Khóa luận Hủng hoảng khu vực đồng tiền chung châu Âu và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc kiểm soát nguy cơ khủng hoảng nợ

pdf 91 trang hapham 2600
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Hủng hoảng khu vực đồng tiền chung châu Âu và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc kiểm soát nguy cơ khủng hoảng nợ", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_hung_hoang_khu_vuc_dong_tien_chung_chau_au_va_bai.pdf

Nội dung text: Khóa luận Hủng hoảng khu vực đồng tiền chung châu Âu và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc kiểm soát nguy cơ khủng hoảng nợ

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP Chuyên ngành: Ngân hàng KHỦNG HOẢNG KHU VỰC ĐỒNG TIỀN CHUNG CHÂU ÂU VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM TRONG VIỆC KIỂM SOÁT NGUY CƠ KHỦNG HOẢNG NỢ Họ và tên sinh viên : Hà Thu Trang Mã sinh viên : 0853030177 Lớp : Anh 2 - Khối 1 TC Khóa : 47 Người hướng dẫn khoa học : ThS. Trần Ngọc Hà Hà Nội, tháng 5 năm 2012
  2. MỤC LỤC DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT DANH MỤC BẢNG BIỂU LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NỢ CÔNG 3 1.1. Khái niệm và đặc điểm của khủng hoảng nợ công 3 1.1.1. Khái niệm nợ công và khủng hoảng nợ công 3 1.1.1.1. Khái niệm nợ công 3 1.1.1.2. Khái niệm khủng hoảng nợ công 8 1.1.2. Đặc điểm của khủng hoảng nợ công 9 1.2. Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng nợ công 10 1.2.1. Thâm hụt ngân sách nhà nước 11 1.2.1.1. Sự gia tăng mạnh trong chi tiêu từ ngân sách của chính phủ 11 1.2.1.2.Các nguồn thu cho ngân sách nhà nước tăng chậm hơn nhu cầu chi. 12 1.2.2. Hiệu quả sử dụng vốn vay thấp 13 1.2.3.Sự thiếu minh bạch về quản lý nợ công 14 1.3. Tác động của khủng hoảng nợ công đối với nền kinh tế 15 1.3.1.Tác động đến các chỉ số kinh tế vĩ mô 15 1.3.1.1. Lạm phát 15 1.3.1.2.Tốc độ tăng trưởng GDP 16 1.3.1.3. Đầu tư quốc tế 17 1.3.1.4. Xuất nhập khẩu 18 1.3.2.Tác động đến hệ thống tài chính 19 1.3.2.1.Tăng trưởng tín dụng 19 1.3.2.2.Thị trường chứng khoán 20 1.3.2.3.Thị trường bất động sản 22 1.3.3. Tác động lên các lĩnh vực khác 22 1.3.3.1. Đời sống xã hội 22
  3. 1.3.3.2. Lĩnh vực khác 23 CHƯƠNG 2 : KHỦNG HOẢNG KHU VỰC ĐỒNG TIỀN CHUNG CHÂU ÂU 25 2.1. Diễn biến của khủng hoảng nợ công Châu Âu 25 2.1.1.Giai đoạn trước khủng hoảng nợ công 2010 25 2.1.1.1.Tình hình phát triển kinh tế từ năm 2002 đến 2009 25 2.1.1.2. Những dấu hiệu của khủng hoảng nợ công Châu Âu 2010 27 2.1.2. Giai đoạn khi khủng hoảng nợ công 2010 bùng nổ đến nay 30 2.1.2.1. Khủng hoảng nợ công tại Hy Lạp 31 2.1.2.2.Ireland 33 2.1.2.3. Tây Ban Nha 36 2.1.2.4. Một số nước khác 37 2.2. Nguyên nhân của khủng hoảng nợ công Châu Âu 2010 39 2.2.1. Nguyên nhân chủ quan 39 2.2.1.1.Cơ chế quản lý các thành viên lỏng lẻo 39 2.2.1.2. Thâm hụt ngân sách 40 2.2.1.3. Đầu tư kém hiệu quả 42 2.2.1.4.Quản lý nợ công kém hiệu quả 43 2.2.2.Nguyên nhân khách quan 44 2.2.2.1. Điều kiện tín dụng dễ dàng 44 2.2.2.2. Ảnh hưởng từ khủng hoảng kinh tế thế giới 2008 45 2.3.Tác động của khủng hoảng nợ công Châu Âu 45 2.3.1. Đối với các quốc gia thành viên 45 2.3.1.1. Khủng hoảng hệ thống ngân hàng 45 2.3.1.2. Sự mất lòng tin của nhà đầu tư vào hệ thống tài chính 48 2.3.1.3. Sự trượt giá của đồng Euro so với các đồng tiền khác 49 2.3.1.4. Đời sống xã hội 49
  4. 2.3.2. Đối với thế giới 50 2.3.2.1. Hoạt động xuất nhập khẩu 50 2.3.2.2.Hoạt động đầu tư nước ngoài 51 2.3.2.3. Hoạt động sát nhập và mua lại ( M&A) 51 2.3.3.Đối với Việt Nam 52 2.3.3.1.Xuất nhập khẩu 52 2.3.3.2. Dòng vốn đầu tư vào Việt Nam 53 2.3.3.3.Tỷ giá hối đoái 54 2.3.3.4.Thị trường chứng khoán 55 2.4. Các biện pháp khắc phục hậu quả khủng hoảng nợ công Châu Âu 2010 55 2.4.1. Đối với các quốc gia thành viên 55 2.4.1.1.Tăng cường hoạt động trên thị trường mở 55 2.4.1.2.Chính sách thắt chặt chi tiêu 56 2.4.1.3.Giải quyết bất ổn trong ngành ngân hàng 56 2.4.2. Đối với các quốc gia thành viên 57 2.4.2.1. Hỗ trợ của IMF và EU 57 2.4.2.2.Hỗ trợ từ các nước lớn 57 CHƯƠNG 3: BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM TRONG VIỆC KIỂM SOÁT NGUY CƠ KHỦNG HOẢNG NỢ 59 3.1. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu 2010 59 3.1.1. Duy trì tính ổn định của nền kinh tế vĩ mô 59 3.1.1.1. Kiềm chế lạm phát 59 3.1.1.2. Giữ mức tăng trưởng ổn định 60 3.1.1.3. Minh bạch tài chính công 60 3.1.2.Thắt chặt hoạt động tài khóa 61 3.1.2.1. Kiểm soát và quản lý nợ công 61 3.1.2.2. Đầu tư hợp lý và hiệu quả 62
  5. 3.1.3. Quản lý chặt chẽ hệ thống ngân hàng 62 3.1.3.1. Kiểm soát hoạt động tín dụng 62 3.1.3.2.Thiết lập cơ cấu phục hồi tối đa nợ xấu 63 3.2. Thực trạng nợ công của Việt Nam 63 3.2.1. Nợ công của Việt Nam trong thời gian qua 63 3.2.1.1. Tỷ lệ nợ công 63 3.2.1.2.Vấn đề sử dụng nguồn vốn đi vay 70 3.2.2. Đánh giá thực trạng quản lý nợ công của Việt Nam 71 3.2.2.1.Ưu điểm 71 3.2.2.2.Nhược điểm và nguyên nhân 72 3.3. Một số giải pháp để kiểm soát nguy cơ khủng hoảng nợ công tại Việt Nam 73 3.3.1.Tăng cường quản lý nhà nước về nợ công 73 3.3.1.1.Xây dựng chính sách vay nợ công hợp lý 74 3.3.1.2. Đảm bảo tính bền vững trong quy mô và tốc độ tăng trưởng hợp lý 75 3.3.1.3. Kiểm soát chặt chẽ và hiệu quả việc sử dụng các khoản nợ công 75 3.3.2. Đảm bảo chính sách tài khóa bền vững 76 3.3.2.1.Trong ngắn hạn 76 3.3.2.2.Trong dài hạn 76 3.3.3.Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng 77 3.3.3.1. Quản lý nợ xấu ngân hàng 77 3.3.3.2. Mua lại và sáp nhập ngân hàng 78 KẾT LUẬN 82 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 83 PHỤ LỤC 84
  6. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ IMF Qũy tiền tệ quốc tế EUR Đồng tiền chung Châu Âu Euro USD Đô la Mỹ VND Việt Nam Đồng GBP Bảng Anh JPY Yên Nhật EU Liên minh Châu Âu Eurozone Các nước sử dụng đồng tiền chung Châu Âu ERM Hệ thống tỷ giá Châu Âu ECB Ngân hàng trung ương Châu Âu FED Cục dự trữ liên bang ICOR Hệ số sử dụng vốn ODA Hỗ trợ phát triển chính thức FDI Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
  7. DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ Bảng Bảng 2.1: Tăng trưởng GDP thực tế từ năm 2000 đến 2010 ( % thay đổi so với năm trước) 27 Bảng 2.2: Thâm hụt ngân sách và tỷ lệ nợ công ở một số quốc gia 31 Bảng 3.1: Cơ cấu nợ công Việt Nam từ 2006 đến 2011 68 Biểu đồ Hình 2.1: Tỷ lệ lạm phát tại eurozone từ 1999 đến 2010 28 Hình 2.2: Tỷ lệ thất nghiệp tại eurozone năm 2000 đến 2010 29 Hình 2.3: Tỷ lệ nợ công trên GDP của Hy Lạp từ 2009 đến 2011 33 Hình 2.4. Tỷ lệ nợ công trên GDP của Ireland từ 2009 đến 2011 36 Hình 2.5: Giá trị M&A toàn cầu từ năm 2000 đến năm 2010 52 Hình 2.6: Giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam vào EU 53 Hình 2.7: FDI từ EU vào Việt Nam và một số quốc gia thuộc ASEAN 54 Hình 2.8: Tỷ giá EUR/USD 55 Hình 3.1: Tăng trưởng GDP tại Việt Nam từ 2004 đến 2011 64 Hình 3.2: Tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam từ 2007 đến 2011 65 Hình 3.3:Cơ cấu nợ công Việt Nam từ năm 2006 đến 2010 66 Hình 3.4: Tỷ trọng nợ nước ngoài và nợ trong nước trong tổng nợ chính phủ 66 Hình 3.5: cơ cấu nợ Việt Nam năm 2011 67 Hình 3.6: Cơ cấu nợ trong nước và nước ngoài trong tổng nợ chính phủ năm 2011 67
  8. 1 LỜI MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Sự ra đời của đồng EURO là một bước ngoặt quan trọng đánh dấu sự thúc đẩy quá trình liên kết giữa các quốc gia Châu Âu về kinh tế chính trị, tiến tới một cộng đồng Châu Âu thống nhất về mọi mặt. Đồng tiền chung ra đời đã khẳng định được vị thế của nó trong việc hoàn thiện thị trường chung Châu Âu, góp phần xóa bỏ những hàng rào phi thuế quan còn lại, tác động tích cực đến kinh tế, tài chính, đầu tư của các quốc gia thành viên. Tuy nhiên, trong suốt hơn một thập kỉ tồn tại, đồng tiền chung Châu Âu cũng bộc lộ không ít yếu kém và có nguy cơ sụp đổ và nguy cơ này có thể trở thành hiện thực khi khủng hoảng nợ công đang lan ra. Nguyên nhân chính xuất phát từ các quốc gia trong khối eurozone với tỉ lệ nợ công cao khiến cho các nước này đang phải chống chọi với một cuộc khủng hoảng nợ công đang lan rộng và có thể vượt ra ngoài tầm kiểm soát. Sự đổ vỡ của đồng tiền chung có thể không kéo theo sự sụp đổ của EU nhưng cũng làm đảo lộn cán cân kinh tế chính trị và môi trường hòa bình của các quốc gia Châu Âu và rất có thể một cuộc suy thoái mới lại bắt đầu. Không những thế, sự sụp đổ của eurozone sẽ tạo ra một cú sốc lớn cho nền kinh tế toàn thế giới bởi mức độ liên kết tài chính, ngân hàng, đầu tư và thương mại ngày càng mạnh. Như vậy, nguy cơ sụp đổ đồng tiền chung Châu Âu xuất phát từ cuộc khủng hoảng nợ công đang lan rộng trong khối eurozone sẽ ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế toàn cầu. Vậy những biện pháp mà cộng đồng Châu Âu cũng như quốc tế đã thực hiện để cứu sống đồng euro cũng như vực dậy nền kinh tế thế giới sau cuộc khủng hoảng nợ công là gì? Liệu ASEAN có nên theo đuổi mô hình phát triển dựa trên đồng tiền chung. Những bài học mà Việt Nam rút ra được trong việc kiểm soát khủng hoảng nợ sẽ như thế nào? Tại Việt Nam, nợ công đã đáp ứng được nhu cầu bổ sung vốn và cân đối chi tiêu ngân sách nhà nước.Tình trạng nợ công của Việt Nam vẫn đang nằm trong giới hạn cho phép tuy nhiên không thể chỉ nhìn vào tỉ lệ nợ công so với GDP để đánh giá sự an toàn của nền kinh tế mà quan trọng là đánh giá dựa trên sức khỏe của nền kinh tế.
  9. 2 Trong những năm trở lại đây, tỉ lệ nợ công liên tục tăng làm cho yêu cầu nâng cao chất lượng quản lí nợ của Việt Nam cũng trở nên cấp thiết. Hơn nữa, cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu cũng có tác động lan truyền đến Việt Nam. Đứng trước những thách thức đó, Việt Nam nên áp dụng chính sách và biện pháp gì để ngăn chặn ảnh hưởng xấu của khủng hoảng nợ công Châu Âu đến Việt Nam cũng như kiểm soát khủng hoảng nợ công tại Việt Nam. 2. Đối tượng nghiên cứu Cuộc khủng hoảng nợ công ở Châu Âu đã diễn ra gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế trong khu vực cũng như trên toàn thế giới. Chính vì vậy, nguyên nhân, diễn biến của cuộc khủng hoảng là đối tượng nghiên cứu chính trong bài để từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. 3. Phạm vi nghiên cứu Các nước trong cộng đồng chung Châu Âu đặc biệt các nước có tỉ lệ nợ công cao.Thời gian nghiên cứu: cuộc khủng hoảng nợ công chính thức bùng nổ từ cuối năm 2009 nên đề tài sẽ tập trung nghiên cứu cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu từ thời điểm năm 2010 đến nay. 4. Mục tiêu nghiên cứu Mục đích nghiên cứu để tài là làm rõ cơ sở lí luận và thực tiễn về tác động của khủng hoảng nợ Châu Âu, rút ra bài học và đề xuất những giải pháp giúp Việt Nam kiểm soát khủng hoảng nợ. 5. Kết cấu của bài CHƯƠNG 1: Cơ sở lý luận về khủng hoảng nợ công CHƯƠNG 2: Khủng hoảng khu vực đồng tiền chung Châu Âu CHƯƠNG 3: Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc kiểm soát nguy cơ khủng hoảng nợ.
