Do vậy, 50% tăng lên trong thu nhập từ 1 triệu lên 1,5 triệu sẽ làm tăng 50% tăng lên trong thu nhập của mỗi cổ phiếu công ty C và 100% đối với công ty D. Trong trường hợp của công ty D, ảnh hưởng được nhân lên vì những người cho vay chỉ được hưởng lãi suất 5% trên số tiền cho vay, bất kể tình hình hoạt động của công ty tốt hay xấu. Do vậy, cổ đông của các công ty có vay nợ như công ty D sẽ được hưởng nhiều hơn khi tình hình kinh doanh tốt lên. Ngược lại, 50% giảm trong thu nhập từ một triệu đô la xuống 500.000 đô la sẽ làm cho lợi nhuận trên 1 cổ phiếu của công ty C giảm xuống 50% từ 1 đô la xuống 0.5 đô la nhưng lợi nhuận trên một cổ phiếu của Công ty D sẽ giảm từ 1 xuống 0. Ta có thể dễ dàng thấy rằng khi lợi nhuận tụt xuống còn 500.000 đô la, thu nhập trên tài sản chỉ còn 2,5%, nhưng những người cho vay vẫn được hưởng 5% lãi suất thì sự chênh lệch này sẽ phải được bù đắp bằng việc giảm lợi nhuận của cổ đông nắm giữ cổ phiếu thường. Rủi ro của các cổ đông có thể được xem xét một cách đơn giản. Nếu Công ty có tỷ lệ thu nhập âm trong một vài năm thì vốn cổ phần có thể sẽ biến mất. Công ty C vẫn có lợi nhuận mỗi cổ phần là 0,5 đô la khi thu nhập trên tổng tài sản là 2,5%, nhưng Công ty D thì con số này bằng không. Như vậy điều gì sẽ xảy ra nếu tỷ lệ thu nhập trên tổng tài sản bằng 0? Công ty C sẽ có lợi nhuận cho mỗi cổ phần bằng 0 còn Công ty D thì mỗi cổ phần lỗ 0,5 đô la do phải trả lãi vay. Tỷ lệ thu nhập trên tổng tài sản âm sẽ có tác động rất lớn. Ví dụ: một tỷ lệ thu nhập trên tổng tài sản bằng - 4% sẽ được nhân lên thành - 22% lỗ trên vốn cổ phần đối với Công ty D. Nếu trong vòng vài năm cứ như vậy thì vốn cổ phần sẽ dần dần biến mất. Rủi ro phá sản của Công ty tỷ lệ thuận với mức độ sử dụng hệ số đòn bẩy tài chính hay rủi ro tài chính. Xác định mức bù rủi ro Một trong những phương pháp định lượng rủi ro và xác định mức sinh lời yêu cầu là sử dụng mức lãi suất không rủi ro cộng với mức bù của từng rủi ro một: 46