  10. 3 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NỢ CÔNG 1.1. Khái niệm và đặc điểm của khủng hoảng nợ công 1.1.1. Khái niệm nợ công và khủng hoảng nợ công 1.1.1.1. Khái niệm nợ công Trước hết, nợ công liên quan chặt chẽ đến thâm hụt ngân sách nhà nước. Thâm hụt ngân sách là khi các khoản thu vào ngân sách chính phủ không đủ để bù đắp những khoản chi ra. Như vậy, ngân sách thâm hụt, nhà nước phải tài trợ bằng nhiều cách khác nhau. Nợ công là khoản nợ mà chính phủ của một quốc gia phải chịu trách nhiệm chi trả khoản nợ đó. Hiểu theo nghĩa rộng hơn, nợ công không chỉ bao gồm những khoản tiền mà nhà nước chính thức đi vay mà còn cả những khoản nợ tiềm tàng đối với dân chúng như các khoản lương hưu, khoản trợ cấp bảo hiểm xã hội hay các khoản nợ do các tổ chức, công ty được nhà nước bảo lãnh. Có nhiều cách tiếp cận về nợ công, trong đó, theo ngân hàng thế giới (WB), nợ công được hiểu là nghĩa vụ của bốn nhóm chủ thể sau: + Nợ của ngân hàng trung ương + Nợ của chính phủ trung ương và các bộ, ban ngành + Nợ của các cấp chính quyền địa phương + Nợ của các tổ chức độc lập mà chính phủ sở hữu trên 50% vốn hay sự phê duyệt ngân sách phải thông qua chính phủ, chính phủ là người chịu trách nhiệm trả nợ khi tổ chức đó vỡ nợ. Theo quan điểm của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), nợ công được hiểu là nợ của khu vực tài chính công và nợ của khu vực phi tài chính công. Trong đó, khu vực tài chính công bao gồm các tổ chức tiền tệ trực thuộc nhà nước, các tổ chức phi tiền tệ, các doanh nghiệp quốc doanh. Khu vực phi tài chính công bao gồm chính phủ, chính quyền địa phương và các doanh nghiệp phi tài chính của nhà nước. Theo luật quản lý nợ công của Việt Nam, nợ công bao gồm nợ chính phủ, nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ của chính quyền địa phương. Trong đó:
  11. 4 Nợ chính phủ là các khoản nợ phát sinh trong các khoản vay trong nước, nước ngoài được ký kết, phát hành nhân danh nhà nước, chính phủ hoặc các khoản vay khác do bộ tài chính ký kết, phát hành, ủy quyền phát hành theo quy định của pháp luật được nhà nước thông qua. Tuy nhiên, nợ công không bao gồm khoản nợ mà ngân hàng nhà nước phát hành để thực hiện chính sách trong từng thời kỳ. Nợ được chính phủ bảo lãnh : là khoản nợ do doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng vay trong nước và nước ngoài dưới sự bảo lãnh của chính phủ. Như vậy, nếu như các tổ chức này không trả được nợ thì chính phủ sẽ phải đứng ra trả nợ thay thế. Do vậy, đây được coi như một khoản nợ công tiềm ẩn. Nợ của chính quyền địa phương: là khoản nợ do ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ký kết, phát hành hoặc được ủy quyền phát hành. Tất cả các khoản nợ này phải được nhà nước phê duyệt. Như vậy, qua 3 nhận định của Quỹ tiền tệ thế giới, Ngân hàng thế giới và của Việt Nam, nợ công được hiểu một cách khái quát nhất là tổng khoản tiền do nhà nước đi vay hoặc bảo lãnh đi vay trong nước và nước ngoài nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách và các hoạt động . Dù ở trên phương diện nào cũng phản ánh trách nhiệm của nhà nước trong việc chi trả các khoản nợ này. Tuy nhiên, ở Việt Nam, nợ công còn là một khái niệm hết sức mới mẻ. Luật quản lý nợ công của Việt Nam hẹp hơn so với thông lệ quốc tế khi Việt Nam chưa tính đến khoản lương hưu phải trả và các loại trợ cấp xã hội khác. Để phản ánh nợ công một cách hợp lý và hiệu quả, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều sử dụng tỉ lệ nợ công trên GDP. Nợ công góp phần giải quyết nguồn vốn của chính phủ trong việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Bên cạnh đó, nợ công góp phần thu hút khoản tiền nhàn rỗi trong dân cư, khuyến khích nhân dân tiết kiệm, tăng đầu tư. Thông qua việc huy động vốn này, nhà nước có được khoản tiền nhàn rỗi này để đầu tư nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cho cả khu vực tư và khu vực công. Nợ công còn tận dụng được nguồn vốn của nước ngoài vào xây dựng đất nước cũng như thúc đẩy hoạt đông hợp tác song phương giữa các nước. Phân loại nợ công
  12. 5 Căn cứ vào mục đích của khoản vay: + Vay để bù đắp thâm hụt ngân sách: việc chính phủ đi vay nợ để tài trợ cho thâm hụt ngân sách là nhu cầu thiết yếu của các quốc gia khi nguồn thu trong nước không đủ để trang trải cho những nhu cầu chi thiết yếu. Trong trường hợp này, chính phủ có thể phát hành thêm tiền hoặc vay tiền. Việc phát hành thêm tiền thường để lại hậu quả lên lạm phát nên đây là biện pháp không có lợi cho nền kinh tế nếu bị lạm dụng quá nhiều. Hơn thế nữa, việc phát hành thêm tiền khiến cho dân chúng nghĩ rằng thu nhập và mức sống thực sự tăng lên dẫn đến tăng tiêu dùng và giảm tiết kiệm, đầu tư. Trên thực tế, việc tăng phát hành tiền không phản ánh đúng sức khỏe của nền kinh tế đó. Bởi sức khỏe của nền kinh tế phụ thuộc vào tổng giá trị sản phẩm mà nó tạo ra. Có thể thấy, khi thâm hụt ngân sách, nhà nước sẽ sử dụng phương tiện đầu tiên là vay nợ. Trước hết, chính phủ sẽ vay nợ trong nước và nếu như tiếp tục cần tiền hoặc cầu trái phiếu chính phủ trong nước đã cạn kiệt thì chính phủ sẽ đi vay nước ngoài. Tuy nhiên, vay nợ nước ngoài cũng ảnh hưởng đến yếu tố tỷ giá trong ngắn hạn và trong dài hạn. Như vậy, bất cứ khoản vay nợ nào cũng làm ảnh hưởng đến các chỉ số kinh tế vĩ mô của quốc gia đó. Vay tài trợ các dự án kinh tế xã hội: một quốc gia muốn có một nguồn vốn lớn mà thu ngân sách không thể đáp ứng được cần đến vay nợ. Các khoản vay này thường là các khoản vay dài hạn . Lãi suất và gốc của khoản vay này được trả bằng nguồn thu trong tương lai bao gồm nguồn thu từ ngân sách và nguồn thu từ chính dự án được đầu tư từ nguồn vốn đi vay đó. Đối với các quốc gia đang phát triển, việc vay vốn là vô cùng quan trọng để xây dựng cơ sở hạ tầng, kích thích kinh tế phát triển. Tuy nhiên, các quốc gia cũng nên lưu ý đến việc vay nợ và tính toán đến nguồn trả nợ .Bởi trên thực tế, có rất nhiều quốc gia không thể trả được gốc và lãi các khoản nợ khi đáo hạn, dẫn đến tình trạng vỡ nợ của chính phủ. + Căn cứ vào điều kiện của khoản vay Khoản vay thương mại quốc tế: đây là những khoản vay từ các thể chế tài chính trên thế giới hoặc các quốc gia khác mà không có bất cứ ưu đãi nào. Các khoản vay này dựa trên yếu tố cung cầu tiền tệ trên thị trường sẽ ảnh hưởng đến lãi suất cho vay. Với điều kiện đó, các bên đi vay nếu như chấp nhận mức lãi suất đưa ra sẽ được vay nợ. Như vậy, khoản vay thương mại quốc tế giống như việc kinh
  13. 6 doanh tiền tệ giữa các ngân hàng thương mại các nước với nhau. Đồng thời, bên đi vay cũng không bị ràng buộc bởi các điều kiện khác ngoài điều kiện phải trả lãi và gốc đúng hạn. Vì đây là khoản vay mang tính chất thương mại nên việc đàm phán hoãn nợ cũng như giảm nợ là khó xảy ra. Vay ưu đãi của chính phủ: Là khoản vay của các thể chế tài chính như IMF, WB tài trợ cho các quốc gia đang phát triển nhằm kích thích sự phát triển kinh tế của những quốc gia này cũng như trong công cuộc xóa đói giảm nghèo trên toàn cầu. Các khoản vay này được ưu đãi cho quốc gia được vay trên phương diện lãi suất, thời gian đáo hạn, thời gian ân hạn. ODA ( Official Development Assitance) là khoản vay của khối nước các quốc gia phát triển OECD dành cho các nước đang phát triển. Đặc điểm của khoản vay này bao gồm 2 phần: phần cho không và phần được hưởng lãi suất thấp hoặc không có lãi suất. Bên cạnh đó, thời hạn của khoản vay thường kéo dài từ 25 đến 40 năm, thời gian ân hạn từ 8-10 năm. Như vậy, khoản vay này mang tính viện trợ là chính. Tuy nhiên, những quốc gia muốn có được khoản vay này cần nhượng bộ một số quyền lợi cũng như điều kiện cho các quốc gia cấp vốn. Trên thực tế, khoản vay này đang có xu hướng giảm xuống và không ổn định, phân phối không đồng đều giữa các quốc gia. + Căn cứ vào thời hạn của khoản vay Nợ ngắn hạn: các khoản nợ trong nước và nước ngoài của chính phủ có thời hạn từ 1 năm trở xuống Nợ trung hạn: các khoản nợ trong nước và nước ngoài của chính phủ có thời hạn từ 1 đến 10 năm Nợ dài hạn : nợ trong nước và nước ngoài của chính phủ có thời hạn trên 10 năm. Đặc điểm nợ công Trước hết cần phân biệt nợ công với nợ quốc gia. Nợ quốc gia là toàn bộ các khoản nợ phải trả của một quốc gia bao gồm hai bộ phận là nợ của nhà nước và nợ của tư nhân. Như vậy, nợ công là một bộ phận của nợ quốc gia. Có nhiều cách tiếp cận khác nhau nhưng nợ công có những đặc điểm chung như sau: + Nợ công là khoản nợ ràng buộc trách nhiệm của nhà nước
  14. 7 Khác với các khoản vay nợ thông thường, khi người đi vay chỉ phải trả các khoản nợ do mình đứng ra vay, nợ công được xác định là một khoản nợ mà chính phủ phải có trách nhiệm trong việc chi trả khoản nợ đó. Trách nhiệm chi trả được thể hiện dưới 2 góc độ : trực tiếp và gián tiếp. Trước hết, đó là các khoản nợ do chính phủ hoặc các cơ quan trực thuộc chính phủ trực tiếp đi vay trong nước và nước ngoài nhằm tài trợ cho các khu vực công. Bên cạnh đó, khi nhà nước đứng ra bảo lãnh cho một đơn vị, tổ chức nào trong nước, thì khoản nợ đó cũng thuộc trách nhiệm của chính phủ nếu như doanh nghiệp đó không có khả năng trả nợ. Nợ công là hệ quả của việc nhà nước tiến hành vay vốn để tài trợ cho thâm hụt ngân sách lũy kế. Thực chất của nợ công là do việc mất cân đối giữa thu, chi ngân sách. Các khoản thu ít, các khoản chi nhiều dẫn đến ngân sách thâm hụt liên tục qua các năm. Để tài trợ cho các hoạt động kinh tế, xã hội , chính phủ phải tăng cường đi vay nợ. + Nợ công bao gồm ba bộ phận: trong nước, nước ngoài và các thể chế tài chính quốc tế. Các khoản vay trong nước là các khoản vay từ người cho vay trong nước.Đối với các khoản vay nợ trong nước, chính phủ có thể phát hành trái phiếu để tài trợ cho khoản vay. Trái phiếu phát hành bằng nội tệ được coi là không có rủi ro tín dụng vì trong trường hợp chính phủ không có khả năng để trả lãi và gốc của khoản vay, chính phủ có thể tăng thuế, hoặc thậm chí in tiền để tài trợ cho khoản nợ này. Như vậy, việc đi vay trong nước dễ dàng và nguy cơ vỡ nợ cũng không cao so với việc đi vay nước ngoài Đối với các khoản vay nước ngoài là các khoản vay từ người cho vay ngoài nước: việc huy động được các khoản vay nước ngoài phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Trong đó, uy tín và khả năng tài chính của quốc gia đó là 2 yếu tố quan trọng. Cầu trái phiếu phát hành bằng ngoại tệ cũng phụ thuộc vào ngoại tệ có phải là đồng tiền mạnh hay không. Bên cạnh đó, việc vay nợ ngoài với trái phiếu phát hành bằng ngoại tệ cũng là một phương tiện tín dụng có rủi ro. Nguyên nhân là bởi chính phủ có thể khan hiếm nguồn ngoại tệ để chi trả, và người nắm giữ trái phiếu phải đối mặt với rủi ro tỷ giá hối đoái. Ngoài ra, vay nợ nước ngoài trực tiếp từ các thể chế tài chính quốc tế như IMF, Ngân hàng thế giới (WB) Hình thức vay nợ này thường được áp dụng cho
  15. 8 các hoạt động mang tính chất cộng đồng, hỗ trợ cho những nước nghèo, nước đang phát triển cải thiện tình hình kinh tế, xóa đói giảm nghèo và thường dành cho các nước có xếp hạng tín nhiệm thấp, gặp khó khăn trong việc phát hành trái phiếu, huy động vốn. + Việc đánh giá nợ công và tỷ lệ nợ công là một yếu tố vô cùng quan trọng. Đó là tỷ trọng của nợ trong nước , nợ nước ngoài trên tổng nợ công. Đối với bất cứ quốc gia nào, tỉ lệ nợ trong nước trên nợ công cao cũng gặp ít rủi ro vỡ nợ hơn. Tỷ lệ nợ công cũng không nên chỉ xét theo con số đơn thuần. Nếu chỉ chú trọng vào những con số nợ công cao dễ gây tâm lý hoang mang cho nhà đầu tư. Còn nếu tỷ lệ nợ công còn trong mức an toàn mà sử dụng ngân sách lãng phí cũng tạo ra những hiệu ứng xấu. Như vậy, phân tích tỷ lệ nợ công chúng ta phải xem xét tỉ lệ nợ trong nước, nợ nước ngoài, các điều kiện kinh tế, chính trị của quốc gia đó. 1.1.1.2. Khái niệm khủng hoảng nợ công Khủng hoảng nợ công xảy ra khi thâm hụt ngân sách lũy kế đến một ngưỡng nào đó vượt quá khả năng kiểm soát của chính phủ. Khi đó, quốc gia không có khả năng thanh toán cả gốc và lãi của khoản nợ khi đáo hạn hoặc trong thời gian ân hạn quy định dẫn đến hiện tượng vỡ nợ quốc gia. Các tổ chức xếp hạng tín dụng định nghĩa khủng hoảng nợ công là vỡ nợ chính phủ hay thất bại của chính phủ trong việc hoàn trả các khoản nợ công đầy đủ. Theo Quỹ tiền tệ thế giới, IMF đã nhận định: khủng hoảng nợ công được xác định trên các khoản nợ chưa trả được, dựa trên một trong hai điều kiện sau đây hoặc đồng thời cả hai điều kiện cùng xảy ra: + Có những khoản nợ gốc hoặc lãi chưa hoàn trả hoặc hoàn trả dở dang song phải khất lại nghĩa vụ trả nợ đối với chủ nợ như ngân hàng, tổ chức sở hữu trái phiếu chiếm trên 5% tổng dư nợ. + Có một thỏa thuận gia hạn hoặc tái cơ cấu nợ với chủ nợ được liệt kê trong Báo cáo phát triển tài chính toàn cầu (GDF) của ngân hàng thế giới (WB). Theo cách định nghĩa của Moody’s Investors Services (2003), khủng hoảng nợ công xảy ra khi một nền kinh tế đang phải đối mặt với những trường hợp sau: + Có sự ngừng hay hoãn trả lãi hay nợ gốc đến hạn hoặc thanh toán chậm trễ trong thời gian ân hạn.
  16. 9 + Có sự hoán đổi không cân xứng khi nhà phát hành trái phiếu đề nghị người giữ trái phiếu nắm giữ thêm một hoặc một số trái phiếu mới để giảm nghĩa vụ tài chính hiện tại của người phát hành. Trong trường hợp này, chủ nợ tức người nắm giữ trái phiếu không được nhận lại khoản tiền của mình khi trái phiếu đáo hạn mà lại tiếp tục là chủ nợ đối với một trái phiếu mới sẽ đáo hạn trong tương lai. Điều này xảy ra khi nhà phát hành trái phiếu không thể thanh toán số trái phiếu ban đầu. Sự hoán đổi bất cân xứng ở đây là số trái phiếu được coi như công cụ nợ mới có mức lãi suất coupon hoặc mệnh giá của trái phiếu mới thấp hơn trái phiếu được phát hành ban đầu. Việc hoán đổi này có thể giúp người đi vay hay nhà phát hành có thể tránh được những thiếu hụt trầm trọng trong việc trả gốc và lãi của khoản vay. Theo tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc gia Standard and Poors ( Chambers and Alexeeve) định nghĩa: khủng hoảng nợ công là việc không thanh toán được khoản nợ gốc hoặc khoản lãi khi đến hạn trả hoặc trong thời gian ân hạn trong điều khoản vay nợ ban đầu. Đối với trái phiếu, tiền mặt và hối phiếu bằng đồng nội tệ hay ngoại tệ, người phát hành bị coi là rơi vào khủng hoảng khi không thanh toán được gốc và lãi khi đến hạn hoặc phải ghi nhận thêm một khoản nợ mới với người nắm giữ trái phiếu với điều khoản có lợi hơn cho nhà phát hành. Theo cách đánh giá của tổ chức tiền tệ quốc tế ( IMF ), một quốc gia lâm vào khủng hoảng nợ nếu: + Quốc gia đó bị Standard & Poor’s liệt vào danh sách các nước không có khả năng hoàn trả nợ. + Phải xin vay từ IMF một khoản tiền lớn , vượt quá 100% hạn mức tín dụng đề ra để tài trợ cho khoản nợ trên. Như vậy, nếu một quốc gia vay nợ với khoản tiền lớn, bất thường từ IMF có thể là một dấu hiệu của khủng hoảng nợ công. Dù đứng trên góc độ nào thì khủng hoảng nợ công xảy ra là do chính phủ của quốc gia đó không thể trả được nợ và buộc phải tìm kiếm sự trợ giúp khác 1.1.2. Đặc điểm của khủng hoảng nợ công Dựa vào những định nghĩa nêu trên, có thể rút ra một số đặc điểm chung của khủng hoảng nợ công.
  17. 10 + Khủng hoảng nợ công mang bản chất là một cuộc khủng hoảng kinh tế và làm suy giảm các hoạt động kinh tế kéo dài. Nếu khủng hoảng nợ công bùng nổ còn gây ra những hậu quả nghiêm trọng hơn suy thoái trong chu kỳ kinh tế. Xét cho cùng, khủng hoảng nợ công xảy ra là do hoạt động phát hành trái phiếu hoặc vay vốn nước ngoài tràn lan và không có nguồn chi trả gốc và lãi khi đáo hạn. + Khủng hoảng nợ công có thể xảy ra ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới: nước phát triển và nước đang phát triển. Các quốc gia phát triển sử dụng nợ công cho mục đích quân sự, quốc phòng còn các quốc gia đang phát triển sử dụng nợ công cho mục đích xây dựng kinh tế, cơ sở hạ tầng. Dù với mục đích nào thì tình trạng nợ công của các quốc gia cũng là một vấn đề đáng quan tâm. Nếu như các nước thuộc thế giới thứ ba (các quốc gia đang phát triển) thường xuyên phải trì hoãn hoặc khất nợ thì khủng hoảng nợ hoàn toàn có thể xảy ra ở các nước đang phát triển, nơi mà trình độ phát triển kinh tế tương đối cao và ổn định. + Mặc khác, do nợ công không phải là tài sản của nhà nước, thuộc quyền sở hữu hay sử dụng của nhà nước mà ngược lại là một khoản nợ nên một khi khủng hoảng nợ công đã diễn ra sẽ kéo theo rất nhiều hệ lụy không chỉ riêng lĩnh vực kinh tế mà tất các các khía cạnh của xã hội. + Thâm hụt ngân sách phản ánh giá trị tuyệt đối của nợ công chính phủ. Khi khoản thâm hụt lớn khiến chính phủ phải tăng cường đi vay dưới sự đảm bảo của mình. Do vậy, khi không thể trả được nợ , khủng hoảng nợ công sẽ xảy ra. Khủng hoảng nợ công gắn liền với mức độ tín nhiệm của chính phủ quốc gia xảy ra khủng hoảng. Khi nợ công tăng cao, niềm tin của người dân và giới đầu tư bị lung lay, khi đó nền kinh tế sẽ trở thành mục tiêu tấn công của các thế lực đầu cơ trên thế giới. 1.2. Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng nợ công Mỗi quốc gia với nền kinh tế xã hội phát triển khác nhau sẽ có những yếu tố khác nhau dẫn đến khủng hoảng nợ công. Tuy nhiên nguyên nhân chính gây ra khủng hoảng nợ công ở tất cả các quốc gia đều gặp phải đó là hoạt động chi tiêu của chính phủ lớn, trong khi đó nguồn thu từ ngân sách không đáp ứng được đầy đủ các khoản chi tiêu dẫn đến thâm hụt ngân sách. Bên cạnh đó, việc sử dụng nguồn vốn đi vay không hiệu quả cùng với sự thiếu minh bạch về quản lý nợ công cũng là nguyên nhân dẫn đến việc mất khả năng chi trả của chính phủ.
  18. 11 1.2.1. Thâm hụt ngân sách nhà nước Ngân sách nhà nước là một khái niệm được định nghĩa khác nhau trên thế giới. Tại nước Nga, định nghĩa về ngân sách nhà nước như sau : Ngân sách nhà nước là bảng liệt kê các khoản thu chi bằng tiền trong một giai đoạn nhất định của một quốc gia. Tại Việt Nam, theo luật ngân sách nhà nước được quốc hội thông qua vào ngày 16/12/2002, ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của nhà nước trong dự toán đã được chính quyền nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước. Như vậy, dù nhìn ở góc độ nào thì ngân sách nhà nước cũng phản ánh các quan hệ kinh tế phát sinh gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối, sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước. Thâm hụt ngân sách hay còn gọi là bội chi ngân sách nhà nước. Là tình trạng khi tổng chi tiêu của ngân sách nhà nước vượt quá các khoản thu không mang tính hoàn trả của ngân sách nhà nước. Chỉ tiêu phản ánh thâm hụt ngân sách nhà nước thường được sử dụng là tỷ lệ thâm hụt so với GDP hoặc so với tổng thu trong ngân sách nhà nước. Thâm hụt ngân sách nhà nước bắt nguồn từ những nguyên nhân sau: 1.2.1.1. Sự gia tăng mạnh trong chi tiêu từ ngân sách của chính phủ Chi ngân sách nhà nước là quá trình phân phối và sử dụng quỹ ngân sách nhà nước nhằm đảm bảo thực hiện chức năng của nhà nước. Đối với bất kỳ quốc gia nào, việc chi ngân sách nhà nước đều liên quan đến hai khoản chi sau: chi tích lũy và chi tiêu dùng. Chi tích lũy là những khoản chi làm tăng cơ sở vật chất, chi đầu tư phát triển và tăng tiềm lực cho nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Chi tiêu dùng bao gồm những khoản chi không tạo ra sản phẩm vật chất để tiêu dùng trong tương lai, bao gồm chi cho các khoản hành chính sự nghiệp, chi quốc phòng , an ninh Có rất nhiều các quốc gia trên thế giới đã quá chú trọng đến chi tiêu dùng mà đặc biệt là chi cho quân sự. Những khoản chi này thường rất lớn gây tốn kém cho ngân sách nhà nước.
  19. 12 1.2.1.2.Các nguồn thu cho ngân sách nhà nước tăng chậm hơn nhu cầu chi Các nguồn thu về ngân sách bao gồm các nguồn thu thường xuyên về thuế, phí và lệ phí. Nếu như có thâm hụt ngân sách xảy ra, nhà nước sẽ thực hiện các nguồn thu khác để bù vốn về cho ngân sách. Các hoạt động chủ yếu là đi xin viện trợ từ nước ngoài, đi vay và cuối cùng là bán các tài sản thuộc sở hữu nhà nước. Ở đây đề cập đến nguồn thu cho ngân sách nhà nước là thuế, phí và lệ phí. Khoản thu từ thuế, phí, lệ phí là khoản thu chính, thường xuyên và mức độ ổn định phụ thuộc và chính sách thuế của nhà nước trong từng thời kỳ. Nếu như chính phủ áp dụng chính sách tài khóa mở rộng, tăng cường chi tiêu chính phủ, giảm nguồn thu vào ngân sách bằng việc giảm thuế nhằm kích thích nền kinh tế phát triển. Ngược lại, nếu chính phủ muốn áp dụng chính sách tài khóa thắt chặt, các nguồn thu từ thuế, phí, lệ phí sẽ tăng lên, các khoản chi tiêu giảm đi. Do đó, trong từng thời kỳ, các quốc gia sẽ áp dụng các chính sách tài khóa khác nhau và các nguồn thu từ ngân sách cũng vì thế mà không ổn định. Trong trường hợp chính phủ áp dụng chính sách tài khóa mở rộng sẽ làm thâm hụt ngân sách càng nghiêm trọng hơn khi các hoạt động thu không đáp ứng nhu cầu của các hoạt động chi tiêu.Bên cạnh chính sách tài khóa ảnh hưởng đến nguồn thu của chính phủ, thì các nhân tố ảnh hưởng đến thu ngân sách còn bao gồm GDP, tỷ suất doanh lợi trong nền kinh tế, tiềm năng tài nguyên thiên nhiên của đất nước. + Nhân tố GDP bình quân đầu người: chỉ tiêu này phản ánh mức độ tăng trưởng kinh tế của một quốc gia, khả năng tiết kiệm và đầu tư của cả nền kinh tế. Nếu GDP bình quân đầu người của một quốc gia cao thì các khoản thu về ngân sách quốc gia đó cũng cao tương ứng. Bởi khi đó, người dân sẵn sàng cho chi trả nhiều hơn đối với nghĩa vụ hơn là những quốc gia có GDP bình quân đầu người thấp. Như vậy, đây là một chỉ tiêu quan trọng ảnh hưởng lớn đến nguồn thu ngân sách của một quốc gia. Trong giai đoạn kinh tế giảm sút kéo theo sự sụt giảm về GDP bình quân đầu người sẽ kéo theo sự sụt giảm về thu ngân sách.Ngược lại, kinh tế phát triển luôn là những tín hiệu tốt cho chính phủ của mỗi quốc gia. + Tỷ suất doanh lợi trong nền kinh tế: đây là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả đầu tư phát triển trong nền kinh tế. Nếu như tỷ suất doanh lợi càng cao khiến cho GDP bình quân đầu người của quốc gia đó càng cao.Vì vậy,tỷ suất doanh lợi càng cao thì
  20. 13 nguồn thu vào ngân sách càng nhiều. Tuy nhiên, có nhiều quốc gia do quá nôn nóng trong việc thúc đẩy kinh tế phát triển, nhà nước áp dụng nhiều biện pháp tăng thu vào ngân sách. Việc tăng thu ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người dân. Chính vì vậy, phải có một chính sách phù hợp cân đối giữa thu và chi sao cho cả nhà nước và người dân đều được hưởng lợi. + Đối với các quốc gia giàu tài nguyên thiên nhiên thì nguồn thu về ngân sách tăng cao. Nguyên nhân thường là do bán tài nguyên, khoáng sản cho các quốc gia khác- Đây là một hiện tượng rất phổ biến ở các quốc gia đang phát triển. Tuy nhiên, nhà nước nên chú trọng đến vấn đề này bởi ngân sách sẽ chỉ tăng cao trong một thời gian ngắn, khi những tài nguyên còn dồi dào. Khi tài nguyên thiên nhiên cạn kiệt, nguồn thu chính phủ không còn, nhà nước phải cầu viện đến nguồn thu khác. Mặt khác, việc khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách bừa bãi sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường tự nhiên và các yếu tố kinh tế, xã hội khác. + Bên cạnh đó, các nguồn thu về ngân sách chịu ảnh hưởng trực tiếp từ những hiệp ước mà quốc gia đó tham gia. Nếu một quốc gia tham gia vào tổ chức thương mại thế giới thì quốc gia đó phải đáp ứng đủ các điều kiện về cắt giảm các khoản phí, thuế hải quan nhằm tiến tới một nền kinh tế toàn cầu thống nhất với các nguyên tắc không phân biệt đối xử, tự do hóa mậu dịch . Như vậy, khoản thu về ngân sách chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác nhau. Chính phủ cần những biện pháp phù hợp trong từng giai đoạn để nguồn thu ngân sách vẫn đù bù đắp nhu cầu chi tiều của chính phủ mà không gây ra gánh nặng cho dân chúng. 1.2.2. Hiệu quả sử dụng vốn vay thấp Các quốc gia đều mong muốn đi vay để tài trợ cho các hoạt động phát triển kinh tế cũng như bù đắp thâm hụt ngân sách của mình. Những quốc gia đang phát triển được khuyến khích vay tiền để tài trợ cho các khoản nợ và tiến hành các dự án phát triển tài chính quốc gia , đặc biệt là xây dựng cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật như đường xá, kè đập. Tuy nhiên, khi nắm vốn trong tay thì không phải quốc gia nào cũng biết sử dụng vốn hiệu quả. Việc chi tiêu vào những nhu cầu chưa thực sự
  21. 14 cần thiết, những hành vi vung tay quá trán là những biểu hiện tiêu biểu nhất của việc sử dụng vốn không hiệu quả. Việc sử dụng vốn vay không phù hợp với thời hạn của khoản vay là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn vay. Một số quốc gia áp dụng chính sách vay ngắn hạn để tài trợ cho các dự án đầu tư dài hạn. Khi áp dụng chính sách này, nếu như lãi suất thị trường tăng lên, chính phủ phải đối mặt với các nguy cơ về rủi ro lãi suất khi có sự chênh lệch về cấu trúc kỳ hạn. Như vậy, lãi suất thực trả tăng cao khiến cho chi phí của khoản vay nợ cao hơn, trong khi đó hiệu quả đầu tư không thay đổi sẽ ảnh hưởng đến kế hoạch trả nợ của chính phủ. Bên cạnh đó, nếu sử dụng vốn ngắn hạn để đầu tư dài hạn, chính phủ sẽ ảnh hưởng bởi tình trạng thiếu vốn, khi mà khoản nợ đã đến hạn trả mà dự án chưa hoàn thành. Vì vậy, dự án dở dang, phải chờ đợi thêm nguồn vốn mới cũng là một vấn đề cần chú ý. Yếu tố khác dẫn đến việc sử dụng vốn vay kém hiệu quả là do sự lãng phí trong việc sử dụng nợ công . Chính phủ các quốc gia sử dụng vốn dàn trải trong nhiều dự án cho nhiều ngành nghề dẫn đến mọi dự án đều dở dang, đói vốn và thời gian hoàn thành kéo dài, chậm đi vào hoạt động. Như vậy, chi phí đầu tư càng tăng cao. 1.2.3.Sự thiếu minh bạch về quản lý nợ công Đối với các quốc gia phát triển, khi mà mọi điều kiện về cơ sở vật chất, hạ tầng phát triển tương đối cao thì tình trạng nợ công cao là do thói quen chi tiêu của dân chúng cũng như chính phủ. Người dân thường có thói quen chi tiêu nhiều hơn các nước đang phát triển, chính phủ cũng vì thế mà không mấy quan tâm đến tỷ lệ nợ công. Nếu chính phủ buông lỏng trong quản nợ công cùng sự lãng phí, thất thoát trong chi tiêu dẫn đến tỷ lệ nợ công ngày càng tăng cao. Đối với các nước đang phát triển, do nhu cầu vốn cao, chính phủ phải vay nợ nhiều nhưng không có sự giám sát chặt chẽ, hiệu quả sử dụng vốn kém sẽ gây ra hiện tượng mất khả năng thanh toán. Các khoản đầu tư được giải ngân, nhiều chính phủ không chú trọng đến việc giám sát việc sử dụng vốn vay đúng mục đích.Ví dụ, một khoản vốn được tài trợ nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng lại được sử dụng vào mục đích chi tiêu dùng. Như vậy, việc lơ là trong quản lý nợ công của chính phủ đã tiếp tay cho một số đối tượng thu lợi về mình, trong khi đó những dự án đầu tư còn chưa được
  22. 15 hoàn thiện. Bên cạnh đó, các chính phủ khi cấp vốn cho các dự án không tính đến khả năng thanh toán và nguồn trả nợ. Như vậy, quá trình đi vay của nhiều nước đang phát triển không tính toán đến những lợi ích về kinh tế thu được cũng như bỏ ra. Cùng với sự thiếu hiệu quả trong hoạt động đầu tư là nạn tham nhũng hoành hành, trốn thuế, buôn lậu Cơ chế xin cho dự án đã tạo ra thất thoát ngân sách không nhỏ. Khi các khoản vay cho chi tiêu trong nước vượt quá một ngưỡng giới hạn nhất định và đến một thời điểm nhất định thì chính phủ phải trả những khoản nợ đó. Tuy nhiên do khả năng giám sát quản lý các khoản nợ công kém, nhà nước không thể chi trả được các khoản nợ, các khoản nợ ngày càng tăng cao đến mức chính phủ một nước phải thừa nhận không đủ khả năng chi trả thì khủng hoảng nợ công xảy ra. 1.3. Tác động của khủng hoảng nợ công đối với nền kinh tế. 1.3.1.Tác động đến các chỉ số kinh tế vĩ mô 1.3.1.1. Lạm phát Trước hết, lạm phát được định nghĩa là sự gia tăng liên tục của mức giá chung hoặc có thể hiểu là sự suy giảm sức mua của đồng nội tệ. Theo cách hiểu này, mức giá trung bình của tất cả các mặt hàng đều tăng lên liên tục trong một thời gian kéo dài được gọi là lạm phát. Có hai nguyên nhân gây ra lạm phát: lạm phát do cầu kéo và lạm phát chi phí đẩy. Lạm phát do cầu kéo xảy ra khi nền kinh tế tiêu dùng nhiều hơn những gì sản xuất ra được hay tổng cầu tăng trong khi đó tổng cung đã đạt mức tối đa. Lạm phát do chi phí đẩy là lạm phát xảy ra khi một loạt các chi phí trong nền kinh tế tăng lên, chủ yếu là nguyên vật liệu, thuế và hàng hóa tiêu dùng. Có thể nói, lạm phát là nguy cơ đối với người nắm giữ tiền tệ. Khi một quốc gia đối mặt với khủng hoảng nợ mà nguyên nhân chính là do thâm hụt ngân sách, quốc gia đó sẽ phải đối mặt với tình trạng lạm phát tăng cao. Nguyên nhân là vì quốc gia đó cần một lượng ngoại tệ lớn để hoàn trả gốc và lãi đi vay, cầu về ngoại tệ tăng khiến giá trị đồng ngoại tệ lên giá so với đồng nội tê. Nói cách khác, đồng nội tệ đang mất giá tương đối so với đồng ngoại tệ. Đồng nội tệ mất giá, giá cả tăng cao khiến chi phí sản xuất cũng tăng cao tương ứng, ảnh hưởng
  23. 16 đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế. Đồng thời, lạm phát cao làm ảnh hưởng đến tâm lý của người dân. Dân chúng sẽ không tin tưởng vào giá trị của đồng nội tệ, tăng cường tiêu dùng hoặc đầu tư vào các tài sản khác như vàng, bất động sản thay vì tiết kiệm để đầu tư trong tương lai.Việc người dân quay lưng lại với đồng nội tệ càng làm cho tình hình kinh tế trở nên bất ổn hơn.Như vậy, lạm phát tăng cao làm cho các kế hoạch chi tiêu và tiết kiệm hợp lý sẽ trở nên khó thực hiện hơn. Người dân ngày càng lo ngại về sức mua tương lai của họ bị giảm sút và mức sống của họ cũng vì thế mà kém đi. Lạm phát cao khuyến khích các hoạt động đầu tư mang tính trục lợi hơn là đầu tư vào các hoạt động sản xuất . Ví dụ, khi lạm phát tăng cao, nếu ngân hàng không tăng lãi suất cao hơn mức tăng của lạm phát thì người dân không gửi tiền vào ngân hàng mà thay vào đó là đầu cơ vào đất đai khiến giá cả đất đai tăng cao Lạm phát tăng cao còn đặc biệt ảnh hưởng xấu đến những người có nguồn thu nhập danh nghĩa cố định như công chức và hưu trí. Phúc lợi và mức sống của họ sẽ giảm sút đáng kể. Lạm phát tăng cao do chính phủ tăng vay nợ trong nước bằng cách phát hành trái phiếu cũng khiến lãi suất trong nước tăng. Lãi suất tăng làm nhu cầu về vốn của doanh nghiệp bị thắt chặt hoặc phải chấp nhận chi phí lãi vay cao. Khi đó, giá thành và giá bán sản phẩm sẽ tăng lên tương ứng. Cứ như vậy, giá bán tăng cao lại gây ra lạm phát, gây gánh nặng cho nền kinh tế. 1.3.1.2.Tốc độ tăng trưởng GDP GDP ( Gross Domestic Product )- tổng sản phẩm quốc nội : là tổng giá trị bằng tiền của toàn bộ hàng hóa, dịch vụ mà một quốc gia sản xuất trong vùng lãnh thổ của nước đó, dù là do người trong nước hay người nước ngoài cư trú tại quốc gia đó tạo ra trong một thời gian nhất định, thường là một năm. Công thức tính GDP: GDP = C + I + G + X – IM Trong đó: C : là tiêu dùng của dân cư I : đầu tư, là giá trị của toàn bộ hàng hóa dịch vụ được đưa vào quá trình tái sản xuất nhằm tạo ra thu nhập quốc dân G : chi tiêu chính phủ
  24. 17 X : giá trị xuất khẩu IM : giá trị nhập khẩu Khi khủng hoảng nợ công xảy ra, nhu cầu vay tiền để trả nợ của chính phủ tác động trực tiếp đến các thành phần cấu thành nên GDP. Đặc biệt, thu ngân sách nhỏ hơn chi ngân sách khiến cho G < 0. Do đó, GDP giảm như một hệ lụy tất yếu. Bên cạnh đó, khủng hoảng nợ cũng làm cho chỉ số I giảm đáng kể. Bởi I là đầu tư của khu vực tư nhân, tuy nhiên việc đầu tư này khác với đầu tư mang tính đầu có tích trữ vào thị trường chứng khoán. Khủng hoảng nợ gây ra lạm phát , giá cả đi vay vốn tăng cao làm cho hoạt động sản xuất bị đình trệ. Hơn nữa, trong điều kiện kinh tế bất ổn, nhà đầu tư chắc chắn sẽ không dám mạo hiểm khi đầu tư quá nhiều tài sản vào hoạt động sản xuất. Lúc này hoạt động sản xuất chỉ mang tính cầm chừng và duy trì. Khi đó, chỉ số I giảm mạnh, ảnh hưởng đến nhân tố GDP. Ngoài ra, khủng hoảng nợ còn ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư quốc tế và hoạt động xuất nhập khẩu. 1.3.1.3. Đầu tư quốc tế Khi khủng hoảng nợ xảy ra, chính phủ phải huy động vốn bằng cách phát hành trái phiếu để vay vốn trên thị trường mở. Khi cung trái phiếu chính phủ tăng cao trong khi đó cầu trái phiếu không tăng lên tương ứng sẽ dẫn đến tình trạng giá trái phiếu giảm, lãi suất trái phiếu phải tăng lên để bù đắp những đòi hỏi về lãi suất hoàn vốn của nhà đầu tư. Khi lãi suất trái phiếu tăng dẫn đến lãi suất thị trường tăng. Các nhà đầu tư gặp khó khăn trong việc huy động vốn sẽ dẫn đến đầu tư trong nước cũng như quốc tế giảm. Số lượng dự án có thể không đổi tuy nhiên lượng vốn sẽ không được dồi dào như trước. Đồng thời, nhà đầu tư ở một quốc gia đang có nguy cơ vỡ nợ sẽ khó huy động được nguồn vốn từ các ngân hàng nước ngoài. Bên cạnh đó, việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào quốc gia có khủng hoảng nợ cũng là một điều khó khăn. FDI ( Foreign Direct Investment) là hàm số phụ thuộc vào quy mô thị trường của nước mời gọi thị trường. Đối với quốc gia đang xảy ra khủng hoảng nợ, các nhà đầu tư sẽ lo ngại vấn đề tính hiệu quả của dự án đầu tư nếu đầu tư vào quốc gia này. Tình hình kinh tế bất ổn kèm theo nhiều ảnh hưởng xấu đến tâm lý của nhà đầu tư. Hay nói cách khác là sự mất lòng
  25. 18 tin của nhà đầu tư vào nền kinh tế đó. Phần đông các công ty đầu tư vào các nước để khai thác tiềm năng, lợi thế về chi phí, trong đó thường là yếu tố lao động, và nguyên vật liệu rẻ. Khi lạm phát tăng cao do ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng nợ, chi phí nhân công và nguyên vật liệu cũng tăng lên. Như vậy, nếu như trước khủng hoảng nợ công, lợi thế về lao động và giá thành nguyên vật liệu là yếu tố quyết định đến mức đầu tư nước ngoài thì khi khủng hoảng nợ công xảy thì lợi thế này đã không còn. Do đó, nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài giảm. Bên cạnh đó, chi phí tăng cao sẽ kéo theo lạm phát tăng nguyên nhân do chi phí đẩy. Cứ như vậy sẽ tạo thành một vòng xoáy giữa chi phí và lạm phát. Nhà đầu tư phải cần nhắc kỹ càng trước quyết định đầu tư. 1.3.1.4. Xuất nhập khẩu + Tỷ giá hối đoái Tỷ giá hối đoái là tỷ lệ trao đổi giữa hai đồng tiền. Cũng giống như bất kỳ hàng hóa nào trên thị trường, tỷ giá hối đoái được xác định dựa trên cung cầu tiền tệ trên thị trường ngoại hối. Chính phủ phải vay nợ trong nước hoặc nước ngoài để tài trợ cho khoản nợ đó. Nếu chính phủ vay nợ nước ngoài thì về dài hạn sẽ làm cho tỷ giá hối đoái tăng lên do nhu cầu ngoại tệ để chi trả gốc, lãi của khoản vay. Khi một quốc gia xảy ra khủng hoảng nợ công, lạm phát tăng cao dẫn đến giá trị đồng nội tệ suy giảm do người dân mong muốn các tài sản nước ngoài nhiều hơn, cầu ngoại tệ tăng cao đẩy tỷ giá tăng. Bên cạnh đó, tỷ giá hối đoái phụ thuộc vào tâm lý của dân chúng, giới đầu tư, ngân hàng, hay là những người đóng vai trò vào quá trình hình thành cung cầu thị trường ngoại hối. Tâm lý của nhà đầu tư cùng kỳ vọng về tỷ giá hối đoái tương lai cũng ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái hiện tại. Tại thời điểm khủng hoảng nợ xảy ra, tâm lý các nhà đầu tư và dân chúng không ổn định, họ cho rằng tỷ giá hối đoái sẽ tăng lên trong tương lai do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng này. Do vậy, ngay tại thời điểm hiện tại, dân chúng và nhà đầu tư đã đổ xô đi mua ngoại tệ khiến cho tỷ giá tăng lên hay đồng nội tệ giảm giá. + Xuất khẩu Xuất khẩu là việc đưa hàng hóa bao gồm hàng hóa vô hình và hàng hóa hữu hình ra nước ngoài và thu về ngoại tệ. Khủng hoảng nợ tác động làm cho lạm phát
  26. 19 trong nước tăng cao, khiến cho giá trị của đồng nội tệ suy giảm. Giả sử rằng tại thời điểm đó, tỷ giá hối đoái không đổi, thì hàng hóa dịch vụ trong nước trở nên đắt hơn so với hàng hóa dịch vụ ở nước ngoài. Khi đó, dân chúng sẽ đổ dồn sang tiêu dùng hàng nước ngoài nhiều hơn, trong khi đó dân chúng các quốc gia khác sẽ không sử dụng hàng của nước đang khủng hoảng bởi giá thành cao. Kim ngạch xuất khẩu của nước đó giảm đi đáng kể, tỷ giá sẽ tăng lên ngay sau đó. Trường hợp khác, khi khủng hoảng xảy ra, yếu tố tỷ giá hối đoái được điều chỉnh ngay khi giá trị đồng nội tệ giảm. Khi đó, giá trị hàng hóa xuất khẩu tính bằng ngoại tệ giảm, kích thích tăng khối lượng xuất khẩu dẫn đến tăng giá trị xuất khẩu tính bằng nội tệ. + Nhập khẩu: có hai trường hợp xảy ra dựa trên cách đánh giá sự thay đổi của tỷ giá hối đoái. Lạm phát làm cho giá trị đồng nội tệ giảm, với điều kiện tỷ giá hối đoái hiện tại không thay đổi sẽ làm nhu cầu sử dụng hàng nước ngoài tăng cao. Khi đó, kim ngạch nhập khẩu của nước đang chịu khủng hoảng tăng . Ngay sau đó, tỷ giá sẽ tăng lên tương ứng. Nếu trường hợp đánh giá ngay tỷ giá hối đoái tăng do đồng nội tệ bị mất giá, chi phí nhập khẩu trở nên đắt hơn. Do vậy, kim ngạch nhập khẩu giảm đi tương ứng. Như vậy, nếu xét trên góc độ lạm phát ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu với giả thiết là tỷ giá chưa thay đổi thì khủng hoảng nợ xảy ra làm cho xuất khẩu giảm, nhập khẩu tăng, làm cho cán cân vãng lai bị thâm hụt nghiêm trọng. Bên cạnh đó, ảnh hưởng của hoạt động xuất nhập khẩu làm cho tỷ giá hối đoái tăng lên tương ứng, tác động cộng gộp càng làm cho tỷ giá tăng mạnh hơn. Vì vậy, đồng nội tệ ngày càng bị mất giá. Nếu ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái được đánh giá ngay khi khủng hoảng nợ xảy ra thì kim ngạch xuất khẩu tăng, kim ngạch nhập khẩu giảm. 1.3.2.Tác động đến hệ thống tài chính 1.3.2.1.Tăng trưởng tín dụng Tăng trưởng tín dụng là sự tăng lên của các khoản cho vay trong khối tư nhân, cá nhân, tập thể hoặc tổ chức công cộng. Khủng hoảng nợ công khiến chính phủ phải tăng cường vay nợ trong nước và nước ngoài. Cung trái phiếu chính phủ
  27. 20 dồi dào trong khi đó cầu trái phiếu không tăng cao tương ứng khiến lãi suất trái phiếu chính phủ tăng cao, khiến yêu cầu về lãi suất trên thị trường cũng phải tăng theo. Khi lãi suất tăng cao, hầu hết các doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tiếp cận với nguồn vốn cũng như phải trả chi phí cao hơn cho nguồn vốn. Chi phí vốn tăng lên cao khiến giá thành sản phẩm cũng tăng theo. Các doanh nghiệp sẽ phải hoạt động cầm chừng hoặc ngừng hoạt động. Lãi suất tăng cao, chi phí nguyên vật liệu tăng mạnh làm cho hoạt động kinh tế bị ngưng trệ. Nếu như hoạt động kinh tế bị ngừng trệ có thể gây ra các khoản nợ xấu cho ngân hàng. 1.3.2.2.Thị trường chứng khoán Có thể nói thị trường chứng khoán là một phong vũ biểu của nền kinh tế. Nếu thị trường chứng khoán phát triển thì nền kinh tế đó đang trên đà tăng trưởng và ngược lại. Phân tích chứng khoán bao gồm việc phân tích cung cầu của chứng khoán đó. Lạm phát là yếu tố hàng đầu quyết định đến giá trị các khoản đầu tư chứng khoán. Rủi ro xuất phát từ lạm phát là một trong những rủi ro cơ bản trong đầu tư chứng khoán. Khủng hoảng nợ công ảnh hưởng đến các chỉ số kinh tế vĩ mô của mỗi quốc gia. Khủng hoảng nợ công làm cho hoạt động sản xuất, đầu tư của các doanh nghiệp bị đình trệ, gây ảnh hưởng xấu đến doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp đó. Khi đó, giá cổ phiếu của doanh nghiệp cũng vì thế mà bị sụt giảm, đặc biệt với các doanh nghiệp vốn đang sụt giảm khó có khả năng phục hồi. Khủng hoảng nợ công làm lạm phát tăng – một biểu hiện bất ổn của nền kinh tế. Chính phủ không có những động thái hiệu quả để kiềm chế lạm phát đang leo thang từng ngày cũng có thể gây ra khủng hoảng niềm tin của nhà đầu tư. Khi đó, thị trường chứng khoán không đủ sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư sẽ dẫn đến tình trạng không đầu tư hoặc bán tháo chứng khoán. Như vậy, cung chứng khoán sẽ lớn hơn gấp nhiều lần so với cầu chứng khoán và thị trường diễn ra tình trạng kém thanh khoản trầm trọng. Trước hết, ảnh hưởng của khủng hoảng nợ lên giá trái phiếu được phân tích dựa trên mô hình định giá trái phiếu như sau:
  28. 21 Trong đó: Po : giá trái phiếu đầu kỳ Pn: giá bán trái phiếu cuối kỳ n Cn: lãi suất coupon thời kỳ n YTM: lợi suất khi đáo hạn của trái phiếu Khủng hoảng nợ khiến lạm phát tăng cao, chính phủ buộc phải sử dụng những biện pháp thắt chặt tiền tệ để kiềm chế lạm phát. Khi đó, mức lãi suất chung trên thị trường có xu hướng tăng . Nhà đầu tư yêu cầu lãi suất khi đáo hạn YTM cũng phải tăng lên. Do quan hệ nghịch biến giữa giá và lợi suất của trái phiếu, giá trái phiếu trên thị trường giảm xuống và để tránh rủi ro này, nhà đầu tư nắm giữ trái phiếu có xu hướng bán ra trái phiếu hoặc cơ cấu lại danh mục đầu tư. Hệ quả là thị trường trái phiếu diễn ra tình trạng bán tháo trái phiếu gây ảnh hưởng tiêu cực tới thị trường đấu thầu và huy động vốn trái phiếu. Đối với thị trường cổ phiếu có thể giải thích theo mô hình cổ phiếu tăng trưởng đều của Gordon: Trong đó: PV : giá trị hiện tại của cổ phiếu Do : Cổ tức thời kỳ đầu g: tốc độ tăng trưởng cổ tức Ke: lợi suất yêu cầu khi đầu tư vào cổ phiếu Do lạm phát xảy ra yêu cầu chính phủ phải thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt, lãi suất trên thị trường có xu hướng tăng. Khi lãi suất thị trường tăng, nhà đầu tư yêu cầu lợi suất cao hơn đối với cổ phiếu hay ke phải tăng lên. Khi đó hiệu ( Ke – g ) tăng. Trong khi đó giá cổ tức thời kỳ đầu không thay đổi, tốc độ tăng trưởng cổ tức không đổi dẫn đến giá cổ phiếu giảm xuống. Khi giá cổ phiếu giảm trong thời gian kéo dài dẫn đến suy thoái do các hoạt động bán trước cổ phiếu để phòng ngừa rủi ro tỷ giá.
  29. 22 Khủng hoảng nợ công còn ảnh hưởng lớn đến tâm lý của nhà đầu tư. Các nhà đầu tư cảm thấy giá trị các khoản vốn đầu tư của họ vào chứng khoán bị sụt giảm do ảnh hưởng của lạm phát cũng là một yếu tố khiến thị trường chứng khoán trở nên kém hấp dẫn. Vì vậy, nhà đầu tư thay vì đầu tư vào chứng khoán sẽ gửi tiền tiết kiệm do lãi suất đã được các ngân hàng điều chỉnh tăng để đảm bảo lãi suất thực tế dương. Ngoài ra, việc đầu tư vào bất động sản và giá vàng cũng là một trong những lựa chọn của giới đầu tư khi thị trường chứng khoán không ổn định. Như vậy, khi khủng hoảng nợ xảy ra thì nhà đầu tư quan tâm đến tính an toàn hơn là tính sinh lời của khoản đầu tư. 1.3.2.3.Thị trường bất động sản Bất động sản bao gồm nhà cửa, đất đai, các công trình xây dựng gắn liền với đất đai. Nhu cầu về nhà ở là nhu cầu cơ bản thiết yếu , do vậy, cầu về nhà ở sẽ tăng lên tương ứng với tốc độ tăng của thu nhập khi mức thu nhập đã vượt quá mức giới hạn về cầu lương thực và thực phẩm. Khi khủng hoảng nợ công xảy ra, GDP bình quân đầu người sẽ giảm, cầu về nhà ở cũng giảm theo. Khi đó, thị trường bất động sản đóng băng. Đối với các dự án bất động sản trả góp thì đây chính là nguồn nợ xấu cho ngân hàng. Mặt khác, khi khủng hoảng nợ xảy ra, các nhà đầu tư có nhu cầu nắm giữ bất động sản để tránh sự trượt giá khi nắm giữ nội tệ, giảm thiểu rủi ro của lạm phát. Chính vì vậy, rất khó đánh giá được sự dịch chuyển của cầu bất động sản trong điều kiện kinh tế khủng hoảng. 1.3.3.Tác động lên các lĩnh vực khác 1.3.3.1. Đời sống xã hội Nợ công làm các hoạt động kinh tế, xã hội bị giảm đi đáng kể về mặt số lượng và chất lượng. Nếu chính phủ tiến hành vay nợ từ trong dân chúng bằng cách phát hành trái phiếu, lãi suất để trả cho trái phiếu này cũng xuất phát từ nguồn thuế, phí, lệ phí thu được từ người dân. Điều này gây ra sự phân phối lại thu nhập trong xã hội. Người giàu phải trả nhiều khoản thuế hơn để chi trả lãi suất trái phiếu mà chính phủ phát hành. Người bị đánh thuế chắc chắn sẽ giảm chi tiêu, tăng tiết kiệm. Như vậy, ảnh hưởng của nợ công làm thay đổi hành vi của người tiêu dùng.
  30. 23 Nếu chính phủ vay nợ nước ngoài để tài trợ cho khoản thâm hụt ngân sách, lãi suất và gốc phải trả cũng là điều đáng lưu ý. Người dân sẽ phải chịu khoản thuế cao hơn trong tương lai để trả lãi vay nước ngoài. Do vậy, gánh nặng nợ nần luôn đè nặng lên vai dân chúng. Gánh nặng lên thế hệ tương lai Xét cho cùng, nợ công xuất phát từ nhu cầu chi tiêu của chính phủ. Khi nhu cầu chi lớn hơn khoản thu về ngân sách khiến thâm hụt ngân sách xảy ra. Để trang trải cho khoản nợ này, chính phủ phải đi vay. Khi khoản vay đến hạn trả nợ gốc và lãi thì chính phủ phải tăng cường thu thuế của người dân. Như vậy, nợ công là sự lựa chọn thời gian đánh thuế: hiện tại hay tương lai Có ý kiến cho rằng, gánh nặng nợ công dành cho thế hệ hiện tại bởi khoản vốn tích lũy của họ nằm trong trái phiếu chính phủ. Khi khủng hoảng nợ công xảy ra, chính phủ không còn khả năng thanh toán gốc và lãi của khoản vay khi đáo hạn. Tuy nhiên, chính phủ sẽ không để cho trường hợp vỡ nợ xảy ra. Và thế hệ tương lai lại tiếp tục gánh khoản nợ này. Như vậy, thế hệ tương lai phải tiết kiệm trong chi tiêu khi thu nhập thực tế của họ bị giảm sụt giảm nghiêm trọng hay nói cách khác, gánh nặng nợ công chính là sự giảm trợ cấp cho thế hệ tương lai. Hậu quả của việc sụt giảm thu nhập của thế hệ tương lai là sự sụt giảm về chất lượng cuộc sống. Bên cạnh đó, nợ công khiến lãi suất thị trường nội địa tăng cao do hoạt động phát hành trái phiếu của chính phủ, đầu tư tư nhân giảm, hoạt động sản xuất bị đình trệ, thất nghiệp tăng cao, kinh tế tăng trưởng chậm hơn. Như vậy, tỷ lệ nợ công cao gây ra những hệ lụy nghiêm trọng cho cả thế hệ hiện tại và tương lai. 1.3.3.2. Lĩnh vực khác Bên cạnh những tác động về mặt kinh tế, một quốc gia đối mặt với khủng hoảng nợ công phải đối mặt với nhiều hệ quả khác Khủng hoảng nợ công buộc chính phủ phải thay đổi chính sách kinh tế vĩ mô để ổn định nền kinh tế cũng như trang trải các khoản nợ xấu. Đối với một quốc gia, trong điều kiện kinh tế bình thường, để giữ vững cho kinh tế ổn định là một điều khó, nhưng đối với một quốc gia đang khủng hoảng nợ lại càng khó khăn hơn. Khi đối mặt với khủng hoảng nợ, quốc gia đó trước hết phải áp dụng biện pháp tăng
  31. 24 cường thu về ngân sách, tiết kiệm trong chi tiêu. Những biện pháp này đều mang tính bắt buộc và có thể gây ra hiệu ứng xấu cho nền kinh tế. Nguyên nhân là bởi người dân cũng như chính phủ đã quen với việc chi tiêu nhiều, khi buộc phải thực hiện các biện pháp tiết kiệm chi tiêu, tăng thuế sẽ gây áp lực lên xã hội. Bên cạnh đó, những yếu tố ảnh hưởng đến kinh tế đều có thể gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng đến chính trị. Khi khủng hoảng nợ công xảy ra, quốc gia đó có nguy cơ suy giảm chủ quyền, giảm sự độc lập về chính trị. Khi một quốc gia muốn hoãn nợ hay vay tiền từ quốc gia khác để trả nợ, chính phủ sẽ phải nhượng bộ nhiều điều kiện về kinh tế, chính trị cho quốc gia đó. Như vậy, suy giảm độc lập về chính trị cũng là một hệ lụy tất yếu của khủng hoảng nợ công. Các quốc gia phải chịu sức ép từ phía chủ nợ và các tổ chức tài chính quốc tế về việc thắt chặt chi tiêu, tăng thuế, giảm trợ cấp xã hội và hơn nữa là cải cách thể chế, thay đổi bộ máy quản lý, thay đổi các định hướng kinh tế Ngoài ra, việc lệ thuộc quá nhiều vào khoản vay nước ngoài cũng làm giảm vị thế của cuộc gia trong các mối quan hệ kinh tế song phương, đa phương với các quốc gia khác. Một điều đáng lo ngại nhất của khủng hoảng nợ công đó là làm tổn hại đến hệ số tín nhiệm quốc gia. Trong đó, hệ số tín nhiệm quốc gia là hệ số đánh giá khả năng thanh toán và khả năng tài chính của quốc gia đó đối với khoản tiền nghĩa vụ bao gồm gốc và lãi của các công cụ nợ mà chính phủ quốc gia đó phát hành. Nguyên nhân căn bản là do mất lòng tin của nhà đầu tư vào hệ thống tài chính quốc gia. Dấu hiệu của một cuộc khủng hoảng nợ là quốc gia đó vay nợ tràn lan, khả năng sử dụng vốn vay yếu kém, khoản cho vay không có khả năng thu hồi, các nhà đầu tư không thể đặt đồng tiền của họ vào những nơi không những không sinh lời mà còn có khả năng mất vốn. Do vậy, khả năng thu hút vốn đầu tư cũng như thực hiện các giao dịch thương mại với nước ngoài cũng trở nên khó khăn.
  32. 25 CHƯƠNG 2 : KHỦNG HOẢNG KHU VỰC ĐỒNG TIỀN CHUNG CHÂU ÂU 2.1.Diễn biến của khủng hoảng nợ công Châu Âu 2.1.1.Giai đoạn trước khủng hoảng nợ công 2010 2.1.1.1.Tình hình phát triển kinh tế từ năm 2002 đến 2009 2.1.1.1.1.Tăng trưởng GDP Tăng trưởng trung bình của các quốc gia trong khối eurozone từ năm 2001 đến năm 2007 là 3.1% . Để đánh giá được chất lượng cuộc sống của người dân, tăng trưởng GDP là chỉ tiêu thích hợp nhất phản ánh rõ mức sống của người dân mỗi quốc gia. GDP năm 2000 của khối sử dụng đồng tiền chung Châu Âu là 9208 tỉ USD. GDP của các nước trong khối sử dụng đồng tiền chung Châu Âu từ năm 2002 đến năm 2008 tăng trưởng đều đặn và đều tăng trưởng trên mức cao. Đặc biệt, trong năm 2006 và 2007 là 3,1% và 2,8 %. 2.1.1.1.2.Lạm phát Lạm phát là một chỉ số kinh tế vĩ mô quan trọng. Trong nhiều năm, ngân hàng trung ương Châu ÂU (ECB) đã thành công khi giữ mức lạm phát trong khu vực ở mức 2%/ năm. Đồng EURO là một ngoại tệ lớn trên thế giới và tạo cho Châu Âu một vị thế đáng kể trong giao dịch kinh tế thế giới. Hơn thế nữa, đồng Euro còn là biểu tượng hữu hình cho sự thống nhất khu vực. 2.1.1.1.3.Thất nghiệp Tình trạng thất nghiệp phản ánh mức sống của người dân. Trong những năm từ 2002 đến 2007, tình trạng thất nghiệp luôn ở mức thấp. Năm 2008, tỉ lệ thất nghiệp ở các nước Eurozone là 7,6%. 2.1.1.1.4. Đồng tiền chung Châu Âu – Euro Đồng tiền chung Châu Âu ra đời là một biểu tượng mới của liên minh kinh tế Châu Âu và nhận được sự đón nhận của các thành viên trong khối. Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, đồng euro đã khẳng định được những ưu thế của mình và trở thành một đồng tiền mạnh không những ở Châu Âu mà trên toàn thế giới. Bên cạnh đó, đồng euro đã khẳng định được sức mạnh của nó khi trở thành
  33. 26 ngoại tệ được sử dụng làm dự trữ của các quốc gia. Theo một bản nghiên cứu của ngân hàng trung ương châu Âu, tỷ lệ dự trữ ngoại hối toàn cầu bằng đồng euro tăng từ 13% trong năm 2001 lên 16,4% trong năm 2002 và 18,7% trong năm 2003. Tương ứng với sự tăng lên của đồng euro là sự giảm xuống của đồng USD , đồng thời là sự thay đổi về vai trò của USD kể từ khi euro ra đời. Cụ thể, tỷ lệ dự trữ ngoại hối bằng đồng USD trong năm 2001, 2002, 2003 giảm xuống còn 63,8% ; 67,5% và 64,5%. Trước hết, giá trị của một đồng tiền được tính dựa trên tổng giá trị hàng hóa sản xuất ra trong nước hay tổng sản phẩm quốc nội GDP. So sánh mức biến động của đồng euro cho thấy sự phát triển về kinh tế của khối eurozone trong suốt những năm qua. Khi mới được đưa vào lưu hành, 1 euro có giá trị tương đương với 1 USD. Đến năm 2008, 1euro đổi được 1,6 USD. Như vậy, đồng euro có giá trị gấp rưỡi so với thời kỳ mới ra đời. Điều đó có nghĩa là tổng sản phẩm quốc nội trong khối cũng tăng lên 1,5 lần. Năm 2009, đồng euro vẫn là đơn vị tiền tệ dự trữ lớn thứ hai thế giới, euro chiếm 27,3% dự trữ ngoại tệ toàn cầu, tăng 27% so với năm 2008. Trong khi đó, dự trữ ngoại hối bằng USD là 62,2% và Yên Nhật là 3%. Ngoài ra, tầm quan trọng của đồng euro còn được thể hiện qua các khía cạnh khác. Trong năm 1999, chỉ có 21,7% giấy nợ quốc tế được tính bằng đồng euro. Đến năm 2001 là 27,4% và năm 2003 là 33%. Trong cuối tháng 9 năm 2004, có trên 12000 tỷ USD trái phiếu và công trái được lưu hành trên thế giới. Trong đó, euro chiếm 5400 tỷ euro, tiếp theo là USD với 4800 tỉ USD và 880 tỷ đồng bảng Anh, 500 tỷ Yên Nhật và 200 tỷ Franc Thụy Sĩ. Như vậy, đồng USD đã chính thức mất vai trò chủ chốt trong trái phiếu và công trái có lãi suất cố định cũng như lãi suất thả nổi. Theo IMF, tính đến cuối năm 2008, chứng khoán nợ quốc tế bằng euro chiếm 32% trên toàn thế giới. Vai trò quan trọng của đồng euro còn được biểu hiện thông qua tỷ lệ tiền gửi bằng loại tiền này tại các quốc gia OPEC. Năm 2001, tỷ lệ tiền gửi bằng USD là 75% đến năm 2004 đã giảm xuống còn 61,5%. Trong khi đó, tỷ lệ tiền gửi bằng đồng euro tăng từ 12% lên đến 20% trong các năm đó. Trong năm 2003, tỷ lệ mua bán euro trên thị trường ngoại tệ là 25% , trong khi đó đồng USD là 50% và 10%
  34. 27 đối với hai loại tiền Bảng Anh và Yên Nhật. Vì vậy, đồng Euro đã trở thành đơn vị tiền tệ mạnh thứ hai trên thế giới. Nguyên nhân của có thể biến từ một đồng tiền mới ra đời mà euro lại có thể nhanh chóng khẳng định được vị thế của mình là bởi những yếu tố sau. Trước hết, đồng tiền chung Châu Âu đã giúp các thành viên giảm được chi phí giao dịch, tránh khỏi những phí tổn cũng như những rủi ro về chênh lệch tỷ giá. Điều này có lợi cho cả những giao dịch nội khối và những quốc gia, tổ chức khác muốn giao dịch kinh tế với eurozone. Lợi thế giảm chi phí giao dịch đã giúp tiết kiệm giá thành sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh cho nền kinh tế. Đồng euro cũng đã tạo nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp châu Âu nhằm giảm thiểu các khoản chi phí liên quan đến vô số các loại tiền mà doanh nghiệp phải trao đổi. Một đồng tiền duy nhất làm nổi bật sự chênh lệch giá giữa các nước và xóa bỏ được nạn đầu cơ ăn chênh lệch. Đồng euro ra đời kích thích thị trường vốn phát triển. Nguyên nhân là do chi phí giao dịch giảm làm giảm lãi suất trên thị trường tiền tệ, kích thích đầu tư. Bên cạnh đó, rủi ro tỷ giá không còn khiến quyết định của nhà đầu tư đơn giản hơn rất nhiều. Đồng euro còn xem như một loại bảo hiểm vô hình cho công trái của chính phủ. Bởi nếu đồng euro càng mạnh thì sẽ càng ít chịu tác động của biến động tỷ giá, luân chuyển vốn tư bản và khủng hoảng thanh khoản từ các quốc gia bên ngoài. Do vậy, mức độ ổn định của đồng euro sẽ giúp ổn định nền kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, bất chấp sự di chuyển của các dòng vốn vào ra. 2.1.1.2. Những dấu hiệu của khủng hoảng nợ công Châu Âu 2010 2.1.1.2.1.Tăng trưởng GDP Bảng 2.1: Tăng trưởng GDP thực tế từ năm 2000 đến 2010 ( % thay đổi so với năm trước) Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 EU-27 3.9 2.0 1.2 1.3 2.5 2.0 3.3 3.0 0.5 -4.3 1.8 Euro area 3.8 1.9 0.9 0.8 2.2 1.7 3.1 2.8 0.4 -4.2 1.8 Japan 2.9 0.2 0.3 1.4 2.7 1.9 2.0 2.4 -1.2 -6.3 4.0 Mỹ 4.1 1.1 1.8 2.5 3.5 3.1 2.7 1.9 -0.3 -3.5 3.0 Nguồn: Eurostat
  35. 28 Nhìn vào bảng số liệu ở trên, tăng trưởng GDP của các nước khối Eurozone tăng đều đặn từ năm 2002 đến 2008. Tuy nhiên, đến năm 2009, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, tăng trưởng GDP của các nước sử dụng đồng euro đã giảm xuống (-4,2%). Đây là lần đầu tiên trong 10 năm kể từ khi đồng euro được đưa vào sử dụng, tăng trưởng GDP của các quốc gia này giảm sút nghiêm trọng như vậy.Lý do khiến các quốc gia này tăng trưởng âm một phần là do tỷ lệ nợ công quá cao của các quốc gia thành viên.Đến năm 2010, mức tăng trưởng GDP đã phần nào được cải thiện với mức 1,8%. Tuy nhiên, mức tăng trưởng này cũng không giúp được khủng hoảng nợ xảy ra ở các nước này đang ngày một lan rộng. 2.1.1.2.2. Lạm phát Hình 2.1: Tỷ lệ lạm phát tại eurozone từ 1999 đến 2010 Tỷ lệ lạm phát(%) tại eurozone 14 11.8 12 10 8 Tỷ lệ lạm phát(%) 6 3.7 4 3.1 2.5 2.5 1.7 2 2 1.9 1.7 2 1 0.9 0 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 Nguồn : ECB Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, các nước trong cộng đồng Châu Âu đã giữ vững được mức lạm phát thấp trong khoảng dưới 3% trong những năm 2002 đến 2008. Tuy nhiên, trên thực tế, mức lạm phát của các quốc gia này ở mức 3,7% vào năm 2008. Vào năm 2009, tỉ lệ lạm phát là 0,9% và năm 2010 là 1,1%.
  36. 29 2.1.1.2.3.Thất nghiệp Hình 2.2: Tỷ lệ thất nghiệp tại eurozone năm 2000 đến 2010 Tỷ lệ thất nghiệp (%) 12 10.1 9.6 10 9 9.1 8.5 8.8 8.5 8.1 8.4 8 7.6 7.6 6 Tỷ lệ thất nghiệp (%) 4 2 0 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 Nguồn: Eurostat Năm 2009, tỉ lệ thất nghiệp là 9,9% và năm năm 2010 là 31,4 % tổng lượng lao động. Trong khi đó, quý 3 năm 2011 là 10,2% ; quý 4 năm 2011 là 4,5% . Tỷ lệ thất nghiệp dài hạn trung bình là 4,5 % trong năm 2011. Như vậy, tỷ lệ thất nghiệp trong năm 2010 của các nước này khá cao, phản ánh kinh tế tăng trưởng trì trệ, lạm phát tăng cao. Tỉ lệ thất nghiệp ngày càng gia tăng là dấu hiệu cho thấy nguy cơ của khủng hoảng nợ sắp xảy ra. Khi các công ty và doanh nghiệp không thể vay vốn để mở rộng hoặc tiếp tục sản xuất, khi nhu cầu về hàng hóa giảm do mức sống của dân chúng giảm, thì việc cắt giảm nhân lực là việc làm tất yếu. 2.1.1.2.4. Nợ công của các nước Eurozone Nợ chính phủ của các nước trong khối eurozone năm 2007 là 58,7%. Trong năm 2008 là 61,5%. Đến năm 2009, 2010, 2011, con số này tăng vọt lên mức 73% , 79,3% và 83,7% tương ứng. Tuy nhiên, con số nợ trên cao hay thấp cũng chưa đủ bằng chứng để thấy rằng liệu có xảy ra một cuộc khủng hoảng hay không? Tình trạng nợ công ở Nhật Bản là một ví dụ điển hình cho việc tỉ lệ nợ công cao nhưng chưa xảy ra khủng hoảng nợ công. Nợ công ở Nhật Bản hiện nay đã gấp 2 lần tổng sản phẩm quốc nội, với tỉ lệ nợ cao hơn Hi Lạp đến 50%. Tuy nhiên, điều
  37. 30 đáng nói ở đây là 95% nợ công của Nhật Bản nằm trong tay các nhà cho vay nội địa, nên Tokyo vẫn chưa trải qua một cuộc khủng hoảng nợ công như Hi Lạp đã trải qua năm 2010. Trong khi đó, các nhà đầu tư nước ngoài hiện không có phương tiện gây áp lực buộc chính phủ Nhật Bản phải tiến hành tu bổ ngành tài chính.Trên thực tế, mặc dù có tỉ lệ nợ công cao nhưng thế mạnh của Nhật Bản là tiết kiệm nội địa vẫn đủ sức để bù đắp cho những chi tiêu hoang phí. Bên cạnh đó, giá trị của đồng euro cũng bị sụt giảm nghiêm trọng kể từ năm 2010. Trước cuộc khủng hoảng nợ công, đồng euro đã từng lấn át vị thế của USD, tiếp đó là khi khủng hoảng thị trường cho vay dưới chuẩn của Mỹ khiến cho tỷ trọng USD và euro được thu hẹp trong tỷ lệ dự trữ ngoại hối toàn cầu. Tuy nhiên, khi khủng hoảng nợ công xảy ra làm suy yếu giá trị của đồng euro. Cụ thể, dự trữ ngoại tệ toàn cầu tính bằng đồng euro so với USD năm 2008 đến 2011 lần lượt là 41,3% ; 43,1% ; 42,6% và 44,1%. Tỷ giá hối đoái giữa Euro và USD từ năm 2008 đến năm 2011 là 1,47 ; 1,39 ; 1,33 ; 1,40. Như vậy trong năm 2010, giá trị đồng euro bị sụt giảm nghiêm trọng nhưng đến năm 2011, đồng tiền này đang trên đà phục hồi. 2.1.2. Giai đoạn khi khủng hoảng nợ công 2010 bùng nổ đến nay. Năm 2010, thâm hụt ngân sách chính phủ khu vực đồng euro là 6,2%, con số này năm 2009 là 6,4%. Điều này được lý giải vì năm 2010, Hy Lạp đã dùng nhiều biện pháp để giảm thâm hụt ngân sách cũng như trả nợ nước ngoài. Cũng trong năm 2009, nợ chính phủ trong khu vực này là 79,8% và năm 2010 là 85,4%. Trong đó, thâm hụt ngân sách năm 2010 của Ireland là (-31,3% ), Hy Lạp là (-10,6% ), Bồ Đào Nha là (-9,8%). Năm 2011, thâm hụt ngân sách của 17 quốc gia thuộc khối eurozone là 4,1% GDP, nợ chính phủ là 87,2% GDP. Trong đó, cổ phiếu chiếm 79,3% nợ chính phủ, công trái chiếm 18%, tiền mặt cũng như tiền gửi ngân hàng chiếm 2,8%. Năm 2012: thị trường chứng khoán đã có những dấu hiệu khả quan, kinh tế khu vực eurozone đã dần đi vào ổn định. Lãi suất thị trường nội địa đã hạ nhiệt. Cụ thể, lãi suất 3 tháng trong quí 1năm 2012 có xu hướng giảm . Tháng 1/2012, lãi suất 3 tháng là 1,22%, trong tháng 2 và tháng 3, lãi suất này lần lượt là 1,05% và 0,86%.
  38. 31 Trong khi đó, trái phiếu chính phủ dài hạn cũng giảm lãi suất trong 3 tháng đầu năm tương ứng như sau: 4,69%; 4,65% ; 4,06%. 2.1.2.1. Khủng hoảng nợ công tại Hy Lạp Hy Lạp được biết đến là quốc gia nằm trong khối OECD với GDP đứng thứ 27 trên thế giới với 315 tỷ USD, có dân số trên 11 triệu người, thu nhập bình quân đầu người đạt mức cao 30035 USD/ năm. Từ lúc bắt đầu tham gia đồng tiền chung Châu Âu vào giữa năm 2001 đến 2008, thâm hụt ngân sách trung bình hàng năm của Hy Lạp khoảng 5%, trong khi đó toàn khu vực là 2%. Hy Lạp đang đối mặt với 2 vấn đề nghiêm trọng là thâm hụt ngân sách và thâm hụt cán cân vãng lai. Năm 2009, nợ công của Hy Lạp là 300 tỷ euro chiếm 124% GDP, trong khi đó kinh tế đang tăng trưởng âm. Nợ đến hạn trong năm 2010 là 73 tỷ euro, trong khi đó nợ còn hạn là 400 tỷ USD. Tháng 12/2009: cuộc khủng hoảng nợ công bắt đầu. Dấu hiệu đầu tiên là khi thủ tướng mới của đảng xã hội Hy Lạp thông báo về tình trạng thâm hụt ngân sách thực tế của nước này. Theo như công bố này, thâm hụt ngân sách thực tế của nước này là 12,7%GDP, gấp 4 lần so với con số công bố ban đầu là 3,7%, cũng như giới hạn cho phép của một quốc gia sử dụng đồng tiền chung Châu Âu là 3%. Bảng dưới đây cho thấy thâm hụt ngân sách và tỷ lệ nợ công của Hy Lạp trong tương quan với một số quốc gia Châu Âu tiểu biểu trong năm 2009. Bảng 2.2: Thâm hụt ngân sách và tỷ lệ nợ công ở một số quốc gia Thâm hụt ngân sách Quốc gia Nợ công (%GDP) (%GDP) Hy Lạp -15,4 126,8 Ireland -14,4 65,5 Anh -11,4 53,2 Tây Ban Nha -11,1 53,2 Bồ Đào Nha -9,3 76,1 Đức -3 73,4 Nguồn: Eurostat.
  39. 32 Nhiệm vụ năm 2010 của Hy Lạp khá nặng nề khi phải đối mặt với khoản nợ đáo hạn 73 tỷ euro trong khi đó vào tháng 4, tháng 5 năm nay sẽ có 27 tỷ USD đáo hạn. Trước tình hình nền kinh tế nội địa không còn khả năng chi trả, vay nước ngoài vô cùng khó khăn thì Hy Lạp phải cần đến sự trợ giúp của cộng đồng quốc tế cũng như tăng cường hoạt động trên thị trường mở. Ngày 29/3 và 30/3: Để tài trợ cho khoản thâm hụt ngân sách khổng lồ này, Hy Lạp đi vay trên thị trường tài chính quốc tế tuy nhiên đã không đạt được những kết quả đáng mong đợi khi khoản tiền thu về sau 2 ngày bán trái phiếu chỉ là 5,4 tỷ euro. Với cung trái phiếu quá cao, cầu giảm do những bất ổn về kinh tế, chính trị của quốc gia này, lãi suất trái phiếu Hy Lạp liên tục tăng cao. Đối với trái phiếu chính phủ kỳ hạn 2 năm, lãi suất vào tháng 1 là 3,47% trong khi ðó, vào tháng 7, lãi suất này đã tăng lên 9,73%. Tháng 5/2010: trước tình hình Hy Lạp phải chính thức đệ đơn xin gói cứu trợ trị giá 110 tỷ euro vào tháng 4, EU và IMF đã đồng ý gói cứu trợ trị giá 110 tỷ euro trong vòng 3 năm. Trong đó, các nước EU sẽ đóng góp 80 tỷ euro, còn lại do IMF đảm nhận. Lãi suất của khoản vay là 5,2%. Ngày 10/5/2010: EU lập quỹ cứu trợ khổng lồ trị giá 750 tỷ euro để hỗ trợ tài chính cho các quốc gia trong khu vực đồng thời là tiền đề ngăn chặn khủng hoảng nợ công trong khu vực và vực dậy đồng euro. Quỹ cứu trợ khẩn cấp này bao gồm 440 tỷ euro từ các nước thuộc khối eurozone, 60 tỷ euro từ ủy ban Châu Âu (ECB), và 250 tỷ euro của quỹ tiền tệ quốc tế IMF. Tại thời điểm đó, số tiền này tương ứng với 1000 tỷ USD. Vai trò của quỹ bình ổn trên nhằm để cho vay khẩn cấp, cứu trợ và cung cấp các khoản tín dụng cho các nước có nguy cơ vỡ nợ. Sau một năm kể từ tháng 12 năm 2009, thâm hụt ngân sách nước này vẫn ở mức 10,5% GDP thay vì 9,4% như cam kết ban đầu. Một lần nữa, Hy Lạp lại đứng trước nguy cơ vỡ nợ khi nợ công nước này đạt đến mức 328,6 tỷ euro đến hết năm 2010, chiếm 142,8% GDP. Năm 2011: Vào ngày 21/7/2011: lãnh đạo các nước thành viên eurozone đã thống nhất dành cho Hy Lạp gói cứu trợ thứ 2 trị giá 158,6 tỷ euro nhằm giúp nước này thoát khỏi nguy cơ vỡ nợ. Trong tổng số 158,6 tỷ euro này có 109 tỷ euro đến từ các nước thành viên khối eurozone và Quỹ tiền tệ thế giới IMF, trong đó 49,6 tỷ euro còn lại
  40. 33 do khu vực tư nhân đóng góp. Bên cạnh đó, quỹ ổn định tài chính Châu Âu ( FESF) cũng tuyên bố sẽ kéo dài thời gian trả nợ của Hy Lạp. Trên thực tế, kế hoạch giải cứu này cũng không giúp được Hy Lạp nhiều trong việc giảm thâm hụt ngân sách và cán cân vãng lai. Thâm hụt ngân sách của Hy Lạp là 9,6% GDP và tỷ lệ nợ công là 156,8% GDP. Những con số trên cho thấy tình trạng nợ công của Hy Lạp ngày càng trầm trọng mặc dù Hy Lạp cũng như cộng đồng quốc tế đã nỗ lực hết sức. Trong 3 năm qua, kể từ năm 2009 đến 2011, nợ công của Hy Lạp tăng khoảng 59 tỷ euro, lạm phát tăng cao dẫn đến những bất ổn về kinh tế, chính trị. Vì vậy, năm 2012 là một thách thức lớn đối với quốc gia này. Hình 2.3: Tỷ lệ nợ công trên GDP của Hy Lạp từ 2009 đến 2011 tỷ lệ nợ công/GDP của Hy Lạp 200.00% 150.00% tỷ lệ nợ 100.00% công/GDP 50.00% 0.00% 2009 2010 2011 Năm 2012 Vào tháng 3 năm nay, Hy Lạp phải trả khoản nợ trị giá 14,5 tỷ euro và phải sử dụng đến gói cứu trợ trị giá 130 tỷ của EU, IMF và ECB. Mặc dù vào ngày 21/7/2011, quỹ ổn định tài chính Châu Âu thông qua gói cứu trợ 158,6 tỷ euro nhưng cuối cùng vào ngày 14/3/2012, các tổ chức này đã phê duyệt gói cứu trợ thứ 2 dành cho Hy Lạp trị giá 130 tỷ euro. Trong gói cứu trợ thứ nhất, Hy Lạp dùng để chi trả lãi. Đối với khoản cứu trợ lần 2 này, 2/3 trong tổng số tiền được cứu trợ cũng dùng để trả lãi nhằm tránh nguy cơ vỡ nợ chứ không thể vực dậy nền kinh tế. Điều này giải thích vì sao GDP của Hy Lạp sụt giảm liên tiếp trong 4 năm và năm 2011 giảm 6% so với năm trước. Theo dự báo của IMF, GDP năm 2012 sẽ tiếp tục giảm 4%. 2.1.2.2.Ireland
  41. 34 Năm 2008, thâm hụt ngân sách của Ireland là 7,35%GDP, năm 2009 là 14,3%GDP. Tỷ lệ nợ công trên GDP của nước này trong năm 2007, 2008, 2009 lần lượt là 25,4% ; 43,9% ; 64,5%. Đến năm 2010, tỷ lệ này là 98,5% - đứng thứ 11 trong số các quốc gia có tỷ lệ nợ công cao nhất thế giới.( nguồn: ECB) Khủng hoảng nợ công ở Ireland đã chính thức được công bố khi Ireland cầu cứu liên minh Châu Âu và quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) để vay 80- 90 tỷ euro để giải quyết những bất ổn trong hệ thống ngân hàng. Vậy là sau Hy Lạp, Ireland đã trở thành quốc gia thứ hai trong eurozone rơi vào khủng hoảng nợ. Nếu như khủng hoảng nợ công tại Hy Lạp xảy ra là do quản lý nợ công kém thì Ireland có chính sách quản lý nợ công tốt hơn. Mức nợ của Ireland chỉ chiếm 70% GDP tuy nhiên mức thâm hụt ngân sách của nước này mang lại cao tương đương với Hy Lạp mà nguyên nhân là bởi Ireland đã bỏ tiền ngân sách ra để cứu trợ cho một số ngân hàng trong nước. Hành động cứu trợ bao gồm quốc hữu hóa ngành ngân hàng và chi tiền để tái cấp vốn cho một số ngân hàng trong nước. Các ngân hàng trong nước đang phải gánh quá nhiều nợ xấu sau khi đã tăng cho vay quá mức trong thời kỳ kinh tế tăng trưởng mạnh và bong bóng bất động sản phình to. Khi thị trường bất động sản sụp đổ, các khoản cho vay bất động sản trở thành những khoản nợ xấu và ngân hàng đứng trước nguy cơ sụp đổ vì không có khả năng thu hồi vốn. Tương tự như trường hợp của Mỹ, chính phủ Ireland phải cứu hệ thống ngân hàng theo các riêng của mình. Đó là tạo ra một định chế tài chính mới gọi là NAMA(National Asset Management Agency) để nhận hầu hết tất cả các khoản nợ xấu của ngân hàng lớn. Trước tình hình hệ thống ngân hàng có nguy cơ sụp đổ, các tổ chức xếp hạng tín nhiệm như S&P đã hạ bậc tính nhiệm dài hạn của Ireland từ A-1+ xuống A-1 bởi Ireland đã vay mượn quá nhiều tiền để bơm vào hệ thống ngân hàng. Cũng trong tháng 11 năm 2011, chính phủ Ireland cũng chính thức đưa ra kế hoạch mang tên “ Kế hoạch khôi phục quốc gia” để ngăn chặn nguy cơ cuộc khủng hoảng nợ công có thể đẩy nền kinh tế đến trạng thái vỡ nợ. Đây cũng là điều kiện tiên quyết để Ireland nhận được sự cứu trợ từ quỹ bình ổn tài chính Châu Âu. Theo như kế hoạch này, Ireland phải cắt giảm chi tiêu 2,8 tỷ euro, tăng thuế thu nhập Nếu như
  42. 35 chương trình này được thực hiện đúng kế hoạch thì đến năm 2012, nước này sẽ tiết kiệm được 15 tỷ euro nhằm trang trải cho nợ nần. Với những nỗ lực của mình, các nước EU đã thông qua gói cứu trợ trị giá 85 tỷ euro cho Ireland thoát khỏi nguy cơ vỡ nợ. Gói cứu trợ này nhằm giải quyết những khó khăn trong ngành ngân hàng mà Ireland đang gặp phải. Số tiền 85 tỷ euro được sử dụng như sau: 10 tỷ euro chi cho việc tái huy động vốn khẩn cấp để đảm bảo thanh khoản cho hệ thống ngân hàng. 25 tỷ euro để hỗ trợ ngân hàng trong trường hợp khẩn cấp, 50 tỷ euro để cắt giảm chi tiêu ngân sách của nước này. Nếu như Hy Lạp được cứu trợ 2 lần với số tiền là 110 tỷ euro và 130 tỷ euro thì Ireland phải lấy từ nguồn vốn đệm của ngân hàng và quỹ dự trữ lương hưu 17,5 tỷ euro để trang trải cho khoản thâm hụt ngân sách. Điều này cho thấy, tình hình tài chính của Ireland khả quan và sáng sủa hơn Hy Lạp và vẫn còn nguồn dự trữ để trả nợ. Phần còn lại 85 tỷ euro được chia đều cho quỹ bình ổn tài chính Châu Âu và IMF. Khoản vay này có lãi suất là 5,83% cao hơn mức lãi suất này dành cho Hy Lạp là 5,2%. Do thị trường tài chính gặp nhiều bất ổn, giá trái phiếu giảm sâu, lãi suất tăng cao. Tại Ireland, giá trái phiếu giảm trong khi lãi suất trái phiếu chính phủ thời hạn 10 năm đã lên tới 9,17%. Mức lãi suất tăng cao càng chứng tỏ sự bất ổn của nền kinh tế đó. Nếu như so sánh lãi suất trái phiếu chính phủ Đức, lãi suất của Ireland cao hơn 619 điểm cơ bản tức 6,19% . Vào ngày 11/11/2010, mức chênh lệch là 6,52%. Tính đến đầu năm 2010, tổng số tiền viện trợ mà Ireland nhận được là 113 tỷ USD, nhưng dường như những nỗ lực giải cứu Ireland vẫn chưa đem lại hiệu quả. Trong năm 2011, với những cứu trợ từ quốc tế và nỗ lực cắt giảm chi tiêu của chính phủ, Ireland đã giảm được thâm hụt ngân sách và tăng trưởng GDP. Cụ thể như sau, tăng trưởng GDP của Ireland trong 3 quý đầu năm 2011 là 1,8% ; 1,9% ; 1,6%.Tăng trưởng trong cả năm chỉ đạt mức 1%. Thâm hụt cán cân vãng lai trong quý 2 và 3 là 8,2% GDP và 10,3% GDP. Nợ chính phủ của Ireland quý 2 là 102,3% GDP và quý 3 là 104,9% GDP, nợ chính phủ trong cả năm chiếm tới 107%GDP ( nguồn: Eurostat) . Như vậy, mặc dù nợ chính phủ chưa giảm về mức yêu cầu đối với các quốc gia sử dụng đồng tiền chung Châu Âu là dưới 60% nhưng Ireland đã giảm được tỷ lệ nợ công đáng kể. Có được kết quả này là nhờ Ireland đã cam kết và tuân thủ nghiêm túc những điều kiện ràng buộc của gói cứu trợ mà liên
  43. 36 minh Châu Âu dành cho. Việc cải cách đúng hướng góp phần giúp thâm hụt ngân sách của Ireland về mức 10,6% GDP. đây cũng là tín hiệu tốt để Ireland tiếp tục nhận gói cứu trợ vào tháng 1 năm 2012 trị giá hơn 4 tỷ euro. Hình 2.4. Tỷ lệ nợ công trên GDP của Ireland từ 2009 đến 2011 tỷ lệ nợ công/GDP của Ireland 120.00% 100.00% 80.00% 60.00% tỷ lệ nợ công/GDP 40.00% 20.00% 0.00% 2009 2010 2011 Năm 2012: Tháng 3/2012: Ireland thỏa thuận tham gia chương trình hoán đổi nợ đáo hạn lấy trái phiếu chính phủ dài hạn. Theo nhận định của các chuyên gia kinh tế, năm 2012 có thể Ireland sẽ chìm trong suy thoái. Tãng trýởng GDP của nýớc này là 0,5% thay vì 1,8% như dự báo trước đó. 2.1.2.3. Tây Ban Nha Tiếp theo Hy Lạp, những con số khổng lồ về nợ công của chính phủ Tây Ban Nha đã được phanh phui. Mặc dù cùng rơi vào vòng xoáy tài chính như Hy Lạp nhưng vấn đề nước này gặp phải không phải do chi tiêu quá tay mà do thị trường bất động sản và tỷ lệ thất nghiệp tăng cao. Bất động sản được coi là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng nợ công tại Tây Ban Nha. Theo số liệu thống kê, giá trị bất động sản ở Tây Ban Nha đã tăng lên 200% kể từ năm 1985 đến nay. Năm 2008 xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã tác động không nhỏ đến thị trường bất động sản của nước này, khiến cho thị trường bất động sản dễ vỡ hơn bao giờ hết. Trong thời kỳ thị trường nhà đất phát triển, các ngân hàng tăng cho vay và coi đây như một khoản lợi khổng lồ mà không xem xét đến các khoản vay dưới chuẩn. Trong đó, có những khoản vay với thời hạn dài đến 40, 50 năm. Chính vì vậy, khi thị trường bất động sản bị khủng hoảng, các
  44. 37 ngân hàng không còn khả năng thu hồi vốn. Không chỉ ảnh hưởng đến hệ thống ngân hàng, khủng hoảng thị trường nhà đất còn ảnh hưởng đến thị trường lao động nước này. Tỷ lệ các công trình xây dựng giảm đồng nghĩa với việc tỷ lệ thất nghiệp tăng cao. Năm 2010: Ngân hàng trung ương Tây Ban Nha công bố tỷ lệ nợ công nước này năm 2010 là 639 tỷ euro, tăng 6,8% so với năm 2009. Đây là tỷ lệ nợ công cao nhất của nước này kể từ năm 1999. Tỷ lệ thất nghiệp tính đến quý 3 năm 2010 là 7,4% trong tổng số lao động tính từ 20 tuổi đến 64 tuổi. Năm 2011: tăng trưởng GDP đạt mức 0,8% GDP. Nợ công đạt mức 68,2% GDP, thâm hụt ngân sách ở mức 8,5% GDP vượt mục tiêu đề ra là 6%. Đồng thời, ngân hàng trung ương nước này cũng cho biết, tỷ lệ nợ xấu tại các ngân hàng nước này đã tăng hơn 6,1% lên mức 110,7 tỷ euro, cao nhất trong 16 năm qua. Nguyên nhân chủ yếu do tỷ lệ thất nghiệp tăng gia tăng khiến nhiều người dân không thể thanh toán nợ đúng hạn. Năm 2012: chính phủ hướng tới mục tiêu giảm thâm hụt ngân sách về mức 6% trong năm 2012. Tuy nhiên với mức thâm hụt hiện năm 2011 là 8,5% thì có thể mục tiêu này sẽ khó đạt được. Ủy ban Châu Âu dự báo rằng các khoản nợ của Tây Ban Nha sẽ tăng lên gấp đôi tới 78% GDP trong năm 2012. Quỹ tiền tệ thế giới cũng dự báo nền kinh tế này sẽ thu hẹp 1,7% trong năm nay. 2.1.2.4. Một số nước khác 2.1.2.4.1.Bồ Đào Nha Thâm hụt ngân sách Bồ Đào Nha năm 2010 chiếm đến 8,6% GDP cao hơn mục tiêu ban đầu là 7,3%. Năm 2011 Tăng trưởng GDP của Bồ Đào Nha liên tục tăng trưởng âm trong 3 quý đầu với các con số : -0,6% ; -0,2% ; -0,6%. Trong cả năm, nước này vẫn đang giữ mức tăng trưởng âm -2,2%. Thâm hụt cán cân vãng lai của nước này trong quý 2 và quý 3 năm 2011 lần lượt là 9% GDP và 3,8% GDP. Nợ chính phủ trong năm là 103,3% GDP. Thâm hụt ngân sách trong năm là 4,5%GDP. Chính phủ đã giảm được mức
  45. 38 thâm hụ ngân sách từ mức 10,1% năm 2009 về 4,5% năm 2011. Điều này cho thấy những nỗ lực của Bồ Đào Nha trong việc giải quyết khủng hoảng nợ đang lan rộng. Đồng tệ thời, vào tháng 5 năm 2011, EU và IMF cũng đã thông qua gói cứu trợ tài chính lên tới 78 tỷ euro trong 3 năm để hỗ trợ cải cách và phục hồi kinh tế. Để đổi lấy gói cứu trợ này, Bồ Đào Nha cũng phải thực hiện các biện pháp khắc khổ trong đó có cả việc bán các công ty quốc doanh và cải cách thị trường lao động. Năm 2012: cũng giống như Hy Lạp, chính phủ Bồ Đào Nha phải cắt giảm chi tiêu và duy trì tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên muốn thúc đẩy kinh tế cần có vốn. Trong khi đó, cắt giảm chi tiêu khiến cho lượng vốn càng trở nên hạn hẹp. Lãi suất trái phiếu chính phủ không ngừng tăng lên , bất ổn kinh tế, xã hội ngày càng nghiêm trọng. 2.1.2.4.2. Italia Theo như tính toán GDP, Italia được xếp hạng là nền kinh tế đứng thứ 7 thế giới năm 2006 và được xếp vào nhóm OECD. Tuy nhiên, những số liệu mới đây mà Italia mới công bố cho thấy những lo ngại về thực lực quốc gia này. Là quốc gia đứng thứ 3 trong khối eurozone với thị trường trái phiếu chính phủ lớn nhất khu vực tương được với khoản nợ 120% GDP. Thâm hụt cán cân vãng lai của Italia vào quý 2 , quý 3 năm 2011 là 3,4% GDP và 2,7% GDP. Tăng trưởng GDP của nước này năm 2011 là 0,4% GDP. Thâm hụt ngân sách là 3,6% GDP và tỷ lệ nợ công là 120%GDP. Tình trạng thất nghiệp tăng từ 6,2% năm 2007 lên mứ 8,4% năm 2011. Năm 2012: khoản nợ khổng lồ mà nước này phải trả là 1900 tỷ euro trong đó 300 tỷ euro sẽ đáo hạn trong năm nay, chiếm 16% khoản nợ khổng lồ đó. Hiện tại, Italia đang phải đối mặt với cuộc suy thoái kinh tế khi các nhà đầu tư nước ngoài nhận thấy sự bất ổn định trong thị trường lao động cũng như việc tăng các biểu thuế tràn lan. 2.1.2.4.3.Bỉ Bỉ là quốc gia lớn thứ 6 trong khối sử dụng đồng tiền chung Châu Âu, tỷ lệ nợ công cao ở Bỉ cũng là một điều đáng lo ngại. Năm 2010: nợ công của nước này đạt mức 96,2% GDP chỉ đứng sau Hy Lạp và Italia trong khối eurozone.
  46. 39 Năm 2011: tính đến hết năm 2011, GDP của nước này tăng 2,04% so với năm 2010. Tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống còn 7,7% so với mức 8,3% trong năm 2010. Thâm hụt ngân sách giảm 4,2% GDP so với mức 6% năm 2009. Nợ chính phủ ở mức 99,7% GDP. Tỷ lệ nợ công tăng cao do nhà nước dùng ngân sách bơm vốn cho 3 ngân hàng lớn nhất nước này tránh nguy cơ sụp đổ hệ thống ngân hàng. Năm 2012: nhiệm vụ trong năm 2012 của Bỉ là tiết kiệm 1,47 tỷ euro và dự trữ thêm 500 triệu euro nữa. Đồng thời, chính phủ Bỉ cũng cam kết đưa mức thâm hụt ngân sách từ 3,8% về mức 2,8% trong năm nay. Về tăng trưởng kinh tế, các nhà kinh tế dự đoán nền kinh tế này sẽ chỉ tăng trưởng 0,1% trong năm nay. 2.2. Nguyên nhân của khủng hoảng nợ công Châu Âu 2010 2.2.1. Nguyên nhân chủ quan 2.2.1.1.Cơ chế quản lý các thành viên lỏng lẻo Trước hết, các nhà lãnh đạo Châu Âu đã quá nôn nóng trong việc nhất thể hóa khu vực bằng cách sử dụng một đơn vị tiền tệ chung. Với tham vọng như vậy, việc kết nạp thêm các quốc gia trở nên dễ dàng hơn. Lợi dụng điều này, Hy Lạp đã vội vàng xin gia nhập Cộng đồng Châu Âu và sau đó là gia nhập vào khối eurozone. Đối với Hy Lạp, việc gia nhập khu vực đồng tiền chung châu Âu không chỉ mang lại lợi ích về kinh tế mà còn cả về chính trị. Bởi nếu như được trở thành thành viên của eurozone, nước này sẽ tránh được tình trạng đầu cơ tiền tệ, nhờ vậy, nền kinh tế sẽ phát triển ổn định, tránh được rủi ro. Bên cạnh đó, Hy Lạp sẽ được ưu đãi về lãi suất, được sử dụng nguồn vốn tín dụng lãi suất thấp. Cùng với Đức, do mức ảnh hưởng của siêu lạm phát từ chiến tranh nên nước này muốn đưa ra điều kiện khắt khe đối với những nước sử dụng đồng tiền chung với nước này.Vào tháng 12/1996, các quy định cho việc tham gia sử dụng đồng euro ngày càng ngặt nghèo với Hiệp ước bình ổn được thông qua. Hiệp ước này ngầm quy định thành viên nào của Eurozone vi phạm các quy định tiêu chuẩn về lạm phát, nợ công, sẽ phải chịu mức phạt nặng nề. Điều này khiến cho Hy Lạp không thể tham gia bởi chính sách tài khóa và tiền tệ của nước này khá lỏng lẻo. Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có bất kỳ một quốc gia nào bị phạt ngay cả Hy Lạp.
  47. 40 Tại thời điểm đó, có nhiều ý kiến cho rằng Hy Lạp chưa đủ điều kiện để tham gia nhưng với quan điểm của những người muốn mở rộng khối rằng kết nối các quốc gia bị xem là có nền dân chủ mong manh như Hy Lạp, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha là cách tốt nhất để cải thiện nền dân chủ ở các nước này. Đồng thời, Hy Lạp cố gây áp lực và cuối cùng đã được tham gia vào khối eurozone. Khi đó, trên giấy tờ, Hy Lạp cho thấy họ đã cắt giảm được thâm hụt ngân sách. Và dù chưa giảm được nợ tới mức tiêu chuẩn nhưng nước này cũng nhấn mạnh đến một số tiền lệ trước như Italia, Bỉ vẫn được tham gia Eurozone khi chưa đáp ứng được đòi hỏi về mức nợ chính phủ. Tính đến thời điểm hiện tại, chính những nước lớn trong eurozone đã vi phạm các quy định về tài khóa. Năm 2002, 2003, 2004, ngay cả Đức và Pháp đã không tuân thủ được các điều khoản về thâm hụt ngân sách, tạo ra tiền lệ nguy hiểm. Tới năm 2004, việc Hy Lạp công bố số liệu kinh tế giả mạo đã rõ ràng. Mặc dù cơ quan thống kê Châu Âu ( Eurostat) thu thập đầy đủ bằng chứng về gian lận của nước này nhưng các quan chức Châu Âu vẫn tuyên bố rằng sẽ không trục xuất Hy Lạp khỏi eurozone. Với việc gia nhập dễ dàng, phá bỏ những quy định ngặt nghèo trong khối, Hy Lạp thay vì cắt giảm chi tiêu lại tiếp tục chi tiêu lãng phí và hơn nữa là giấu tình hình tài chính thực cho đến tháng 12/2009. Ngoài ra, Hy Lạp hiện là một trong những quốc gia có tỷ lệ tham nhũng cao nhất EU. Theo tính toán hàng năm, nạn tham nhũng ở Hy Lạp lấy đi khoảng 10% GDP của nước này. Với sự tham gia khối eurozone dễ dàng, sử dụng nguồn tín dụng giá rẻ là một phần lý do khiến nạn tham nhũng tăng lên một cách chóng mặt. Chỉ tính trong vòng 3 thập kỷ kể từ khi tham gia eurozone, nước này đã nhận được 300 tỷ euro tiền trợ cấp từ EU. Có thể nói, việc trợ cấp của EU giống như đòn bẩy khiến nạn tham nhũng ở Hy Lạp tăng cao như vậy. Và khi Hy Lạp rơi vào khủng hoảng thì người gánh chịu hậu quả chính là Eurozone. Như vậy, tham vọng nhanh chóng biến châu Âu thành một khối kinh tế thống nhất đã khiến các nhà lãnh đạo EU mắc sai lầm lớn khi những tiêu chuẩn đặt ra không được thực hiện nghiêm túc cho đến khi các bản thân các quốc gia không thể tự giải quyết được khoản nợ công quá lớn khiến khủng hoảng nợ công bùng nổ tại khu vực này.
  48. 41 2.2.1.2. Thâm hụt ngân sách Thâm hụt ngân sách nhà nước bắt nguồn từ khả năng quản trị tài chính công yếu kém trong nước với những khoản chi tiêu chính phủ quá lớn. Nguyên nhân dẫn đến thâm hụt ngân sách do tiết kiệm trong nước thấp, đầu tư công cao. Theo thống kê của Eurostat, tiết kiệm trong nước của Hy Lạp chỉ ở mức 11%, thấp hơn nhiều so với mức 20% của Italia, Bồ Đào Nha và còn có xu hướng sụt giảm nghiêm trọng. Do vậy, đầu tư trong nước phụ thuộc vào nguồn vốn bên ngoài. Chính phủ phải tăng cường đi vay trong nước và nước ngoài để phục vụ cho chi tiêu công. Nguyên nhân dẫn đến thâm hụt ngân sách là do chi tiêu công cao. Trong giai đoạn từ 2001 đến 2007, chi tiêu chính phủ tăng 87% trong khi đó mức thu chỉ tăng 31% khiến cho ngân sách thâm hụt vượt quá mức cho phép của khối eurozone. Theo tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD, chi tiêu cho quản lý công trong tổng số chi tiêu công của Hy Lạp năm 2004 đã cao hơn nhiều so với những nước thành viên khác trong khu vực trong khi đó chất lượng dịch vụ lại không cải thiện được nhiều. Năm 2008, khủng hoảng tài chính toàn cầu nổ ra khiến ngành công nghiệp chủ chốt của Hy Lạp bị sụt giảm về doanh thu. Ngành du lịch và vận tải biển giảm 15% trong năm 2009. Kinh tế Hy Lạp rơi vào khó khăn, nguồn thu để tài trợ cho ngân sách nhà nước bị sụt giảm, trong khi đó Hy Lạp lại phải tăng cường chi tiêu để kích thích kinh tế. Tính đến tháng 1/2010, nợ công của Hy Lạp lên đến 216 tỷ euro và mức nợ lũy kế đạt mức 130% GDP.Bên cạnh đó, Hy Lạp cũng chi tiêu không nhỏ vào các hoạt động phúc lợ, xã hội và lương hưu. Ước tính số tiền chi trả cho lương hưu khu vực công của Hy Lạp sẽ tăng 11,5% GDP trong năm 2005 lên 24% năm 2050. Nguồn thu giảm sút cũng do hệ quả của hoạt động trốn thuế và hoạt động kinh tế ngầm. Theo đánh giá của WB, khu vực kinh tế không chính thức của nước này chiếm tới 25-30% GDP. Con số này ở Việt Nam là 15,6% GDP, ở Trung Quốc là 13,1%. Hệ thống thuế với nhiều mức thuế cao và những luật lệ phức tạp khiến cho hoạt động tổ chức nhà nước kém hiệu quả, thất thoát tài sản. Bên cạnh đó, thâm hụt ngân sách còn do sự mất kiểm soát trong hoạt động cho vay của hệ thống ngân hàng. Các ngân hàng nội địa ngày càng gánh nhiều nợ xấu sau khi tăng cho vay quá mức trong điều kiện kinh tế tăng trưởng mạnh và bong bóng bất động sản phình to. Khi thị trường bất động sản này sụp đổ, nhiều phần
  49. 42 trong các khoản cho vay bất động sản trở thành nợ xấu và ngân hàng đứng trước nguy cơ sụp đổ. Để giải cứu hệ thống tài chính quốc gia không bị sụp đổ, chính phủ phải quốc hữu hóa ngân hàng lớn đồng thời tái cấp vốn cho các ngân hàng khác để tăng tỷ lệ an toàn vốn cho các tổ chức này. Đối với Tây Ban Nha, thâm hụt ngân sách bắt nguồn từ thâm hụt thương mại gia tăng, hàng hóa xuất khẩu bị cạnh tranh mạnh mẽ, lạm phát tăng cao hơn so với các nước Châu Âu khác và giá nhà đất tăng nhanh. Tây Ban Nha còn là nước phụ thuộc khá nhiều vào đầu từ nước ngoài, khi kinh tế thế giới có dấu hiệu bất ổn định, các nhà đầu tư thu hồi vốn khiến thị trường tài chính cũng như nền kinh tế Tây Ban Nha lao đao. Trước khủng hoảng nợ công, chính phủ Ireland và Tây Ban Nha đều có thặng dư ngân sách. Cả hai nước đều giữ được mức thâm hụt ngân sách và nợ theo đúng quy định thỏa ước ổn định và tăng trưởng. Thâm hụt ngân sách tại các nước này do các được hưởng một thập kỉ lãi suất thấp và sau đó chịu tác động nghiêm trọng bởi khủng hoảng tài chính. Tín dụng dễ dãi, các hộ gia đình và công ty trong lĩnh vực tài chính mạnh tay vay nợ. Hoạt động tín dụng liên biên giới phát triển mạnh mẽ. Trong cuộc khủng hoảng, tình trạng thất nghiệp trở nên tồi tệ hơn, chi phí phúc lợi xã hội tăng cao. Các chính phủ cần nguồn tiền để vực dậy nền kinh tế tuy nhiên nguồn thu hạn chế, nhà nước phải tăng cường vay nợ nước ngoài. 2.2.1.3. Đầu tư kém hiệu quả. Sự tiếp cận dễ dàng với nguồn vốn lớn khiến cho các quốc gia đầu tư lãng phí hay sử dụng nguồn vốn không hiệu quả. Gia nhập eurozone khiến cho Hy Lạp có thể tiếp cận với thị trường vốn quốc tế dễ dàng và lãi suất tương đối thấp. Đồng thời, với việc sử dụng chung một đồng tiền với các quốc gia lớn trên thế giới như Đức và Pháp khiến Hy Lạp trở thành một hình ảnh mang tính ổn định cao, vì vậy dễ dàng hút vốn đầu tư nước ngoài. Trong suốt gần một thập kỷ qua, Hy Lạp liên tục bán trái phiếu thu về hàng trăm tỷ euro. Số tiền này sẽ giúp nền kinh tế Hy Lạp tiến xa nếu như chính phủ chi tiêu hợp lý. Tuy nhiên, quốc gia này lại tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng tràn lan và không quan tâm đến kế hoạch trả nợ. Một ví dụ dễ nhận
  50. 43 thấy là việc tổ chức thế vận hội Athen 2004, một thế vận hội tốn kém nhất trong lịch sử với chi phí 12 tỷ euro khiến cho thâm hụt ngân sách quốc gia năm 2004 là 6,1%. 2.2.1.4.Quản lý nợ công kém hiệu quả. Ngoài việc chi tiêu công không hợp lý, một nguyên nhân nữa khiến Hy Lạp rơi vào khủng hoảng nợ là bộ máy quản trị tài chính công hoạt động không hiệu quả. Tham nhũng, trốn thuế là nhũng tệ nạn khiến Hy Lạp ngày càng nghèo đi, nợ nần càng tăng cao. Theo tổ chức minh bạch quốc tế, Hy Lạp là nước có tỷ lệ tham nhũng cao nhất trong EU. Không chỉ có người lao động làm việc trong khu vực công trốn thuế mà việc nhận tiền hối lộ còn khá phổ biến từ trung ương đến địa phương. Năm 2008, hơn 13% người Hy Lạp chi tới 750 triệu euro tiền phong bì cho các lãnh đạo. Tham nhũng không chỉ gây ra tình trạng trốn thuế mà còn tăng chi tiêu chính phủ nhắm tới duy trì mức lương cao cho công chức và thực hiện các dự án có vốn đầu tư lớn thay vì nhắm vào các dự án tạo ra nhiều việc làm và nâng cao năng suất lao động. Mức lương cao không chỉ tạo ra gánh nặng cho ngân sách mà còn làm tính cạnh tranh trong nền kinh tế bị sụt giảm. Lương cao, đồng euro tăng giá từ mức 1 euro đổi được 0,8 USD cho đến khi 1 euro đổi được 1,6 USD khiến sức cạnh tranh của nền kinh tế yếu và hệ quả là sụt giảm cán cân thương mại. Một vấn đề nữa trong quản lý nợ công là tính thiếu minh bạch trong thông tin. Trong suốt thời gian dài, chính phủ sử dụng những báo cáo giả về tình hình tài chính nhằm che giấu mức vay thực tế, đồng thời phù hợp với các quy định gia nhập, giám sát của eurozone. Vào năm 2000, nợ công của Hy Lạp đã vượt xa so với giới hạn quy định là 60% GDP. Với mức nợ công này, Hy Lạp đã bị EU và Ngân hàng trung ương Châu Âu (ECB) đề cập đến nhưng Hy Lạp vẫn tiếp tục vạch ra kế hoạch trả nợ và cam kết trả nợ trong tương lai, thậm chí dự kiến trong năm 2010 con số này sẽ giảm xuống 75,9%GDP do đó Hy Lạp được tham gia vào eurozone. Sau khi số liệu thật được công bố vào tháng 12 /2009, sự thiếu minh bạch trong số liệu thống kê qua các năm làm mất niềm tin các nhà đầu tư. Và kết quả là các nhà đầu tư nhanh chóng rút vốn khỏi thị trường, đẩy quốc gia gặp khó khăn trong việc huy động vốn trên thị trường quốc tế. Sự phụ thuộc vào nguồn tài chính nước ngoài đã khiến cho nước này dễ bị tổn thương trước những thay đổi trong niềm tin của giới
  51. 44 đầu tư. Khủng hoảng nợ công xảy ra một phần là do chính phủ không minh bạch về tình trạng thâm hụt ngân sách và những chính sách sắp ban hành để khắc phục khó khăn. Do sự không minh bạch thông tin, dân chúng cho rằng nền kinh tế nước này đang trên đà tăng trưởng mạnh, họ chi tiêu nhiều hơn đặc biệt là nhập khẩu hàng hóa từ nước ngoài, tiết kiệm ít hơn, dẫn đến cán cân thương mại bị thâm hụt. 2.2.2.Nguyên nhân khách quan 2.2.2.1. Điều kiện tín dụng dễ dàng Việc gia nhập khối sử dụng đồng tiền chung Châu Âu khiến các quốc gia có thể tiếp cận nguồn vốn dễ dàng với lãi suất thấp. Nguyên nhân là do các quốc gia trong cùng khối muốn hỗ trợ nhau để tạo ra một khối kinh tế vững mạnh. Lãi suất dành cho các quốc gia trong khối thấp. Đối với lãi suất công trái thời hạn 10 năm trở lên không quá 2% so với mức trung bình lãi suất của 3 nước có mức lãi suất thấp nhất.Như vậy, mức lãi suất thấp đã thôi thúc các quốc gia vay nợ nước ngoài. Nếu như các quốc gia đều kiểm soát được các khoản nợ thì eurozone sẽ không phải gặp những hậu quả như hiện nay. Khi tham gia vào eurozone, hình ảnh các nước được xây dựng với mức thâm hụt ngân sách không quá 3% GDP cũng như tỷ lệ nợ công dưới 60%GDP và biên độ dao động tỉ giá giữa các đồng tiền ổn định trong 2 năm theo cơ chế chuyển đổi ERM, lạm phát thấp không được vượt quá 1,5% so với mức trung bình của 3 nước có lạm phát thấp nhất. Với biểu tượng tốt đẹp này, khả năng hút vốn từ bên ngoài là điều dễ dàng. Ở Ireland và Tây Ban Nha, do nguồn vốn lớn, chi phí thấp nên các ngân hàng tăng cường cho vay tràn lan, đặc biệt là nhu cầu vay đầu tư vào bất động sản. Khi bong bóng bất động sản bị vỡ, ngân hàng không thể thu hồi được khoản vay trước đây thì chính phủ phải gánh chịu thay. Đồng thời, việc sử dụng chung một đồng tiền cũng gây ra những bất cập không nhỏ. Trong khu ngân hàng trung ương Châu Âu ECB đứng ra quản lý chính sách tiền tệ - công cụ kiểm soát lãi suất và tỷ giá hối đoái, các chính phủ thành viên lại quản lý chính sách tài khóa – công cụ kiểm soát thuế và chi tiêu chính phủ. Tận dụng kẽ hở này, nhiều quốc gia châu âu đã bằng mọi cách đạt được những chỉ tiêu mà khu vực sử dụng đồng euro đề ra. Do không đủ khả năng trả nợ, nhiều nền kinh tế lợi dụng hệ thống thanh toán tài chính phức tạp để che giấu những khoản nợ và thâm hụt khổng lồ. Bằng cách này, Eurozone đang tự đẩy mình vào một cuộc khủng
  52. 45 hoảng nợ trầm trọng. Do cùng sử dụng chung một đồng tiền, khi một nước lâm vào khủng hoảng nợ công, các quốc gia trong khối phải dùng quỹ của mình để giải cứu các quốc gia thành viên, tránh sự sụp đổ của đồng euro. Khi cuộc khủng hoảng nợ xảy ra tại Hy Lạp, nguy cơ mất ổn định đơn vị tiền tệ chung ở khu vực này mới được bộc lộ rõ. Trong tình huống đó, các biện pháp cấp bách được đặt ra trong đó có việc chi tiêu những khoản tiền khổng lồ để cứu vãn nền kinh tế thành viên. 2.2.2.2. Ảnh hưởng từ khủng hoảng kinh tế thế giới 2008 Năm 2008, những khó khăn trong nền kinh tế Mỹ đã dẫn đến tình trạng đóng băng trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng Châu Âu. Châu Âu phải tăng chi tiêu công để kích thích nền kinh tế vượt qua khủng hoảng. Để đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính 2008, các quốc gia trong khu vực Eurozone dễ dàng vay tiền của các thành viên khác. Tuy nhiên, mức độ vay mượn quá mức, không tương thích tốc độ tăng trưởng kinh tế đã đẩy tình trạng thâm hụt ngân sách và mức nợ công tăng lên chóng mặt, vượt kiểm soát của chính phủ các nước. 2.3.Tác động của khủng hoảng nợ công Châu Âu 2.3.1. Đối với các quốc gia thành viên 2.3.1.1. Khủng hoảng hệ thống ngân hàng Khi các nhà lãnh đạo EU nỗ lực hợp nhất nền tài chính khu vực để trở thành một liên minh kinh tế lớn nhất thế giới thì những phản hồi tiêu cực về mối liên hệ giữa hệ thống tài chính và nợ công vẫn tiếp tục được đặt ta. Điều đáng quan tâm là tình trạng nợ công ở các nước không giống nhau. Nếu như Hy Lạp tình trạng khủng hoảng của hệ thống tài chính xảy ra trước gây áp lực lên hệ thống tài chính thì ở Ireland và Bồ Đào Nha lại diễn biến theo hướng ngược lại. Trước hết, chính phủ phải hỗ trợ hệ thống ngân hàng thông qua hệ thống ngân sách. Điều này khiến một lượng tiền lớn phải chi ra từ ngân sách. Trong một số trường hợp, tình hình thu nhập công suy giảm do suy thoái kinh tế nhưng vẫn phải áp dụng các biện pháp kích thích tài chính, áp lực lên ngân sách chính phủ lại càng nặng nề hơn. Với những nước đối mặt với rủi ro hệ thống do mất cân bằng tài chính nghiêm trọng, sự yếu kém của tài chính công có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến giá thị trường trái phiếu chính phủ, từ đó ảnh hưởng xấu đến bảng cân đối kế
  53. 46 toán các ngân hàng có nắm giữ loại trái phiếu này. Khi ngân sách thâm hụt, chính phủ gặp khó khăn trong việc thu hút vốn huy động thông qua thị trường mở. Nói cách khác, giá trị trái phiếu chính phủ sụt giảm ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn trên thị trường bán buôn của các ngân hàng. Thông thường, các tổ chức xếp hạng tín nhiệm thường liên hệ xếp hạng chính phủ với xếp hạng của hệ thống ngân hàng nước này. Hơn nữa, mức lãi suất huy động trên thị trường bán buôn có mối quan hệ chặt chẽ với mức lãi suất yêu cầu của trái phiếu chính phủ. Điều này có nghĩa khi hạng mức xếp hạng của chính phủ bị đáng tụt hạng, chi phí huy động vốn tăng thì hệ thống ngân hàng cũng gặp phải rủi ro tương tự. Thậm chí, trên thị trường vốn có ký quỹ, các ngân hàng lớn thường từ chối cấp tín dụng cho các ngân hàng sử dụng trái phiếu chính phủ làm tài sản thế chấp khi các nước phát hành trái phiếu này có dấu hiệu rủi ro tài chính công. Như vậy, tài chính công và hệ thống ngân hàng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, đứng trước những khó khăn của hệ thống tài chính công, lòng tin vào thị trường sụt giảm bởi khả năng xảy ra suy thoái đang đe dọa. Cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu hiện nay nổ ra mà điển hình tại Hy Lạp là do giới ngân hàng và bảo hiểm mua những giấy nhận nợ của chính phủ để cung cấp nguồn tín dụng dồi dào cho hoạt động chi tiêu của nhà nước. Do nhà nước không có khả năng trả được khoản nợ này, nợ công bùng nổ. Hậu quả là các ngân hàng trong nước không thể thu hồi được khoản cho vay của mình và phải cắt giảm nắm giữ trái phiếu chính phủ quốc gia có tỷ lệ nợ công cao bằng cách bán tháo trái phiếu. Khi sự cắt giảm này áp dụng đối với quốc gia nào thì lãi suất trái phiếu chính phủ quốc gia đó tăng lên để thu hút nguồn vốn. Như vậy, khủng hoảng nợ công làm cho khả năng hút vốn của chính phủ giảm, chi phí khoản vay tăng lên, lại gây áp lực lên lãi suất thị trường. Bên cạnh đó, khi khủng hoảng nợ công xảy ra, người dân không tin tưởng vào hệ thống tài chính quốc gia, sẽ ồ ạt đi rút tiền ảnh hưởng đến tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng. Hơn thế nữa, các nhà đầu tư sẽ yêu cầu lãi suất cao hơn hoặc từ chối cho vay mượn trước nỗi lo về khả năng vỡ nợ của các quốc gia đó. Sự cạnh tranh vốn của chính phủ cho những khoản nợ vay sẽ đẩy lãi suất lên cao, gây khó khăn cho khả năng tiếp cận nguồn vốn của doanh nghiệp, nhà đầu tư tư nhân. Hiện cả 3 nước Hy Lạp, Ireland và Bồ Đào Nha đang phải đối mặt với áp lực này.